GIƠI THIỆU CHUNG VỀ DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ
CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG (APEC)
CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG (APEC)
I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ APEC
1. Bối cảnh và sự ra đời của APEC
1.1. Sáng kiến của Ô-xtrây-lia về việc thành lập
APEC
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh
tế khu vực đã được một số học giả người Nhật Bản đưa ra. Năm 1965, hai học giả
người Nhật Bản Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập một "Khu vực mậu dịch tự
do Thái Bình Dương" mà thành viên gồm năm nước công nghiệp phát triển, có thể mở
cửa cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng
chảo Thái Bình Dương. Sau đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo Okita (cựu
Ngoại trưởng Nhật Bản) và Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc gia
Ôt-xtrây-lia) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có
hiệu quả về kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành
Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã
cùng với ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh
tế rộng rãi giữa các nền kinh tế trong khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành
lập APEC.
Vào cuối những năm 1980, một số quan chức chính
phủ Nhật Bản, đặc biệt Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp (MITI) lúc đó là
Hajime Tamura, đã gợi ý thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về
các vấn đề kinh tế khu vực. Mỹ lúc đầu tỏ ra ít quan tâm đến gợi ý này vì đang
tập trung thúc đẩy tiến triển của vòng đàm phán U-ru-goay của GATT và hình thành
Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), trong khi chính phủ Công Đảng của Thủ
tướng Bob Hawke ở Ôt-xtrây-lia lúc đó đã nhận thức được tầm quan trọng thiết yếu
của mối quan hệ kinh tế, thương mại với châu Á đối với Ôt-xtrây-lia nên đã kịp
thời nắm bắt và thúc đẩy ý tưởng về một diễn đàn hợp tác kinh tế.
Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng
Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ
trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt động của các chính
phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa
phương. Nhật Bản, Ma-lai-xia, Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po,
Bru-nây, In-đô-nê-xia, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng
11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã họp
tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia quyết định chính thức thành lập APEC.
Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công
và Đài Loan (với tên gọi theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm
1991; Mê-hi-cô, Pa-pu-a Niu Ghi-nê tháng 11 năm 1993; Chi-lê tháng 11 năm 1994
và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong ba năm. Đến tháng 11 năm
1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên mới là Pê-ru, Liên bang Nga và Việt Nam,
đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong
mười năm để củng cố tổ chức.
Đến nay, APEC đã có 21 nền kinh tế thành viên
với khoảng 2,5 tỷ dân; 19.000 tỷ đô la Mỹ GDP mỗi năm và chiếm 47% thương mại
thế giới (xem bảng 1). APEC bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động
nhất thế giới: khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mỹ (gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô)
với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính trị, xã hội, kinh tế và văn
hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế thành viên
APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu.
1.2. Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC
Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những
năm 1980, sự tăng trưởng kinh tế liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng
cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo "sự
thần kỳ" của Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt
là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển kinh tế
năng động bậc nhất thế giới.
Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn
đầu thế giới về tốc độ phát triển kinh tế (xem bảng 2) trong khi kinh tế thế
giới bị suy thoái vào đầu những năm 1990. Xuất khẩu thực sự là động lực tăng
trưởng kinh tế ở các nước châu Á. Trong giai đoạn 1980-1992, xuất khẩu của các
nước châu Á tăng nhanh nhất thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10%, so
với 4% của các nước châu Âu và Mỹ La-tinh và 6% của các nước công nghiệp phát
triển vốn chiếm tới 2/3 thương mại thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào các nước châu Á tăng mạnh, phần lớn từ Mỹ, Nhật Bản và các nền kinh tế NIEs.
Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị
trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức tối đa những hàng rào ngăn trở sự lưu
chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực. Do đó, hợp tác và liên kết
kinh tế khu vực trở thành nhu cầu cấp thiết để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế
cao và ổn định.
Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa phát triển
mạnh, thể hiện qua sự phân công lao động quốc tế đan xen nhau dưới tác động của
những tiến bộ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Việc
Trung Quốc cải cách và mở cửa càng làm gia tăng xu thế này ở châu Á - Thái Bình
Dương. Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, thương mại, tài chính
và dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Cùng với toàn cầu hóa và như một sự ứng
phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hóa cũng phát triển mạnh mẽ cả về chiều
rộng và chiều sâu. Từ cuối những năm 1980, liên kết kinh tế khu vực ở châu Âu và
Bắc Mỹ được đẩy mạnh thêm một bước. Các nước thuộc Liên hiệp châu Âu đã thoả
thuận lập ra một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết lập kế hoạch cho một
liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung. Còn ở Bắc Mỹ, tháng 1 năm 1989 Mỹ và
Ca-na-đa chính thức ký Hiệp định thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do song phương
(CAFTA). Trong khi đó, ở châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn định tương đối về
chính trị, và là một khu vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao
nhưng chưa có một hình thức liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ
và toàn khu vực để bảo đảm lợi ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng
ngày càng mạnh của chủ nghĩa khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Từ những năm 1970 -1980, nhất là cuối những năm
1980, trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã thấy rõ xu thế là các nền kinh
tế ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau một cách chặt chẽ hơn về nhiều mặt. Chỉ nói
riêng về thương mại, năm 1989, xuất khẩu hàng hóa của các nước châu Á - Thái
Bình Dương sang Mỹ chiếm 25,8% tổng giá trị xuất khẩu của họ, trong khi đó xuất
khẩu của Mỹ sang châu Á - Thái Bình Dương chiếm 30,5% tổng giá trị xuất khẩu của
Mỹ. Xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước châu Á - Thái Bình Dương chiếm 33% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản và giá trị xuất khẩu của châu Á - Thái Bình
Dương sang Nhật Bản chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Xuất
khẩu của Nhật Bản sang Mỹ chiếm 34,2% giá trị xuất khẩu của Nhật Bản và xuất
khẩu của Mỹ sang Nhật Bản chiếm 12,3% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ. Sự tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế đã tạo ra một lực gắn kết, một nhu cầu
phối hợp giữa các nền kinh tế trong khu vực với nhau.
Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và
phát triển của nền kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu
hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền
kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn
mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy
tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp
tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình
Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển
bền vững của khu vực châu Á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.
1.3. Quy chế thành viên và quan sát viên của
APEC
Việc soạn thảo qui chế thành viên của APEC được
giao cho các quan chức cao cấp của APEC thực hiện và đệ trình lên Hội nghị Bộ
trưởng xem xét và Hội nghị các nhà Lãnh đạo Cấp cao APEC thông qua vào kỳ họp
hàng năm tại Van-cu-vơ, Ca-na-đa, tháng 11 năm 1997. Về cơ bản, nước hoặc vùng
lãnh thổ kinh tế, muốn trở thành thành viên APEC phải có đủ một số điều kiện cần
thiết như sau:
1- Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển Thái Bình Dương.
2- Quan hệ kinh tế: Có các mối quan hệ kinh tế
chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tự do đi lại của các quan chức.
3- Tương đồng về kinh tế: Chấp nhận chính sách
kinh tế mở cửa theo hướng thị trường.
4- Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC:
Tỏ rõ mối quan tâm mạnh mẽ tới các lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham
gia vào các Nhóm công tác hoặc nghiên cứu độc lập và các hoạt động khác của
APEC. Tuy nhiên, không có mối liên quan đặc biệt nào giữa việc tham gia vào các
Nhóm công tác của APEC và việc trở thành thành viên. Nước muốn trở thành thành
viên phải hoàn toàn chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra
trong các Tuyên bố và Quyết định của APEC, kể cả các nguyên tắc đồng thuận và tự
nguyện.
