VIỆT NAM VÀ LIÊN HỢP QUỐC
A. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ LIÊN HỢP QUỐC
1. Thành lậpLiên hợp quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương Liên hợp quốc được Trung quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi "Liên hợp quốc" đã được Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên ngôn của Liên hợp quốc" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít.
Việc Liên
hợp quốc ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều
yếu tố khác nhau, như: vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc
giữ gìn hoà bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới
thứ hai cùng những hậu quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn
lao của các nước trong việc thiết lập một thể chế toàn cầu có vai trò
hiệu quả hơn đối với hoà bình và an ninh quốc tế.
Sự thất
bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên hợp quốc) đã đặt ra yêu cầu
phải thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy
trì hoà bình và an ninh quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống an
ninh tập thể của Hội Quốc Liên tỏ ra không hiệu quả vì không được sự
quan tâm ủng hộ của các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh
thế giới thứ nhất chưa đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền
lợi hoà bình của họ đòi hỏi cần có một trật tự quốc tế với các quyền lợi
quốc gia truyền thống làm ưu tiên hàng đầu. Hội Quốc Liên trở thành một
thể chế cứng nhắc, không thể hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập
các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn các hoạt động bành trướng quyền
lực của một số cường quốc.
Với ý
định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một
cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong
quan hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh -
Anh, Mỹ và Liên Xô - đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng
tại Tê-hê-ran (tháng 11/1943) và I-an-ta (tháng 2/1945). Nội dung trao
đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu
và tương lai của Liên hợp quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức
Liên hợp quốc tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước
đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh.
Tại I-an-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số điểm
then chốt trong việc thiết lập tổ chức Liên hợp quốc: chấp nhận ghế
thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành
quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an,
Liên hợp quốc có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến Hội
nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (thực chất chủ yếu là
Mỹ và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thoả thuận thành lập cơ chế để giải
quyết các vấn đề sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của
Đức và xác định lại biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5
nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở
thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội
nghị Xan Phran-xít-xcô tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương Liên hợp
quốc. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức Liên hợp quốc đã chính thức được
thành lập với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Sự ra đời của Liên
hợp quốc đã chấm dứt hoàn toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường
quốc châu Âu dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền
lực trên cơ sở Liên hợp quốc là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương
tác trong từng vấn đề giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an (còn gọi là P5), tập hợp các nước phương
Tây/phát triển, tập hợp các nước Á–Phi–Mỹ La-tinh/đang phát triển, trong
đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt.
2. Tôn chỉ mục đích
Theo Hiến
chương Liên hợp quốc, các quốc gia sáng lập đã quyết tâm thiết lập Liên
hợp quốc thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là
bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững. Theo Điều 1 của
Hiến chương, Liên hợp quốc được thành lập nhằm 4 mục tiêu: (1) Duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế; (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc
gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân
tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông
qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự
do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn
ngữ và tôn giáo; (4) Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hoà các
nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung.
Để bảo
đảm Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ mục tiêu chung
của cộng đồng quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định các
nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Liên hợp quốc, các nguyên tắc chủ đạo
gồm: (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh
thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc
nội bộ các nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc
tế; (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
Các mục
tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên hợp quốc mang tính bao quát,
phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên
này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên
trong tổ chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về
số lượng thành viên, Liên hợp quốc tập trung vào các vấn đề phi thực
dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
Apácthai. Trong thời kỳ gần đây Liên hợp quốc ngày càng quan tâm nhiều
hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của Liên hợp quốc
trong gần 60 năm qua cho thấy trọng tâm chính của Liên hợp quốc là duy
trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các
quốc gia thành viên.
Đặc điểm
bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một nhà nước
siêu quốc gia. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có
những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và
điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Theo Điều 2
mục 7 của Hiến Chương, Liên hợp quốc không được can thiệp vào các vấn đề
thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham gia
Liên hợp quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được
phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và
nghị quyết tại Đại Hội Đồng Liên hợp quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có
một phiếu).
Một đặc
điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp
và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được
thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc - cơ
quan chấp hành có thực quyền nhất của Liên hợp quốc và đảm nhiệm trách
nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Chỉ các quyết định của HĐBA mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị
quyết tại các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội
đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có
tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và
thu hút sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc là cơ quan duy nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto)
khi thông qua các nghị quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội
đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết
hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế.
So với
Hội Quốc Liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu
(thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc
biệt là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn
đề duy trì hoà bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì
phát triển kinh tế–xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân hệ thống
Liên hợp quốc bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức
chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan
hệ quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông
nghiệp, văn hoá, khoa học–kỹ thuật...
Tổ chức
Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị
quốc tế trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất
hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt
quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói
chung. Tuy nhiên, sự ra đời của Liên hợp quốc và bản thân Hiến chương
Liên hợp quốc tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn và
triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối
với hoà bình an ninh quốc tế trong gần 60 năm qua là rất đáng kể. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, Liên hợp quốc
không thể hiện được vai trò của mình hoặc có thể nói Liên hợp quốc chưa
làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có vai trò lớn và nhiều
khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết định của Liên hợp
quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hiến
chương Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.
| ||
II. CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HỢP QUỐC
Liên hợp
quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng
Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký.
1. Đại hội đồng Liên hợp quốc
Các qui định của Hiến
chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong chương IV (từ Điều 9
đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu cử và thủ
tục. Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được nêu ở một
số điều khoản khác.1.1. Thành viên
Đại hội
đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên hợp quốc. Từ 51 thành
viên ban đầu (những nướsc có đại diện dự Hội nghị tại Xan Phranxixcô
hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên hợp quốc ngày 1/1/1942, và những nước đã
ký và phê chuẩn Hiến chương Liên hợp quốc), số thành viên LHQ cho đến
giữa 2004 là 191. Khác với Hội đồng Bảo an, các thành viên Đại hội đồng
đều là các thành viên bình đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ,
mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.
