Chế Lan Viên là một hiện tượng độc đáo
trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Năm 16 tuổi, quyển Điêu tàn của ông "đã
đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị" (Hoài
Thanh). Nhận xét ấy đúng đâu phải chỉ với tập thơ đầu tay, mà với cả sự
nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Đặc biệt là với những tập Di cảo ra đời sau
khi nhà thơ đã mất.
Cuộc
đời và sự nghiệp của nhà thơ Chế Lan Viên gắn bó chặt chẽ với nhà văn
Vũ Thị Thường, một cây bút truyện ngắn gần gũi với mảng đề tài nông thôn
Việt Nam.
Từ khi Chế Lan Viên qua đời, nhà văn Vũ Thị Thường đã coi việc sưu tầm,
góp nhặt, tuyển chọn và xuất bản những di cảo thơ của ông là công việc
quan trọng nhất của đời mình.
Cách đây nhiều năm, trong chương trình Điểm tựa tài năng, một chương trình rất có ý nghĩa, nhằm tôn vinh những người mẹ, người vợ của các bậc tài danh của đất nước do Nhà văn hoá Lao động và Báo Phụ nữ T.P HCM kết hợp tổ chức, bà Vũ Thị Thường đã khiến bao khán giả phải trào nước mắt vì xúc động, khi nghe bà kể lại những kỷ niệm trong đời sống thường ngày cũng như trong hoạt động sáng tạo của cặp vợ chồng nghệ sĩ này.
Tình yêu và lòng quý trọng đối với người chồng là một nhà thơ có tài đã giúp bà có thêm lòng quyết tâm và nghị lực khi bắt tay vào thực hiện công việc của mình. Ba tập Di cảo thơ ra đời có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp cho nhiều thế hệ bạn đọc có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại.
Tuy vậy Chế Lan Viên còn có một cuộc đời khác. Hay nói chính xác hơn, cuộc đời ông còn có thời kỳ gắn bó với một người phụ nữ khác - là người vợ đầu của ông. Nhưng người ta ít nói đến vì một lẽ đơn giản là hai người đã chia tay nhau từ lâu. Mọi chuyện đã trở thành quá khứ.
Sau khi chia tay cả hai người đều đã có một gia đình khác, một cuộc sống khác. Nhưng chắc chắn rằng người phụ nữ ấy đã có thời là tất cả tình yêu của nhà thơ Chế Lan Viên. Và điều đáng nói hơn cả ở đây là cuộc chia tay của họ có một vẻ gì đó thật khác thường, được ghi dấu bằng một bài thơ tứ tuyệt chưa bao giờ được công bố.
Từ nỗi đau của sự chia cắt và
ly biệt, từ cảnh ngộ của riêng mình nhà thơ đã gửi gắm tình cảm của mình
qua những câu thơ giản dị, chân thành mà trĩu nặng ưu tư. Để có thể
hiểu rõ hơn hoàn cảnh ra đời của bài thơ, xin được nói đôi lời về người
đàn bà đã từng đi qua đời nhà thơ Chế Lan Viên, vào những năm tháng trẻ
trung, sôi nổi nhất.Cách đây nhiều năm, trong chương trình Điểm tựa tài năng, một chương trình rất có ý nghĩa, nhằm tôn vinh những người mẹ, người vợ của các bậc tài danh của đất nước do Nhà văn hoá Lao động và Báo Phụ nữ T.P HCM kết hợp tổ chức, bà Vũ Thị Thường đã khiến bao khán giả phải trào nước mắt vì xúc động, khi nghe bà kể lại những kỷ niệm trong đời sống thường ngày cũng như trong hoạt động sáng tạo của cặp vợ chồng nghệ sĩ này.
Tình yêu và lòng quý trọng đối với người chồng là một nhà thơ có tài đã giúp bà có thêm lòng quyết tâm và nghị lực khi bắt tay vào thực hiện công việc của mình. Ba tập Di cảo thơ ra đời có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp cho nhiều thế hệ bạn đọc có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại.
Tuy vậy Chế Lan Viên còn có một cuộc đời khác. Hay nói chính xác hơn, cuộc đời ông còn có thời kỳ gắn bó với một người phụ nữ khác - là người vợ đầu của ông. Nhưng người ta ít nói đến vì một lẽ đơn giản là hai người đã chia tay nhau từ lâu. Mọi chuyện đã trở thành quá khứ.
Sau khi chia tay cả hai người đều đã có một gia đình khác, một cuộc sống khác. Nhưng chắc chắn rằng người phụ nữ ấy đã có thời là tất cả tình yêu của nhà thơ Chế Lan Viên. Và điều đáng nói hơn cả ở đây là cuộc chia tay của họ có một vẻ gì đó thật khác thường, được ghi dấu bằng một bài thơ tứ tuyệt chưa bao giờ được công bố.
Nhà thơ Chế Lan Viên (thứ 2 từ trái sang) cùng các nhà thơ Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn. Ảnh: A.T. |
Bà tên là Nguyễn Thị Giáo. Bà Giáo vốn là bạn đồng trang lứa và lại là người đồng hương Đà Nẵng với cha tôi - nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Cụ thân sinh ra bà là thầy giáo dạy cha và các chú tôi (Lưu Quý Thảo, Lưu Trùng Dương) ở một trường trung học tại thành phố Đà Nẵng những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Chế Lan Viên cũng có thời từng là học trò của cụ. Thời con gái, bà Giáo được nhiều chàng trai ở thành phố biển Đà Nẵng thầm yêu trộm nhớ, vì vẻ đẹp mặn mòi và nét duyên dáng của một cô tiểu thư khuê các. Nhưng bà đã nặng lòng với người thi sĩ mang họ Chàm từ khá sớm. Vượt qua nhiều khó khăn trở ngại từ phía gia đình, bà nhất quyết đi theo tiếng gọi của lòng mình.