Ngoài quy chế thành viên chính thức, APEC còn có
quy chế quan sát viên dành cho ba tổ chức khu vực là Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng
Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF),
không có quy chế quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan
sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở xuống và tham gia vào
các hoạt động của APEC. Các nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia
các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC.
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
2.1. Mục tiêu
Trong bối cảnh quá
trình liên kết và hợp tác kinh tế ở các khu vực và trên phạm vi toàn cầu phát
triển mạnh, tự do hóa kinh tế, thương mại và đầu tư trở thành xu hướng bao trùm,
APEC ra đời như một sự đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và lợi ích của các nền
kinh tế ở châu Á- Thái Bình Dương vốn đang ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau hơn. Từ
chỗ ban đầu hoạt động như là một nhóm đối thoại không chính thức, APEC đã dần
dần trở thành một thực thể khu vực đi đầu trong việc thúc đẩy tự do hóa mậu
dịch, đầu tư và hợp tác kinh tế. Ngày nay, APEC bao gồm tất cả các nền kinh tế
lớn trong khu vực và các nền kinh tế năng động nhất, tăng trưởng nhanh nhất trên
thế giới. Các nền kinh tế của các thành viên APEC cho thấy sự đa dạng, phong phú
của khu vực cũng như các trình độ và phương thức phát triển khác nhau. Mặc dù
giữa các nền kinh tế trong khu vực có nhiều điểm khác biệt nhưng việc họ hợp tác
được với nhau trong một diễn đàn đã phản ánh mục đích và quyết tâm chính trị
chung là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong khu vực và
trên thế giới. Mục đích chung của APEC đã được xác định ngay từ Hội nghị Bộ
trưởng APEC lần thứ nhất ở Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia năm 1989. Mục tiêu tăng
trưởng và phát triển kinh tế của khu vực đòi hỏi phải thúc đẩy hệ thống thương
mại đa phương mở, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế nhằm tăng cường lợi
ích chung thông qua việc khuyến khích các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư và
chuyển giao công nghệ giữa các thành viên.
Những yêu cầu cơ bản
trên được đúc kết thành các mục tiêu cơ bản của APEC tại Hội nghị Bộ trưởng lần
thứ ba ở Xê-un, Hàn quốc năm 1991. Tại Hội nghị này, các Bộ trưởng đã thông qua
Tuyên bố Xê-un, đặt nền móng cho sự phát triển của APEC như một khuôn khổ hợp
tác khu vực với 4 mục tiêu là:
- Duy trì sự
tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong khu
vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
thế giới;
- Phát huy
các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự tuỳ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các luồng hàng hoá, dịch vụ,
vốn và công nghệ;
- Phát triển
và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích của các nước châu Á -
Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác;
- Cắt giảm
những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các thành
viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những lĩnh vực thích hợp và không
làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
Tuy nhiên, không
giống như các tổ chức khu vực khác (đặc biệt là EU), ngay từ đầu APEC không nhấn
mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ thống ưu đãi thuế quan, liên minh thuế quan, hay
thị trường chung, mà nhấn mạnh tới việc tăng cường hệ thống thương mại đa phương
mở. Điều này có thể lý giải bởi hai lý do. Một là, APEC là tập hợp của các nền
kinh tế rất đa dạng về trình độ phát triển, chế độ chính trị-xã hội cũng như
điều kiện lịch sử - văn hóa. Vì thế, các nước đang phát triển như ASEAN, NIEs
không muốn thành lập một khu vực tự do hóa và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng
vào các nền kinh tế lớn hơn, có trình độ phát triển cao hơn như Mỹ, Nhật Bản,
Ô-xtrây-lia và Ca-na-đa. Hai là, các nền kinh tế APEC, đặc biệt là các nước Đông
á phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh tế thế giới. Sự tăng trưởng của các nền
kinh tế Nhật Bản, NIEs và ASEAN trong thập kỷ 70 và 80 chủ yếu nhờ vào sự thành
công của chiến lược hướng vào xuất khẩu, do vậy, họ rất muốn duy trì một hệ
thống thương mại toàn cầu mở và ổn định. Việc thế giới bị chia cắt thành các khu
vực cát cứ sẽ là điều bất lợi trước hết đối với những thành viên APEC có nền
kinh tế, thương mại phát triển cao.