Các nước thành viên được
chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu vào các cơ quan cơ chế
Liên hợp quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh
và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước khác. Cho đến ngày
31/5/2003, E-xtô-ni-a, Ki-ri-ba-ti, Đông Ti-mo và Pa-lau không thuộc
nhóm khu vực nào. 1.2. Chức năng quyền hạn
1.2.1.
Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà
bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ
quân bị và các qui định về quân bị;
1.2.2.
Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ
trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội
đồng Bảo an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;
1.2.3.
Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có
tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc;
1.2.4.
Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát
triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người
và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục và y tế;
1.2.5. Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
1.2.6. Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cơ quan khác thuộc Liên hợp quốc;
1.2.7. Xem xét, thông qua ngân sách Liên hợp quốc và phân bổ đóng góp của các nước thành viên;
1.2.8.
Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các
thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội , các thành viên được bầu vào Hội
đồng Quản thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà án quốc tế,
và bầu Tổng thư ký Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến nghị của
Hội đồng Bảo an.
Theo nghị
quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại Đại hội
đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo an,
vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành
động trong một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình
hoặc hành động xâm lược. Đại hội đồng được quyền xem xét vấn đề ngay lập
tức để có khuyến nghị với các nước thành viên thực hiện các biện pháp
tập thể, trong trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao gồm biện
pháp sử dụng vũ lực khi cần thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và
an ninh quốc tế.
| ||
1.3. Các khoá họp và Cơ cấu:
1.3.1 Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ và khoá họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
* Khoá họp thường kỳ:
Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết định khoá họp thường
kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3
của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị
quyết cũng quy định buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến
hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài
liên tục trong 9 ngày. Các quy định này được áp dụng từ khóa họp thường
kỳ thứ 58 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Các khoá họp sẽ được tổ chức
tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu Oóc, trừ khi tại khoá họp trước đó
Đại hội đồng quyết định hoặc đa số các thành viên Liên hợp quốc yêu cầu
tổ chức họp ở nơi khác. Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các
nhóm khu vực luân phiên đề cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị
sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp
tham gia thường ở cấp cao như Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao... Các nước thành viên bày tỏ
lập trường quan điểm về những vấn đề quốc tế quan tâm. Sau đó, 6 Uỷ ban
của Đại hội đồng bắt đầu nhóm họp song song với Đại hội đồng. Phần lớn
các đề mục được thảo luận tại Uỷ ban trước khi đưa ra Đại hội đồng, một
số được thảo luận thẳng tại Đại hội đồng.
* Khoá đặc biệt thường kỳ:
Do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập, theo yêu cầu của Hội đồng Bảo
an hoặc đa số các nước thành viên Liên hợp quốc. Khoá họp đặc biệt
thường kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận
được yêu cầu trừ khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc
biệt từ trước. Sau đó, Tổng thư ký sẽ thông báo cho các nước thành viên
ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải
trước 10 ngày. Cho tới nay, đã có 27 khoá họp đặc biệt thường kỳ trong
đó chủ yếu là theo yêu cầu của Đại hội đồng. Chủ đề của các khoá họp bao
gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở
lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu xoay
quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi
trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS. Điều này cho thấy rõ xu thế của của
Liên hợp quốc sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát
triển.
* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp:
Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi Tổng thư ký nhận được
yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số các
nước thành viên Liên hợp quốc. Khoá họp này phải được thông báo cho các
nước thành viên ít nhất trước 12 giờ. Cho tới nay đã có 10 khóa họp đặc
biệt khẩn cấp được triệu tập, trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu
của Hội đồng Bảo an còn lại là của các nước đặc biệt quan tâm đến tình
hình xung đột. Vì mang tính khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này
cũng có những nét khác so với các khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các
khoá họp đặc biệt khẩn cấp thường bàn về các vấn đề chính trị cụ thể như
giải quyết xung đột khu vực hoặc trong bản thân một nước (vấn đề Trung
đông 1956, Hungary 1956, Trung đông 1958, Congo 1960...).
Khi muốn
yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có một
quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ
phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến chương quy định các khoá họp đặc biệt được
triệu tập theo yêu cầu của đa số thành viên Liên hợp quốc nhưng trên
thực tế cho đến nay chưa có một yêu cầu nào được đưa ra và có chữ ký của
đa số nước thành viên. Thay vào đó, một nước thành viên sẽ trình yêu
cầu triệu tập khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký Liên hợp quốc. Tổng thư
ký sẽ ngay lập tức thông báo các nước thành viên khác và hỏi ý kiến của
họ về yêu cầu này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày
thì một khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập.
* Kết quả của các khoá họp
thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được thông qua (các hình
thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động). Các nghị
quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá
trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông
đảo các nước thành viên Liên hợp quốc.
1.3.2. Cơ cấu: Có 6 Uỷ ban chính:
+ Uỷ ban 1: Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế
+ Uỷ ban 2: Kinh tế - Tài chính
+ Uỷ ban 3: Văn hoá - Xã hội - Nhân đạo
+ Uỷ ban 4: Chính trị đặc biệt và Phi thực dân hoá
+ Uỷ ban 5: Hành chính - Ngân sách Liên hợp quốc
+ Uỷ ban 6: Luật pháp quốc tế
Ngoài ra còn có các Uỷ ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ tục của Đại hội đồng:
* Các Uỷ ban thủ tục;
* Các Uỷ ban thường trực;
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ.
* Các Uỷ ban thủ tục
+ Uỷ ban chung
Uỷ ban
này gồm Chủ tịch Đại hội đồng, 21 phó chủ tịch và 6 chủ tịch các uỷ ban
chính. Uỷ ban này xem xét chương trình nghị sự tạm thời và danh sách các
vấn đề bổ sung, xem xét các đề nghị về việc bổ sung các đề mục vào
chương trình nghị sự, bố trí sắp xếp các đề mục vào các uỷ ban và trình
báo cáo lên Đại hội đồng để được phê duyệt. Uỷ ban này giúp Chủ tịch Đại
hội đồng vạch ra chương trình nghị sự cho các cuộc họp toàn thể, quyết
định các đề mục trọng tâm, phối hợp công việc giữa các Uỷ ban, và nói
chung làm các việc của Đại hội đồng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch. Uỷ
ban cũng có thể đưa khuyến nghị cho Đại hội đồng về thời gian kết thúc
của các khoá họp. Tuy nhiên, Uỷ ban không thể quyết định bất cứ vấn đề
gì có tính chất chính trị.
+ Uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu
Uỷ ban
này gồm 9 thành viên được bầu ngay lúc bắt đầu mỗi khóa họp theo đề nghị
của Chủ tịch. Uỷ ban xem xét và báo cáo về các uỷ nhiệm thư của các đại
biểu. Nếu một đại diện bị một thành viên Uỷ ban phản đối sẽ tạm thời
ngồi trong Đại hội đồng với các quyền như các đại diện khác cho tới khi
Uỷ ban đã báo cáo và Đại hội đồng có quyết định về vấn đề đó.
* Các Uỷ ban thường trực
Có 2 Uỷ
ban thường trực được thành lập, theo qui định thủ tục của Đại hội đồng,
để giải quyết các vấn đề tiếp theo trong và giữa các khoá họp thường kỳ.
+ Uỷ ban tư vấn về các vấn đề hành chính và ngân sách
Uỷ ban
này được thành lập tại phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng theo Nghị
quyết 14A(I)(1946). Uỷ ban có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo về ngân
sách thường của Liên hợp quốc và ngân sách của việc gìn giữ hoà bình và
các tài khoản của Liên hợp quốc, và ngân sách hành chính của các cơ quan
chuyên môn. Uỷ ban này cũng tư vấn cho Đại hội đồng về các vấn đề hành
chính và tài chính khác. Số thành viên của Uỷ ban tăng lên nhiều lần,
hiện nay có 16 thành viên (theo Nghị quyết 32/103(1977) của Đại hội
đồng).
Các thành
viên của Uỷ ban được Đại hội đồng bầu ra theo khuyến nghị của Uỷ ban 5
trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi, và có quyền tái cử.
Phải có ít nhất 3 thành viên là các chuyên gia tài chính giỏi. Các
chuyên gia tài chính này không được nghỉ hưu cùng một lúc.
+ Uỷ ban đóng góp
Uỷ ban
này được thành lập theo Nghị quyết 14(I)(1946) của Đại hội đồng nhằm tư
vấn Đại hội đồng về mức đóng góp của các nước thành viên vào chi tiêu
của Liên hợp quốc, định số tiền đóng góp của các nước thành viên mới,
xem xét đề nghị của các nước thành viên về thay đổi mức đóng, xem xét
việc áp dụng Điều 19 Hiến chương Liên hợp quốc trong các trường hợp chậm
đóng niên liễm. Uỷ ban cũng được quyền khuyến nghị hoặc tư vấn về mức
đóng góp cho một tổ chức chuyên môn nếu được tổ chức đó yêu cầu. Thành
viên của Uỷ ban này được tăng lên nhiều lần, hiện nay có 18 thành viên
(theo Nghị quyết 31/96 (1976) của Đại hội đồng).
Các thành
viên của Uỷ ban được Đại hội đồng chọn theo khuyến nghị của Uỷ ban 5
trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi và có trình độ và
kinh nghiệm. Nhiệm kỳ là 3 năm, và có quyền được bầu lại.
Thêm vào
đó, các cơ quan Hiệp định được thành lập bởi các Công ước quốc tế phải
trình báo cáo lên Đại hội đồng về các hoạt động của họ.
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ
+ Các cơ quan liên chính phủ:
Uỷ ban
hoà giải cho Palestine (1948); Uỷ ban khoa học của Liên hợp quốc về đánh
giá ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử (UNSCEAR) (1955); Uỷ ban về sử
dụng hoà bình khoảng không vũ trụ (thành lập năm 1959); Uỷ ban đặc biệt
về thực hiện Tuyên bố về Phi thực dân hoá-Uỷ ban 24 (1961); Uỷ ban đặc
biệt về các hoạt động gìn giữ hoà bình (1965); Uỷ ban đặc biệt điều tra
các hành động của Israel làm tổn hại các quyền con người của nhân dân
Palestine và các nước Arập khác trên những lãnh thổ bị họ chiếm đóng
(1968); Nhóm làm việc về chi tiêu cho các công việc cứu trợ của Liên hợp
quốc và các cơ quan khác cho tị nạn Palextin vùng Cận Đông (UNRWA)
(1970); Uỷ ban quan hệ với nước chủ nhà (1971); Uỷ ban đặc biệt về Ấn Độ
Dương (1972); Uỷ ban thực hiện các quyền bất khả xâm phạm của nhân dân
Palestine (1975); Uỷ ban đặc biệt về Hiến chương LHQ (1975); Uỷ ban
thông tin (1978); Uỷ ban giải trừ quân bị (1978); Hội nghị giải trừ quân
bị (1978); Uỷ ban về các hội nghị (1988); Tiến trình tham vấn mở không
chính thức về đại dương và luật biển (1999); Uỷ ban đặc biệt Công ước
quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền và nhân phẩm của người tàn tật
(2001), Nhóm làm việc đặc biệt của Đại hội đồng về các hoạt động tiến
hành sau các hội nghị lớn của Liên hợp quốc và các cuộc họp thượng đỉnh
trong lĩnh vực kinh tế-xã hội (2002).
+ Các nhóm làm việc mở:
-Nhóm làm
việc không chính thức về một chương trình nghị sự cho hoà bình, được
thành lập tại Đại hội đồng khoá 47 và ngừng họp từ năm 1996.
-Nhóm làm
việc về đại diện bình đẳng và tăng thành viên Hội đồng Bảo an, được
thành lập theo Nghị quyết 48/26 (1993) của Đại hội đồng.
-Nhóm làm
việc cấp cao về tình hình tài chính của Liên hợp quốc, được thành lập
theo Nghị quyết 49/143 (1994) của Đại hội đồng và ngừng họp từ năm 1997.
-Nhóm làm
việc cấp cao về tăng cường hệ thống Liên hợp quốc, được thành lập theo
Nghị quyết 49/252 (1994) của Đại hội đồng và hoàn thành công việc năm
1997.
-Nhóm làm
việc về nguyên nhân xung đột và thúc đẩy một nền hoà bình và phát triển
bền vững ở Châu Phi, được thành lập theo Nghị quyết 54/234 (1999) của
Đại hội đồng và đình chỉ hoạt động năm 2001.
