Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào
giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân nổ ra và phát triển hầu hết ở các
châu lục trên thế giới (Á, Phi, Mỹ Latinh…), thắng lợi của nó đã làm cho hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân củ sụp đổ từng mảng lớn. Cho đến những năm 60
của thế kỉ XX, chủ nghĩa thực dân cũ về cơ bản đã bị thanh toán nhưng chủ nghĩa
thực dân vẫn chưa chết. Các nước Âu-Mỹ không dễ gì từ bỏ lòng tham của mình ở
những vùng đất béo bở để làm giàu cho chính quốc.
Trước những biến đổi của tình hình thế giới
cũng như sự kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đến cùng của nhân dân
khắp nơi trên thế giới[1]
, một mặt đã buộc chủ nghĩa thực dân phải từng bước trao trả độc lập cho các
dân tộc bị nô dịch, mặc khác nó cũng tìm cách điều chỉnh để thích ứng với tình
hình mới, với những chính sách, hình thức thống trị mới thay cho hình thức cũ
trước đây để thắt chặt vòng vây đối với các nước thuộc địa, phụ thuộc. Đó là chủ
nghĩa thực dân mới (hay còn gọi là chủ nghĩa thực dân trá hình, chủ nghĩa thực
dân linh hoạt).
Thực ra, mầm móng chủ nghĩa thực dân mới đã
xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX đầu XX với sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân Mỹ.
Trong thời kì này, vấn đề phân chia thuộc địa giữa các cường quốc đế quốc đã kết
thúc. Phần lớn các thuộc địa đã rơi vào tay các nước “đế quốc già” (Anh, Pháp, Tây Ban Nha…), các các nước “đế quốc trẻ” (Mỹ, Nhật, Đức…) đã bị thua
thiệt vì đã bước vào “bàn tiệc” muộn. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề
thuộc địa trở nên hết sức gay gắt, dẫn đến việc dùng vũ lực để gây chiến tranh
phân chia lại thuộc địa như Đức, Nhật. Riêng Mỹ lại nghiên về dùng hình thức thực
dân linh hoạt hơn, dùng sức mạnh về kinh tế và tài chính để ràng buộc những nước
vừa mới giành được độc lập về chính trị. Mỹ là đế quốc đi tiên phong trong việc
nô dịch các nước ở khu vực Mỹ Latinh bằng hình thức mới sau khi các nước này thoát khỏi ách thống trị
của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Và khu vực này hiển nhiên trở thành “sân sau” của Mỹ.
Có thể nói rằng, chủ nghĩa thực dân mới ra đời
không phải là biểu hiện sức mạnh của chủ nghĩa đế quốc mà là biểu hiện thế yếu,
thế thua của chúng trước phong trào giải phóng dân tộc nổi lên vữ vũ bão. Đồng
thời cũng nói lên tính linh hoạt của chủ nghĩa thực dân trước những biến đổi của
tình hình thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân mới không chỉ là phản ứng
của chủ nghĩa đế quốc-thực dân trước những đòn đả kích của phong trào giải
phóng dân tộc ngày càng mạnh mẽ, mà còn là sự tranh chấp với chủ nghĩa xã hội ở
khu vực trung gian (các nước mới giải phóng), nhằm ngăn chặng ảnh hưởng của
CNXH ngày càng lang rộng ra khắp thế giới vào những năm 60-70 của thế kỉ XX.
Về bản
chất,
so với chủ nghĩa thự dân cũ thì chủ nghĩa thực dân mới không có gì khác nhau. Cả
hai đêì nhằm mục đích duy trì ách áp bức, bóc lột các nước chậm phát triển. Tuy
nhiên về mục tiêu mang tính chiến lược và hình thức biểu hiện của chủ nghĩa thực
dân mới có những điểm dị biệt.
Về mục
tiêu chiến lược, chủ nghĩa thực dân mới đưa ra hai điểm chủ
yếu:
+ Duy trì sự bóc lột ở các nước thuộc địa, thụ
thuộc, chậm phát triển (về tài nguyên thiên nhiên, nhân công rẻ mạt), biến các
nước này thành nơi đầu tư và tiêu thụ hàng hóa cho các công ty tư bản và logich
tiếp theo là các nước này hòa nhập vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
+ Ngăn chặn các nước mới giải phóng tiến vào
quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Hai mục tiêu chiến lược này thể hiện hai mặt
chính trị và kinh tế của chủ nghĩa đế quốc và có liên quan mật thiết với nhau,
đạt được mục tiêu này tất yếu phải đạt được mục tiêu còn lại. Trong đó, thực hiện
mục tiêu kinh tế là mục tiêu cấp bách, sống còn của chủ nghĩa đế quốc. Bởi vì,
các nước thuộc địa, phụ thuộc hay các nước mới giải phóng là nơi các nước tư bản trút gánh nặng của những cuộc
khủng hoảng hay suy thoái kinh tế ở chính quốc, vừa là nơi cung cấp nguồn lực
cho các nước tư bản phát triển. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện trong cuốn
“Bàn về thế giới thứ ba” thì có tới
90% nguyên liệu Nhật Bản sử dụng từ các nước đang phát triển cung cấp hay trong
cuốn sách “Cuộc chiến tranh thật sự”,
Tổng thống Mỹ R.Nixon cũng phải thừa nhận “”Ngay cả Hoa Kì là nước có tài
nguyên phong phú cũng tùy thuộc rất nhiều vào việc nhập khẩu nhiều thứ quặng
không thể thiếu đối với một nền kinh tế hiện đại”.