Ngay từ đầu, APEC đã
tích cực theo đuổi mục tiêu tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở. Trong
tất cả các Hội nghị Bộ trưởng hàng năm của APEC đều thảo luận những tiến triển
trong Vòng đàm phán đa phương U-ru-goay của GATT và ra những tuyên bố chung nhằm
phối hợp hành động của các thành viên APEC trong quá trình đàm phán, kêu gọi các
nước khác tăng cường nỗ lực để Vòng đàm phán U-ru-goay đạt kết quả. Mỹ và một số
thành viên APEC coi diễn đàn này là chỗ dựa để xúc tiến tự do hóa thương mại
trong trường hợp vòng đàm phán U-ru-goay thất bại. Trên thực tế, APEC đã đóng
một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự thành công của Vòng đàm phán
U-ru-goay. Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao lần thứ nhất năm 1993 nhấn mạnh:
"Cơ sở của sự tăng trưởng kinh tế của chúng ta là một hệ thống thương mại đa
phương mở. Vì vậy, chúng ta cam kết cố gắng hết sức để Vòng đàm phán U-ru-goay
kết thúc thành công vào ngày 15/12". Các Bộ trưởng APEC dẫn đầu là Mỹ và Nhật
Bản đã đưa ra sự nhượng bộ về tiếp cận thị trường đối với một loạt các sản phẩm
trị giá 250 tỷ đô-la trong vòng đàm phán cuối cùng ở U-ru-goay, qua đó thúc đẩy
các nước khác, đặc biệt là Cộng đồng châu Âu, kết thúc cuộc đàm phán đúng kỳ
hạn.
Việc kết thúc thành
công Vòng đàm phán U-ru-goay và sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
đã đặt APEC trong một khung cảnh mới. Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC tại
Gia-các-ta tháng 11 năm 1994 nhận định: "Trong bối cảnh sau Vòng đàm phán
U-ru-goay, đang có một cơ hội rộng mở để APEC bắt đầu tiến tới sự tự do hóa rộng
lớn hơn phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của GATT/WTO, có tính tới sự đa dạng
về trình độ phát triển kinh tế khác nhau của các thành viên APEC".
Trên thực tế, mục
tiêu về một khu vực thương mại mở ở châu Á - Thái Bình Dương đã được đề cập ngay
từ Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai năm 1990. Tại Hội nghị này, các Bộ trưởng đã
đồng ý rằng "chủ đề trung tâm kế tiếp của APEC sau sự kết thúc Vòng đàm phán
U-ru-goay là xúc tiến một hệ thống thương mại cởi mở hơn". Mục tiêu này được
thúc đẩy tại Hội nghị Cấp cao lần thứ nhất tại Seattle (Mỹ) tháng 11 năm 1993
khi các nhà Lãnh đạo APEC thừa nhận sự tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế và sự đa
dạng của các nền kinh tế ở khu vực, đồng thời bắt đầu nhìn nhận về một "cộng
đồng” châu Á - Thái Bình Dương.
Một năm sau, tại Hội
nghị Cấp cao ở Bô-go, In-đô-nê-xi-a, các nhà Lãnh đạo APEC đã tiến một bước lớn
hướng tới mục tiêu dài hạn về thương mại và đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Tuyên bố về Quyết tâm chung của Hội nghị nhấn mạnh:
"Chúng ta nhất trí tuyên bố cam kết hoàn thành việc đạt được mục tiêu về thương
mại, đầu tư tự do và mở trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2010 đối
với các thành viên phát triển và năm 2020 đối với các thành viên đang phát
triển". Mặc dù còn có những khác biệt giữa các thành viên APEC về nhận thức đối
với cam kết của các nhà Lãnh đạo Cấp cao hay những bảo lưu của một vài thành
viên về mục tiêu tự do hóa thương mại, cam kết của các nhà Lãnh đạo đã đặt nền
tảng đầu tiên cho việc hình thành một khu vực tự do hóa thương mại và đầu tư ở
một khu vực rộng lớn nhất thế giới và có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất
thế giới.