- Uỷ ban tư vấn về các chương trình viện trợ của Liên hợp quốc về giáo dục, truyền bá kiến thức về luật quốc tế (1965).
- Ban tư vấn về các vấn đề về giải trừ quân bị (1982).
+ Các cơ quan chuyên gia:
- Ban kiểm toán (1946)
- Uỷ ban luật quốc tế (ILC) (1947)
- Uỷ ban đầu tư (1947)
- Quỹ hưu của nhân viên Liên hợp quốc (1948)
- Toà án hành chính Liên hợp quốc (1949)
- Ban các kiểm toán viên đối ngoại (1959)
- Đơn vị thanh tra chung (JIU) (1966)
- Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) (1966)
- Uỷ ban quốc tế về dịch vụ dân sự (1972)
- Uỷ ban giải quyết vấn đề nhà ở cho con người (UN-HABITAT) (1977)
1.4. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên hợp quốc
Chương trình nghị sự *
Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương trình nghị sự của Đại
hội đồng Liên hợp quốc gồm khoảng 150 đề mục, liên quan đến tất cả các
lĩnh vực thuộc sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
* Chương
trình nghị sự tạm thời của khoá họp thường kỳ do Tổng thư ký soạn thảo
và chuyển cho các nước thành viên chậm nhất là 60 ngày trước ngày khai
mạc, bao gồm:
+ Báo cáo của Tổng thư ký;
+ Báo cáo
của các cơ quan chính của Liên hợp quốc, các cơ quan thuộc Đại hội đồng
Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn thuộc Liên hợp quốc;
+ Các đề mục do Đại hội đồng quyết định tại khoá họp trước;
+ Các đề mục do các cơ quan chính của Liên hợp quốc kiến nghị;
+ Các đề mục do bất cứ thành viên nào đề nghị;
+ Các đề mục liên quan đến ngân sách;
+ Các đề mục thuộc Điều 35, đoạn 2 của Hiến chương do các nước không phải thành viên đề nghị.
* Bổ sung đề mục
Các nước
thành viên, các cơ quan chính của Liên hợp quốc và Tổng thư ký được đưa
đề mục bổ sung 30 ngày trước khi khai mạc khoá họp.
* Thông qua chương trình nghị sự
+ Chương
trình nghị sự tạm thời và danh sách đề mục bổ sung cùng báo cáo của Uỷ
ban chung (gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Đại hội đồng) được chuyển
cho Đại hội đồng thông qua khi khai mạc.
+ Muốn đưa một đề mục phải kèm theo một bản giải thích hoặc dự thảo nghị quyết.
+ Việc
sửa đổi hoặc gạt bỏ một đề mục phải do Đại hội đồng thông qua bằng bỏ
phiếu với số phiếu quá bán của những nước có mặt và tham gia bỏ phiếu.
Đoàn tham gia
* Mỗi nước thành viên gồm 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu dự khuyết và không hạn chế số lượng cố vấn.
* Đại biểu dự khuyết có thể trở thành đại biểu chính thức theo bổ nhiệm của trưởng đoàn.
* Uỷ
nhiệm thư và danh sách thành viên phải được người đứng đầu Nhà nước,
Chính phủ hoặc Bộ trưởng Ngoại giao cấp và gửi cho Tổng thư ký Liên hợp
quốc một tuần trước ngày khai mạc.
Các hình thức thông qua văn kiện
* Tại các Uỷ ban, các nghị quyết được thông qua bằng đa số thường hoặc thông qua không cần bỏ phiếu.
* Các
quyết định về các vấn đề quan trọng tại Đại hội đồng Liên hợp quốc được
thông qua bằng đa số áp đảo (2/3) của các thành viên có mặt và tham gia
bỏ phiếu. Các vấn đề quan trọng gồm: các vấn đề liên quan đến các khuyến
nghị về hoà bình, an ninh quốc tế, bầu uỷ viên không thường trực Hội
đồng Bảo an, các thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản
thác theo Điều 86, mục 1e của Hiến chương Liên hợp quốc, kết nạp thành
viên mới, treo quyền thành viên, khai trừ thành viên và các vấn đề ngân
sách.
* Các vấn đề khác được thông qua bằng đa số thường.
* Khi có nhất trí cao, các nghị quyết có thể được thông qua không cần bỏ phiếu.
Tại Đại hội đồng Liên hợp quốc có các hình thức bỏ phiếu: kín (bầu cử), công khai, ghi tên, gọi tên.
Cơ chế lãnh đạo
* Bầu Chủ tịch, các phó Chủ tịch: Đại hội đồng bầu 1 Chủ tịch và 21 Phó Chủ tịch cho từng khoá họp.
* Chủ tịch có thể cử một phó Chủ tịch làm Quyền chủ tịch, có quyền hạn và nghĩa vụ như Chủ tịch.
* Chủ
tịch tuyên bố khai mạc và kết thúc các phiên họp, hướng dẫn thảo luận,
cho phép các đoàn phát biểu, nêu các vấn đề và tuyên bố các quyết định;
quyết định về các kiến nghị thủ tục (points of order), toàn quyền kiểm
soát và bảo đảm trật tự các phiên họp. Khuyến nghị Đại hội đồng về giới
hạn thời gian, số lần đại biểu được phát biểu, giới hạn danh sách đại
biểu phát biểu.
* Chủ tịch không tham gia bỏ phiếu.
Vai trò của Ban thư ký
Ban thư
ký tiếp nhận dịch, in và phát các tài liệu, báo cáo, nghị quyết, biên
bản, các bài phát biểu tại phiên họp và các công việc khác theo yêu cầu
của Đại hội đồng.
Qui trình hội nghị
* Phát biểu
+ Chủ tịch có thể khai mạc phiên họp khi có ít nhất là 1/3 đại biểu.
+ Không
đại biểu nào được phát biểu khi chưa được Chủ tịch cho phép. Chủ tịch
cho phép các đoàn phát biểu theo thứ tự đăng ký và có quyền yêu cầu các
đại biểu ngừng phát biểu khi vấn đề không liên quan tới chủ đề đang thảo
luận.
+ Khi đã hết thời hạn đăng ký phát biểu, các đại biểu có thể được phát biểu bằng cách sử dụng quyền trả lời.