Tháng 9 năm 1943, hai người tổ chức đám cưới. Khi đó Chế Lan Viên 23 tuổi và cô thiếu nữ Nguyễn Thị Giáo vừa tròn 18 tuổi. Cuộc sống hạnh phúc của ông bà kéo dài được 15 năm. Kết quả của tình yêu đó là ba người con, hai trai (Phan Lai Triều, Phan Trường Định) và một gái (Phan Thị Chấn Thanh) lần lượt ra đời.
Năm 1958, sau một chuyến đi chữa bệnh dài ngày ở Trung Quốc của nhà thơ Chế Lan Viên, gia đình ông gặp chuyện sóng gió. Khi thấy nguy cơ đổ vỡ của gia đình, Chế Lan Viên rất đau khổ và không hề muốn điều đó xảy ra. Ông sẵn lòng chấp nhận tất cả, sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện để giữ được tổ ấm của mình.
Tình yêu còn đến đâu thì chưa biết, nhưng chắc chắn ông thương các con của mình, khi đó đang còn bé dại cả. Nhưng có thể vì lòng tự ái hay vì một lí do riêng nào đó mà bà Giáo từ chối mọi lời đề nghị của Chế Lan Viên. Cuộc chia tay không thể nào tránh khỏi. Mọi lời khuyên can, hòa giải đều vô ích. Bạn bè văn nghệ sĩ và những người đồng hương đều tiếc cho hai ngưòi.
Ngày hai ông bà ra tòa chia tay nhau có mặt cha tôi. Ông đến dự phiên toà với tư cách là đại diện cơ quan (ngày đó ly hôn phải có đại diện cơ quan) và với tư cách là bạn lâu năm của cả hai người. Cha tôi kể lại rằng suốt buổi hôm đó Chế Lan Viên ngồi im lặng. Sau khi đã xong hết mọi thủ tục, trước khi ra về, ông mới lặng lẽ đứng lên và đọc bài thơ, thay cho lời nói cuối cùng.
Đến chỗ đông người anh biệt emQuay đi thôi chớ để anh nhìn Mày em trăng mới in ngần thậtCắt đứt lòng anh trăng của emSự việc đó khiến mọi người vô cùng sửng sốt. Đúng là có một không hai.
Thông cảm với nỗi đau của ông, người ta càng thêm kính trọng nhân cách và lòng nhân hậu, vị tha của một thi sĩ tài năng. Nếu ai đã gặp bà Giáo, thì càng thấy cảm phục cái tài và cái tình của Chế Lan Viên. Nét nổi bật nhất trên gương mặt của bà Giáo là cặp lông mày hình vòng cung, cong như lá liễu.
Khi đã là một người đàn bà ở tuổi 80, đôi lông mày của bà vẫn còn nguyên nét mảnh mai, son trẻ như mảnh trăng đầu tháng. Ấn tượng mà bài thơ từ biệt của Chế Lan Viên để lại trong lòng cha tôi thật sâu đậm. Nhiều năm sau này ông vẫn còn kể về nó. Đặc biệt là sau những lần bà Giáo đến nhà thăm cha tôi, cùng với những người bạn đồng hương.
Nhiều năm tháng đã đi qua trong cuộc đời mỗi người. Nhà thơ Chế Lan Viên và bà Nguyễn Thị Giáo từ lâu đều đã có một gia đình khác, có những niềm hạnh phúc khác. Nhưng chắc rằng những tháng năm chung sống cùng nhà thơ Chế Lan Viên đã trở thành một phần đời không dễ nguôi quên đối với bà Giáo.
Trong một lần trò chuyện với anh Phan Lai Triều, con trai cả của nhà thơ và bà Giáo, tôi được biết rằng khi nhà thơ Chế Lan Viên đang đau nặng, nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, bà Giáo đã yêu cầu anh đưa bà vào thăm. Nhưng để tránh sự xúc động quá lớn cho cả hai người, anh Triều đã khuyên mẹ không nên gặp lại cha mình khi cả hai đều đang đau yếu (lúc đó bà Giáo mới trải qua một cơn tai biến não).
Bà Giáo đã nghe theo lời con trai và ra về, chỉ nhờ anh chuyển đến Chế Lan Viên một chút quà. Hiện nay tuổi đã cao, sức yếu, bà sống với con tại TP HCM. Cách đây hơn nửa thế kỷ nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nói về Chế Lan Viên: "Con người này quả là người của trời đất, của bốn phương, không thể lấy kích tấc thường mà hòng đo được".
Tất nhiên chúng ta đều hiểu rằng nhận xét đó là để nói về thơ của ông. Nhưng chỉ qua một bài thơ tứ tuyệt được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy, chúng ta thấy lời khen ấy thật là xác đáng cả về tài năng cũng như tấm lòng của một thi sĩ mà tầm vóc đã vươn tới một chiều kích khác
Lưu Khánh Thơ