Nhận thức rõ tầm
quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững của
các nền kinh tế, đồng thời giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các thành viên, APEC cũng rất coi trọng đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
Ngay từ Hội nghị Bộ trưởng lần thứ nhất năm 1989, các Bộ trưởng đã nhất trí rằng
để APEC đem lại những lợi ích thực sự, các thành viên phải tiến xa hơn, không
chỉ đồng ý về các nguyên tắc cơ bản mà phải đi vào những vấn đề hợp tác cụ thể.
Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai năm 1990, APEC đã lập ra 7 Nhóm công tác nhằm
phối hợp các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị Bộ trưởng lần
thứ tư năm 1992 đã thông qua một khuôn khổ chung về thương mại và đầu tư nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư trong khu vực. Chính những hoạt
động của các Nhóm công tác và khuôn khổ chung về thương mại và đầu tư đã đặt nền
tảng cho sự hợp tác về kinh tế và kỹ thuật của APEC và được ghi nhận như là nội
dung thứ hai (để bổ sung và hỗ trợ cho nội dung thứ nhất là thúc đẩy tự do hóa
thương mại và đầu tư) trong Chương trình Hành động Ô-xa-ca được thông qua tại
Hội nghị Cấp cao ở Ô-xa-ca, Nhật Bản năm 1995.
2.2. Nguyên tắc
hoạt động của APEC
a. Nguyên tắc cùng
có lợi
Tuyên bố Xê-un của
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba năm 1991 nêu rõ: "Việc hợp tác trong APEC dựa trên
nguyên tắc cùng có lợi, có tính đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển
kinh tế trong các hệ thống chính trị - xã hội, và chú ý đầy đủ đến các nhu cầu
của những nền kinh tế đang phát triển".
Việc duy trì nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của
APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền kinh tế rất đa dạng về
điều kiện địa lý, lịch sử và văn hoá, về chế độ chính trị - xã hội và đặc biệt
có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển. Trong điều kiện APEC bao gồm cả
những nền kinh tế lớn và phát triển nhất, cũng như những nền kinh tế nhỏ và kém
phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới các mối quan tâm chung, lợi ích chung của
các thành viên và tập trung vào các vấn đề hợp tác kinh tế và phát triển. Nhờ
vậy, APEC có sức hấp dẫn lớn đối với các nước trong và ngoài khu vực. Chỉ gần
mười năm sau khi thành lập, APEC đã bao gồm 21 thành viên, trong đó có những nền
kinh tế hùng mạnh bậc nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc.
Trong khi thừa nhận
mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải dựa trên cơ sở cùng có lợi,
để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên tắc này cũng nhấn mạnh cần chú ý
tới sự khác biệt về trình độ phát triển, chế độ chính trị - xã hội và yêu cầu
của các nền kinh tế đang phát triển. Đây là điểm rất quan trọng trong nguyên tắc
hoạt động của APEC nhằm giải toả mối lo ngại của một số thành viên là nước đang
phát triển trong APEC rằng sự khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, khoa
học và công nghệ có thể dẫn tới sự lệ thuộc bất bình đẳng của họ vào các nền
kinh tế tiến tiến hơn, làm tăng mâu thuẫn và phân cực Bắc - Nam ngay trong APEC.
Các nước ASEAN đã
thông qua nguyên tắc nhất trí Cun-ching (1989), trong đó nhấn mạnh: "Việc tăng
cường APEC cần phải dựa trên cơ sở công bằng, bình đẳng và cùng có lợi, có chú ý
đầy đủ đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế và hệ thống chính
trị - xã hội của các nước trong khu vực".