* Kiến nghị về thủ tục (points of order)
Trong quá
trình thảo luận, đại biểu có thể sử dụng kiến nghị về thủ tục và Chủ
tịch sẽ quyết định ngay về việc này. Đại biểu sử dụng kiến nghị về thủ
tục không được phát biểu về nội dung vấn đề đang thảo luận.
* Thủ tục đưa ra hoặc rút các quyết định
+ Người
đưa ra đề nghị (motion) có thể rút lại bất cứ lúc nào trước khi bắt đầu
bỏ phiếu, trừ trường hợp đề nghị đã được bổ sung. Đề nghị đã rút có thể
được đưa trở lại với bất cứ đại biểu nào.
+ Các đề
nghị và các bổ sung phải được nộp cho Tổng thư ký bằng văn bản. Theo quy
định chung, không thảo luận và bỏ phiếu các đề nghị khi văn bản chưa
được Ban thư ký xem và gửi cho các đại biểu ngày hôm trước. Chủ tịch có
thể cho phép thảo luận và thông qua các đề nghị và bổ sung mặc dù văn
bản sao mới phát cho đại biểu trong ngày hôm đó.
+ Đề nghị
đã thông qua hoặc bác bỏ có thể đem ra xét lại nếu 2/3 đại biểu có mặt
đồng ý. Về đề nghị xét lại quyết định, chỉ 2 đại biểu trong số các nước
chống đề nghị đó được quyền phát biểu.
Thủ tục kết nạp, khai trừ thành viên
* Đơn xin làm thành viên
Các quốc
gia muốn gia nhập Liên hợp quốc phải nộp đơn cho Tổng thư ký, tuyên bố
chấp nhận các nghĩa vụ ghi trong Hiến chương. Tổng thư ký sẽ sao và gửi
đơn cho Đại hội đồng và các nước thành viên. Hội đồng Bảo an kiến nghị
Đại hội đồng kết nạp. Đại hội đồng sẽ xem xét quốc gia đó có phải là
quốc gia yêu chuộng hoà bình và có khả năng sẵn sàng thực hiện các nghĩa
vụ qui định trong Hiến chương hay không, và quyết định bằng bỏ phiếu đa
số áp đảo (2/3).
* Nước
thành viên hiện đang là đối tượng bị Hội đồng Bảo an áp dụng các biện
pháp phòng ngừa hoặc cưỡng chế sẽ bị treo quyền thành viên tại Đại hội
đồng theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an. Hội đồng Bảo an có thể khôi
phục quyền thành viên cho nước bị tước quyền thành viên trong trường hợp
này.
* Nước
thành viên liên tục vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương có thể bị Đại
hội đồng khai trừ khỏi Liên hợp quốc theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo
an.
* Hiến
chương Liên hợp quốc không qui định về việc nước thành viên rút ra khỏi
Liên hợp quốc, thực tế chưa xảy ra trường hợp nào.
| ||
2. Hội đồng Bảo an
Theo
Điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên hợp quốc
trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình
và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện
pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết,
có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ
các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược.
Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương V, VI, VII, VIII và XII.
2.1. Thành viên
Hội
đồng Bảo an gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên thường
trực là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường
trực do ĐHĐ LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công
bằng về mặt địa lý và có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn
chỉ và mục đích của LHQ và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi
mãn nhiệm.
10 nước
thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa lý
như sau: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á; 1 nước thuộc Đông Âu; 2 nước
thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước khác.
2.2. Chức năng, quyền hạn
Là một
trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đông Bảo an được thành
lập nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của Hiến
chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp
quốc có quyền quyết định đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối với
hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm lược, và sẽ khuyến nghị
hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp với các Điều 41
và 42, để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Trong khi
thực thi chức năng này, Hội đồng Bảo an được coi là hành động với tư
cách thay mặt cho tất cả các thành viên Liên hợp quốc. Trên thực tế,
những chức năng mà Hội đồng Bảo an được trao có thể được coi là để nhằm 3
mục tiêu: gìn giữ hoà bình, vãn hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình.
Trong
khi các cơ quan khác của Liên hợp quốc chỉ có thể đưa ra các quyết định
mang tính khuyến nghị đối với các chính phủ của các quốc gia thành viên
Liên hợp quốc, các quyết định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an, theo
chương VII Hiến chương, khi đã được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.
Những
quyền hạn cụ thể giao cho Hội đồng Bảo an được quy định ở các chương VI,
VII, XII của Hiến chương Liên hợp quốc, song những điều khoản quan
trọng nhất có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế,
đặc biệt là việc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng
những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế, được quy định cụ thể và chi
tiết nhất ở chương VI và VII.
Theo
Hiến chương, Hội đồng Bảo an có thể tiến hành điều tra bất cứ một tranh
chấp nào hoặc bất cứ một tình thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc
tế hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế, và có thể đưa ra những
khuyến nghị về các phương thức cũng như nội dung cụ thể để giải quyết
những xung đột đó. Những xung đột và những tình huống có khả năng đe doạ
hoà bình và an ninh quốc tế có thể do các nước thành viên Liên hợp
quốc, Đại hội đồng hoặc Tổng thư ký Liên hợp quốc nêu ra trước Hội đồng
Bảo an. Một nước không phải thành viên Liên hợp quốc cũng có thể đưa
cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh
chấp, ra trước Hội đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết, với
điều kiện là nước đó phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm
giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo quy định của Hiến chương Liên
hợp quốc.
Theo
Hiến chương, tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc phải cam kết cung
ứng cho Hội đồng Bảo an, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua
thương lượng đối với những đề xuất của Hội đồng Bảo an, những lực lượng
vũ trang, những trợ giúp và các phương tiện cần thiết khác để duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế.
2.3. Cơ cấu
Hội đồng Bảo an có các uỷ ban và cơ quan phụ trợ sau:
2.3.1. Các Uỷ ban thường trực:
gồm Uỷ ban chuyên gia về các vấn đề thủ tục, Uỷ ban về các cuộc họp của
Hội đồng Bảo an không diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc và Uỷ ban về
việc kết nạp thành viên mới. Các Uỷ ban này đều có đại diện của các nước
thành viên Hội đồng Bảo an.