So với thời kì chủ nghĩa thực dân cũ còn tồn
tại, sự bóc lột kinh tế ở các nước thuộc địa và các nước đang phát triển của chủ
nghĩa thực dân mới có hiệu quả hơn, tinh vi và xảo quyệt hơn.
Mục tiêu chiến lược ngăn chặn các nước mới giải
phóng tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội, đối với chủ nghĩa đế quốc là mục
tiêu rất quan trọng, ở nhiều thời điểm có ý nghĩa quyết định thì mục tiêu này
được đặt lên hàng đầu, mục tiêu kinh tế tạm xếp xuống hàng thứ yếu. Trước mắt,
chủ nghĩa đế quốc đổ nhiều tiền của, vũ khí vào các nước này quyết giữ cho được
nước đó trong quỹ đạo của chúng, ngăn chặn “nguy
cơ cộng sản” xâm nhập vào đây.[2]
Về hình thức biểu hiện, chủ nghĩa thực dân cũ
đem quân xâm chiếm, xóa bỏ nền độc lập của các nước thuộc địa, đặt bộ máy cai
trị trức tiếp với những phó vương hay toàn quyền và một hội đồng giúp việc trực
tiếp cùng hệ thống các quan lại cấp dưới và với đội quân viễn chinh khổng lồ được
trang bị đầy đủ. Chúng dùng giai cấp phong kiến thống trị cũ làm tay sai, bù
nhìn để đàn áp, bóc lột nhân dân. Chính sách như vậy tỏ ra rất thô thiển và tàn
bạo…Do đó, chủ nghĩa thực dân mới lại chuyển từ sự chiếm đóng, cai trị trực tiếp
sang sử dụng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm chống lại phong trào
giải phóng dân tộc thế giới như xây dựng bộ máy tay sai người bản xứ, thông qua
nó để thống trị nhân dân. Bộ máy tay sai của chúng (ngụy quân, ngụy quyền) đều
đặt dưới sự điều khển của đội ngũ cố vấn có đầy kinh nghiệm thống trị. Chúng
còn dùng “viện trợ” kinh tế, quân sự để các thuộc địa kiểu mới này hoàn toàn phụ
thuộc vào chúng với danh nghĩa “độc lập”. Mặc dù dùng đội ngũ tay sai để thống
trị nhân dân, đứng đằng sau giật giây, điều khiển đội ngũ này để phục vụ cho
các mục tiêu chiến lược của mình, nhưng chủ nghĩa thực dân mới không phải vì thế
mà dấu được bộ mặt tàn ác của nó như việc sử dụng những hình thức chiến lược
chiến tranh (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ) ở Việt Nam là một ví dụ
điển hình, thể hiện cho sự tàn ác của nó hơn cả chủ nghĩa thực dân cũ.
Chủ nghĩa thực dân mới nói chung sử dụng nhiều
phương tiện, công cụ để thâm nhập vào các nước (Á, Phi, Mỹ Latinh) như chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa…việc sử dụng những loại công cụ khác nhau cũng làm
cho chủ nghĩa thực dân cũ và mới cũng có những điểm khác nhau. Nếu như chủ
nghĩa thực dân cũ, công cụ chính trị và quân sự giữ vai trò chủ đạo thì chủ
nghĩa thực dân mới thì vai trò đó thuộc về công cụ kinh tế, tài chính và kĩ thuật.
Chủ nghĩa thực dân cũ thường dùng công cụ chính trị làm chỗ dựa để bóc lột kinh
tế thì chủ nghĩa thực dân mới lại dùng công cụ kinh tế để bóc lột kinh tế và giữ
nước đó phụ thuộc vào chính trị. Sự viện trở kinh tế, tài chính hay kĩ thuật
cho các nước Á, Phi, Mỹ Latinh xuất phát trước hết từ lợi ích của các nước viện
trợ, ràng buộc các nước nhận viện trợ vào phạm vi ảnh hưởng kinh tế và chính trị
của các nước cung cấp viện trợ. Nói như vậy không có nghĩa rằng phủ nhận tất cả
ý nghĩa tích cực của viện trợ, nếu như viện trợ đó không kèm theo điều kiện
ràng buộc về chính trị hay kinh tế không bình đẳng.
(*)
Võ Minh Tập, Lớp sau đại học, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. ĐỖ
Thanh Bình (chủ biên, 1999), Con đường cứu nước đấu tranh giải phong dân tộc ở
một số nước châu Á, Nxb ĐHQG Hà Nội.
2. D.G.E.Hall
(1997), Lịch sử Đông Nam Á (sách tham khảo), Nxb CTQG Hà Nội.
3. Nguyễn
Khắc Viện (1985), Bàn về “thế giới thứ ba”, Nxb Thông tin lý luận Hà Nội.
[1] Đặc biệt trong làng sóng đấu tranh của các nước
XHCN trên diễn đàn quốc tế, cũng như việc Liên Hợp quốc thông qua hai bản Tuyên
ngôn: Tuyên ngôn về việc thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân và trao trả độc
lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa (1960); Tuyên ngôn về việc thủ tiêu tất
cả các hình thức chế độ phân biệt chủng tộc (1963).
[2]
Trường hợp ở Miền Nam Việt Nam, sau đó là cả Đồn Dương là một ví dụ. Thất bại của
Mỹ năm 1975 ở Đông Dương là thất bại có tính chiến lược thứ hai, tuy nhiên
không vì thế mà Mỹ từ bỏ mục tiêu ngăn chặn làng sóng xâm nhập của “chủ nghĩa cộng
sản”.