Trong các hoạt động
của APEC, các thành viên đang phát triển đã được dành cho những ưu đãi nhất
định. Trước hết, việc đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư được chia làm
hai thời biểu, theo đó các nước phát triển sẽ hoàn thành mục tiêu này vào năm
2010 và các nền kinh tế đang phát triển sẽ chậm hơn 10 năm (2020). Hợp tác trong
APEC không chỉ nhấn mạnh tới mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn
triển khai trên các lĩnh vực cụ thể nhằm hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển
vươn lên rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Vì thế, tại Hội nghị Bộ trưởng Ô-xa-ca
năm 1995, các thành viên đã thông qua Chương trình Hành động Ô-xa-ca, trong đó
coi hợp tác kinh tế và kỹ thuật như là nội dung thứ hai trong hoạt động của
APEC, có tác động hỗ trợ để đạt tới mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư
trong khu vực.
b. Nguyên tắc đồng
thuận (consensus)
Một trong những
nguyên tắc quan trọng nhất của hợp tác trong APEC, như Tuyên bố Xê-un đã nêu rõ,
là dựa trên "cam kết về sự đối thoại cởi mở và xây dựng sự đồng thuận, bình
đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả thành viên tham gia".
Khác với hoạt động
trong GATT/WTO, trong đó các nước phải qua một quá trình thương thuyết, đàm phán
lâu dài và thường là gay gắt để đạt được những thoả thuận và hiệp định có tính
pháp lý quốc tế cao, APEC đi tới các quyết định thông qua quá trình xây dựng sự
đồng thuận. Tất cả các Hội nghị, từ Hội nghị Cấp cao đến Hội nghị cấp Bộ trưởng
hay cấp chuyên viên đều mang tính chất tư vấn, theo nghĩa là các thành viên
không tham gia vào những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để đạt tới những
quyết định có tính ràng buộc. Toàn bộ quyết định của các nhà Lãnh đạo Cấp cao,
các Bộ trưởng đều được đưa ra trong Tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các
thành viên.
Nguyên tắc đồng
thuận thể hiện một mô hình hợp tác tương đối thành công trong khu vực do ASEAN
khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh tế trong khu vực, nguyên tắc
đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua nguyên tắc này, APEC đã xây dựng được
những nền tảng có ý nghĩa quan trọng và thực tế để đẩy mạnh hợp tác, một chương
trình làm việc toàn diện và một thoả thuận lịch sử về tự do hóa thương mại và
đầu tư trong khu vực tới năm 2020.
Duy trì nguyên tắc
nhất trí trong một tập hợp đa dạng như APEC là một điều khó khăn, đặc biệt khi
APEC đi vào những vấn đề hành động cụ thể. Tuy nhiên, các thành viên APEC coi
đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình hoạt động và ra quyết
định của APEC, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành viên trong Diễn đàn này.
c. Nguyên tắc tự
nguyện
Xuất phát từ đặc
điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan hệ kinh tế quốc tế trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các thành viên trong APEC mang
tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể hiện trên hai điểm:
Trước hết, APEC chỉ
là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm xúc tiến sự hợp
tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội nghị đầu tiên, các Bộ
trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn đàn tham khảo ý kiến về các vấn đề
kinh tế nhằm tăng cường trao đổi quan điểm giữa các nước châu Á - Thái Bình
Dương. Tính chất tự nguyện trong hoạt động của APEC được thể hiện trong nguyên
tắc Cun-ching do các nước ASEAN đề xướng: "APEC cần cung cấp một Diễn đàn tư vấn
kinh tế và không nhất thiết dẫn tới sự thông qua các quyết định có tính chất bắt
buộc bất cứ thành viên nào phải chấp nhận hay thực hiện". Cơ chế hoạt động tự
nguyện còn được khẳng định lại trong Tuyên bố Xê-un năm 1991: "APEC sẽ hoạt động
thông qua quá trình tư vấn và trao đổi quan điểm giữa các đại điện cao cấp của
các nền kinh tế thành viên APEC, dựa trên các nghiên cứu, phân tích và các ý
tưởng về chính sách do các nền kinh tế tham gia và các tổ chức liên quan bao gồm
các Ban Thư ký của ASEAN, PECC và PIF đóng góp".