2.3.2. Ban Tham mưu quân sự: bao
gồm các Tổng chỉ huy quân đội (Chiefs of staff) của tất cả các nước
thành viên hoăc đại diện của họ. Chức năng nhiệm vụ của Ban là tư vấn
cho Hội đồng về tất cả các vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự để
bảo vệ và duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, việc sử dụng và chỉ huy
các lực lượng đặt dưới sự chỉ đạo của Ban, kể cả các qui định về vũ
trang, và giải trừ quân bị nếu có thể.
2.3.3. Uỷ ban chống khủng bố:
Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 1373 (2001) về một số biện
pháp chống lại các mối đe doạ đối với hoà bình và an ninh quốc tế của
các hành động khủng bố, nhằm giám sát việc thực hiện nghị quyết này. Các
nước thành viên Liên hợp quốc phải trình bản báo cáo về các bước tiến
hành để thực hiện Nghị quyết 1373 lên Uỷ ban, lần đầu tiên trong vòng 90
ngày và các lần sau theo thời gian biểu của Uỷ ban. Uỷ ban gồm tất cả
15 thành viên của Hội đồng Bảo an. Uỷ ban thành lập 3 tiểu ban, mỗi tiểu
ban do một Phó Chủ tịch Uỷ ban làm chủ tịch, để xem xét sơ bộ bản báo
cáo của các nước thành viên.
2.3.4. Các Uỷ ban cấm vận:
hiện nay có 7 Uỷ ban cấm vận là: Uỷ ban Nghị quyết 661 của Hội đồng Bảo
an về Irắc, Uỷ ban Nghị quyết 748 về Libi, Uỷ ban Nghị quyết 751 về
Somali, Uỷ ban Nghị quyết 918 về Ruanđa, Uỷ ban Nghị quyết 985 về
Liberia, Uỷ ban Nghị quyết 1132 về Xiêra Lêôn, Uỷ ban Nghị quyết 1267 về
Ápghanixtan.
2.3.5. Các hoạt động và lực lượng gìn giữ hoà bình: gồm
Tổ chức giám sát ngừng bắn ở Trung Đông (UNTSO) (1948), Nhóm quan sát
viên quân sự ở Ấn Độ và Pakistan (UNMOGIP) (1949), Lực lượng ở Síp
(UNFICYP) (1964), Lực lượng quan sát viên không can dự (UNDOF) (1974),
Lực lượng lâm thời ở Libăng (UNIFIL) (1978), Phái đoàn quan sát
Irắc-Côét (UNIKOM) (1991)…
2.3.6. Các lực lượng chính trị và kiến tạo hoà bình:
gồm Văn phòng chính trị ở Bougainville (UNPOB) (1998), Văn phòng kiến
tạo hoà bình ở Cộng hoà Trung Phi (BONUCA) (1999), Lực lượng trợ giúp ở
Ápghanixtan (UNAMA) (2002), Văn phòng đại diện đặc biệt của Tổng thư ký
Liên hợp quốc về vấn đề Irắc (2003)…
2.3.7. Các Uỷ ban khác: gồm Uỷ ban đền bù Liên hợp quốc (UNCC) (1991), Uỷ ban giám sát, kiểm tra và thanh tra (UNMOVIC) (1999).
2.3.8. Các toà án quốc tế:
* Toà án tội phạm quốc tế Ruanđa
được thành lập năm 1994 theo Nghị quyết 955 của Hội đồng Bảo an, theo
chương VII của Hiến chương để xử các cá nhân phạm tội diệt chủng và các
tội ác chống loài người trên lãnh thổ Ruanđa và lãnh thổ các nước láng
giềng trong năm 1994.
* Toà án tội phạm quốc tế về Nam Tư cũ
thành lập năm 1993 theo Nghị quyết 808 của Hội đồng Bảo an để xét xử
các cá nhân chịu trách nhiệm cho các vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo
quốc tế gây ra trên lãnh thổ Nam Tư cũ từ 1991.
2.3.9. Các tổ chức khác
như Cơ quan chỉ huy của Liên hợp quốc tại bán đảo Triều Tiên (UNC)
(1950) được thành lập theo Nghị quyết 85 (1950) của Hội đồng Bảo an. Cơ
quan này yêu cầu tất cả các thành viên cung cấp lực lượng quân sự ở bán
đảo Triều Tiên cho phép đặt các lực lượng này dưới quyền chỉ huy thống
nhất của Mỹ. Các đơn vị chiến đấu được đưa đến từ 16 nước, phần lớn là
phương Tây, ngoài ra có các nước đang phát triển như Côlombia, Êtiôpia,
Philípin, Nam Phi, Thái Lan.
2.4. Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an
| ||
3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc 3.1 Cơ sở pháp lý và tôn chỉ mục đích
3.2 Thành viên:
3.3 Chức năng và quyền hạn:
3.4 Hoạt động và thủ tục ra quyết định:
3.5 Các cơ quan trực thuộc ECOSOC:
Có 5 loại cơ quan trực thuộc ECOSOC:
Các Ủy ban chức năng (Funtional Commission):
Các Ủy ban Thường trực (Standing Committees):
Các cơ quan chuyên môn (Expert Bodies):
| ||
4. Hội đồng Quản thác
4.1. Cơ sở pháp lý
Theo
Chương XII Hiến chương Liên hợp quốc, Hệ thống Quản thác với nhiệm vụ
giám sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo các
thoả thuận riêng với quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống
này áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội
quốc liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ các quốc gia kẻ thù
sau Chiến tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia có
trách nhiệm quản lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản
của Hệ thống là thúc đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng
lãnh thổ quản thác và sự phát triển của các vùng này hướng tới chính
phủ tự quản và độc lập.
4.2. Thành phần
Hội đồng Quản thác gồm những thành viên sau đây của Liên hợp quốc:
* Những thành viên được quyền quản lý những vùng lãnh thổ quản thác;
* Những thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an;
* Một số thành viên do Đại hội đồng bầu ra trong thời hạn 3 năm để đảm bảo đủ số lượng thành viên của Hội đồng;
* Quản
thác được phân bổ ngang nhau giữa những thành viên Liên hợp quốc quản lý
các lãnh thổ quản thác và những thành viên không quản lý những lãnh thổ
đó.