Thứ hai, do APEC chỉ
là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó không đưa ra những quyết định, nguyên tắc
có tính bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động hợp tác đều dựa trên cơ
sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù
của quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực. Trong khi các tổ chức hợp tác khu
vực khác, đặc biệt là Liên hiệp châu Âu (EU) có cơ cấu tổ chức hết sức chặt chẽ
với các cơ quan liên chính phủ như Hội đồng châu Âu, Toà án châu Âu và Quốc hội
châu Âu để điều phối sự hợp tác giữa các nước thành viên, APEC đến nay về cơ bản
vẫn là một cấu trúc tương đối lỏng lẻo với một Ban Thư ký, Uỷ ban Ngân sách và
Quản lý để điều phối hoạt động trong APEC và của các thành viên. Ngay từ khi
Cộng đồng châu Âu được thành lập vào những năm 1950, quá trình phát triển của nó
đã được đặc trưng bởi sự hội nhập thể chế, trong đó những yếu tố chính trị tác
động rất quan trọng và đã hình thành một cơ cấu liên chính phủ có khả năng phán
quyết trên một số lĩnh vực của các thành viên. Trong khi đó, sự hội nhập kinh tế
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dẫn dắt và thúc đẩy chủ yếu bởi các lực
lượng thị trường. Sự phát triển về cơ cấu tổ chức cho đến nay mới chỉ mang tính
chất hỗ trợ cho quá trình hợp tác trong APEC chứ không phải là mục tiêu tự thân
của nó. Con đường phát triển của APEC như vậy phù hợp với đặc điểm đa dạng về
chế độ chính trị - xã hội của khu vực vì nó cho phép trong khi khai thác được
những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ quyền kinh
tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên ngoài vào chế độ chính trị - xã hội của
các thành viên.
Mặc dù có cơ cấu tổ
chức lỏng lẻo, thời gian qua APEC vẫn có những bước tiến đáng kể. Nếu như EU cần
tới hơn 40 năm để có được mức độ liên kết kinh tế như ngày nay, GATT/WTO cũng
cần tới một thời gian gần 50 năm để đạt tới những mức độ nhất định về tự do hóa
thương mại và đầu tư thì trong vòng gần mười năm, APEC đã đi từ nhận thức chung
tới những hành động cụ thể nhằm đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư. Tại
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ năm ở Bô-go, In-đô-nê-xi-a, các Bộ trưởng đã thông
qua 10 nguyên tắc đầu tư không ràng buộc nhằm thúc đẩy đầu tư và luồng tư bản
trong khu vực. Phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, trong Tuyên bố chung về Chương
trình Hành động Ô-xa-ca, các Bộ trưởng đã nhấn mạnh cách tiếp cận duy nhất của
APEC đối với tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư là phải kết hợp
giữa ba mặt hành động: Hành động đơn phương có phối hợp, hành động tập thể và
hành động đa phương. Hành động đơn phương có phối hợp là các việc làm tự nguyện
của mỗi thành viên trên lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ, sở hữu trí
tuệ... phù hợp với phương hướng, mục tiêu và Chương trình hành động của APEC.