4.3. Chức năng, quyền hạn
* Xem xét những báo cáo của nhà đương cục được giao quản lý lãnh thổ quản thác;
* Nhận xét và đơn thỉnh cầu sau khi tham khảo ý kiến nhà đương cục nói trên;
* Cử
người đến quan sát định kỳ từng lãnh thổ do nhà đương cục nói trên quản
lý theo thời hạn được thoả thuận với nhà đương cục ấy;
* Tiến hành những việc trên hay những việc khác theo đúng những điều khoản của các hiệp định về quản thác.
4.4. Tình hình hiện nay
Với việc
kết thúc Hiệp định Quản thác cho vùng lãnh thổ quản thác của các hòn đảo
thuộc Thái Bình Dương theo Nghị quyết 956 (1994) và việc Palau trở
thành thành viên 185 của Liên hợp quốc, Hội đồng Quản thác đã hoàn thành
nhiệm vụ được Hiến chương Liên hợp quốc giao phó đối với lãnh thổ cuối
cùng trong 11 lãnh thổ quản thác nằm trong Hệ thống quản thác. Năm 1994,
trong bản báo cáo thường niên về công việc của Liên hợp quốc, Tổng thư
ký đã đề nghị Đại hội đồng giải tán cơ quan này theo điều 108 của Hiến
chương Liên hợp quốc.
Năm 1997,
trong Báo cáo về chương trình cải tổ Liên hợp quốc, Tổng thư ký đã đề
xuất tổ chức lại Hội đồng Quản thác thành một diễn đàn để các nước thành
viên thực hiện quản thác tập thể vì sự toàn vẹn của môi trường toàn cầu
và các khu vực chung như đại dương, khí quyển và khoảng không vũ trụ;
đồng thời, làm nhiệm vụ cầu nối giữa Liên hợp quốc và xã hội dân sự
trong việc giải quyết các lĩnh vực thuộc mối quan tâm của toàn cầu.
5. Tòa án Quốc tế5.1. Cơ sở pháp lý
Nhiệm vụ
trọng tâm của Liên hợp quốc là giải quyết các cuộc xung đột bằng biện
pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc
tế (Điều 1 của Hiến chương Liên hợp quốc). Điều 33 của Hiến chương cũng
chỉ rõ, trong số các phương pháp giải quyết hoà bình có phương pháp sử
dụng trọng tài và giải quyết của toà án (theo luật pháp).
Theo điều
13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại hội đồng là "
thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng
tiến bộ". Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan khác thực
hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều công ước quốc tế.
Trong vòng năm thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả
thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ
lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới
những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ trụ,
lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố.
5.2. Thành phần
Toà án
quốc tế gồm 15 thẩm phán, là công dân của các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc, do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an cùng bầu ra.
5.3. Chức năng
Chức năng
chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế,
vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục tiêu
của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc
được các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế
được chấp nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các
quốc gia công nhận; các phán quyết của tòa án...
Tòa án
cũng khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật pháp,
các vấn đề luật pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan
này, khuyến nghị các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên
môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng.
5.4. Hoạt động
* Giải quyết theo luật pháp các tranh chấpCơ
quan chính của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp là Toà án quốc
tế. Kể từ khi thành lập năm 1946, đến nay đã có 72 vụ được các nước đưa
ra trước Toà án quốc tế, 22 trường hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc
tế. Hầu hết các trường hợp được Toà giải quyết song kể từ năm 1981, đã
có 4 trường hợp được chuyển cho các Uỷ ban đặc biệt giải quyết theo đề
nghị của các bên liên quan. 11 trường hợp vẫn chưa được giải quyết.
Các
trường hợp đưa ra giải quyết tại Toà án quốc tế bao gồm nhiều lĩnh vực
như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa Bỉ
và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha năm 1960, giữa Buốckina
Phaxô và Mali năm 1986, giữa Libi và Sát năm 1990), liên quan đến luật
biển (trường hợp Anbani phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do thuỷ
lôi trong vùng lãnh hải của mình gây ra cho tầu của Anh năm 1949, tranh
chấp giữa Anh và Na uy về đánh cá), các cuộc tranh chấp liên quan đến
nguyên tắc và luật lệ quốc tế trong việc phân định ranh giới thềm lục
địa, trên biển và trên bộ (vụ giữa Libi và Manta năm 1985, Canađa và Mỹ
năm 1984, Đan mạch và Na uy năm 1993, giữa En Xanvađo và Honđurat năm
1992 ...), về bảo vệ ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa
vụ của lực lượng uỷ thác tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên
quan đến xung đột khu vực, việc thực hiện các công ước quốc tế của các
nước ... các trường hợp liên quan đến quan hệ giữa Liên hợp quốc và các
nước thành viên như việc phái viên của Liên hợp quốc bị sát hại, đóng
góp của các nước vào ngân sách hoạt động gìn giữ hoà bình... cũng được
các bên liên quan đưa ra tại Toà án quốc tế để nhận được ý kiến tham
khảo.
* Pháp điển hoá luật pháp quốc tế
Uỷ ban về
luật pháp quốc tế đã được Đại hội đồng thành lập năm 1947 nhằm thúc đẩy
sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng tiến bộ. Uỷ
ban gồm 34 thành viên, nhóm họp hàng năm, các thành viên được Đại hội
đồng bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động với tư cách cá nhân chứ không
phải là đại diện của các chính phủ.
Công việc
chủ yếu của Uỷ ban là soạn thảo luật pháp quốc tế, lĩnh vực luật pháp
cần soạn thảo có thể do Uỷ ban tự chọn hoặc do Đại hội đồng hoặc Hội
đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) gợi ý. Khi Uỷ ban hoàn tất dự thảo các
điều khoản, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định
đưa các điều khoản dự thảo đó vào một công ước quốc tế, sau đó sẽ mở
cho các nước tham gia.
Năm 1966,
đáp ứng đòi hỏi của Liên hợp quốc phải giữ một vai trò tích cực trong
việc giảm bớt và loại bỏ các cản trở đối với thương mại quốc tế, Đại hội
đồng đã thành lập Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL) để thúc đẩy sự thống nhất và hài hoà theo hướng tiến bộ của
luật thương mại quốc tế. Uỷ ban gồm 36 thành viên, đại diện cho các khu
vực địa lý và các hệ thống kinh tế và luật pháp khác nhau, có báo cáo
hàng năm lên Đại hội đồng và trình báo cáo lên Hội nghị Liên hợp quốc về
Thương mại và Phát triển.
6.1. Khái quát
Ban thư ký Liên hợp quốc (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc.
Trụ sở chính của Ban thư ký đặt tại Niu Oóc, Mỹ. Ngoài ra có hai Văn phòng tại Giơnevơ và Viên.
Tổng thư ký hiện nay là Ngài Kofi Annan, quốc tịch Gana, nhậm chức từ ngày 1/1/1997.
6.2. Cơ cấu tổ chức
Theo
Chương XV của Hiến chương Liên hợp quốc, Ban thư ký gồm có một Tổng thư
ký và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức. Tổng thư ký do Đại
hội đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổng thư ký là
viên chức cao cấp nhất của Tổ chức Liên hợp quốc (Điều 97).
6.3. Chức năng, nhiệm vụ
* Tổng
thư ký hoạt động với tư cách là người có cương vị cao nhất của Ban thư
ký trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng Bảo an, của
Hội đồng Kinh tế - Xã hội và của Hội đồng Quản thác. Tổng thư ký thực
hiện các chức năng theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và các
nhiệm vụ khác do các cơ quan này giao phó. Tổng thư ký trình Đại hội
đồng báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên hợp quốc (Điều 98).
* Tổng
thư ký có thẩm quyền lưu ý Hội đồng Bảo an về bất cứ vấn đề nào mà theo
ông, có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều 99).
* Trong
khi thực thi nhiệm vụ của mình, Tổng thư ký và các nhân viên không được
tìm kiếm hay chấp nhận những chỉ thị của bất cứ một chính phủ nào hoặc
của một cơ quan quyền lực nào ngoài Liên hợp quốc. Tổng thư ký và các
nhân viên không được hành động trái với địa vị viên chức quốc tế của họ
và chỉ chịu trách nhiệm trước Liên hợp quốc (Điều 100, khoản 1).
* Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những quy định do Đại hội đồng xác lập (Điều 101, khoản 1).
* Một số
nhân viên thích hợp được bổ nhiệm để phục vụ thường trực Hội đồng Kinh
tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác và nếu cần, các cơ quan khác của Liên
hợp quốc. Số nhân viên này thuộc biên chế cơ quan Tổng thư ký (Điều 101,
khoản 2).
Trợ giúp Tổng thư ký gồm:
- Phó Tổng thư ký;
- Các trợ lý Tổng thư ký;
- Các vụ, phòng, ban do các quan chức cao cấp chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thư ký:
+ Văn phòng Tổng thư ký;
+ Vụ các vấn đề của Đại hội đồng và phục vụ hội nghị;
+ Vụ các vấn đề chính trị;
+ Vụ giải trừ quân bị;
+ Vụ về các hoạt động gìn giũ hoà bình;
+ Văn phòng pháp lý;
+ Vụ kinh tế, xã hội;
+ Phòng về các vấn đề phối hợp và nhân đạo;
+ Vụ thông tin;
+ Vụ quản trị;
+ Phòng dịch vụ nội bộ.
- Các quan chức cao cấp khác:
+ Điều phối viên về an ninh Liên hợp quốc;
+ Giám đốc điều hành chương trình Irắc;
+ Điều phối viên về cải tổ Liên hợp quốc;
+ Điều phối viên về các hoạt động nhân đạo cho Irắc.
Ngoài ra
Tổng thư ký còn cử các đặc phái viên, đại diện cho mình theo các nước,
khu vực như: châu Phi, Ăngôla, Cămpuchia, Crôatia, Irắc, Trung Đông...
6.4. Chương trình cải tổ Ban thư ký
Tại khoá
51 Đại hội đồng Liên hợp quốc (16/6/1997), Tổng thư ký đã trình bày một
chương trình cải tổ Liên hợp quốc trong đó có Ban thư ký.
Tại khoá
họp 52 Đại hội đồng đã diễn ra những cuộc thảo luận sâu rộng về các
khuyến nghị và các biện pháp cải tổ Liên hợp quốc của Tổng thư ký đề
xuất trong báo cáo.
Theo báo
cáo của Tổng thư ký Liên hợp quốc tại khoá 53 Đại hội đồng (1998), những
việc chính sau về cải tổ Liên hợp quốc đã được thực hiện:
* Lập chức Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc;
* Ban thư
ký đã được sắp xếp lại thông qua sáp nhập hoặc giải thể một số đơn vị:
củng cố Vụ kinh tế - xã hội bằng cách sáp nhập 3 ban riêng trước đây;
định hướng lại Vụ thông tin, đơn giản hoá hệ thống hỗ trợ kỹ thuật...;
* Giảm
gần 1000 biên chế của Ban thư ký vào tháng 1/1998, biên chế hiện nay còn
hơn 9000 nhân viên. Cắt giảm 123 triệu đôla ngân sách 1998-1999. Giảm
1/3 chi phí hành chính và chuyển số tiền đó sang các chương trình kinh
tế, xã hội có ích cho các nước đang phát triển. Giảm công văn giấy tờ
25%;
* Xây dựng bộ tiêu chuẩn về hành vi cho các nhân viên Liên hợp quốc.
6.5. Các Tổng thư ký Liên hợp quốc từ khi tổ chức này được thành lập
* Trygve Lie, Na Uy, nhậm chức ngày 2/2/1946
* Dag Hammarskjold, Thuỵ Điển, nhậm chức ngày 10/4/1953
* U Thant, Mianma, nhậm chức ngày 3/11/1961
* Kurt Waldheim, Áo, nhậm chức ngày 22/12/1971
* Javier Perez De Cuillar, Pê-ru, nhậm chức ngày 15/12/1981
* Boutros Boutros Ghali, Ai Cập, nhậm chức ngày 1/1/1992
* Kofi Annan, Gana, nhậm chức ngày 1/1/1997
(Nguồn Bộ Ngoại giao)
|