Sau Hội nghị Cấp cao
lần thứ ba ở Ô-xa-ca năm 1995, các nhà Lãnh đạo của các nền kinh tế thành viên
đã lần lượt công bố các cam kết ban đầu nhằm thực hiện Chương trình Hành động
của APEC. Trung Quốc đã công bố cam kết lớn nhất cắt giảm 30% thuế quan cho 2/3
các mặt hàng. Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ tư ở Ma-ni-la năm 1996, Phi-li-pin
tuyên bố tự nguyện giảm hàng rào thuế quan (trừ hàng nông phẩm) xuống mức 5% vào
năm 2004, Thái Lan cam kết giảm thuế quan trung bình xuống 17% vào năm 1997 và
In-đô-nê-xia giảm thuế quan xuống còn từ 0-10% vào năm 2003. Các nhà lãnh đạo
APEC cũng đã thông qua Kế hoạch Hành động Ma-ni-la (MAPA) năm 1996 bao gồm các
biện pháp hành động cho thời gian trước mắt, trung hạn và dài hạn trong 15 lĩnh
vực cụ thể để thực hiện Chương trình Hành động Ô-xa-ca (1995).
d. APEC là diễn đàn
mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO
APEC là một diễn đàn
"mở" theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa phương, không tạo ra sự phân
biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm nước khác trên thế giới, đồng thời
APEC mở cửa cho các nền kinh tế không phải thành viên APEC trong khu vực tham
gia.
Ủng hộ chế độ thương
mại đa phương mở không chỉ là một nguyên tắc mà còn là một trong những mục tiêu
của APEC. Ngay từ giai đoạn đầu của APEC (1989 - 1993), khi Vòng đàm phán
U-ru-goay của GATT bị mất động lực và rơi vào bế tắc, APEC đã đặt việc phấn đấu
để kết thúc thành công vòng đàm phán này thành một trong những mục tiêu chủ yếu
của mình. Các thành viên châu Á của APEC cùng chung mối lo ngại về xu hướng bảo
hộ ở châu Âu và Bắc Mỹ vì nó có thể sẽ gây tổn hại tới chiến lược hướng về xuất
khẩu của họ. Vì thế, sự cam kết về một chế độ thương mại đa phương mở - thể hiện
trong thuật ngữ "chủ nghĩa khu vực mở", là một trong những nhân tố quan trọng
gắn kết các thành viên APEC với nhau. APEC đã đi đầu trong những nỗ lực nhằm
tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở. Là một khu vực chiếm tới 47% thương
mại toàn cầu và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, những sáng kiến
của APEC trong các cuộc đàm phán toàn cầu đủ để thúc đẩy châu Âu và các nước
khác xúc tiến tự do hóa thương mại mà không cần tạo ra sự phân biệt đối xử mới
trong hệ thống thương mại thế giới. Trong Tuyên bố chung tại Xơ-un năm 1991, các
Bộ trưởng đã ghi nhận rằng: "Một trong những nguyên tắc cơ bản của APEC là tạo
ra ảnh hưởng mạnh mẽ, tích cực tới sự tiến triển của hệ thống thương mại toàn
cầu, và khả năng của APEC để thực hiện điều đó sẽ được tăng cường mạnh mẽ qua
việc tự mình làm một hình mẫu tích cực. Việc theo đuổi tự do hóa thương mại
trong APEC phù hợp với cơ sở của GATT/WTO và không làm tổn hại tới các nước khác
sẽ tạo ra sự hỗ trợ mạnh mẽ cho hệ thống thương mại toàn cầu...".
Tuyên bố Xê-un còn
nêu rõ: "Về nguyên tắc, việc tham gia vào APEC sẽ rộng mở đối với những nền kinh
tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những mối quan hệ kinh tế chặt chẽ
với khu vực châu Á - Thái Bình Dương và chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc
của APEC". Từ khi thành lập tới nay, APEC đã kết nạp thêm 9 thành viên mới
(Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Pa-pua Niu Ghi-nê, Mê-hi-cô, Chi-lê, Pê-ru,
Liên bang Nga, Việt Nam). Nguyên tắc "mở" của APEC còn thể hiện ở chỗ các thành
viên của APEC không chỉ là những quốc gia có chủ quyền với chế độ chính trị - xã
hội riêng biệt và được cộng đồng quốc tế công nhận mà còn bao gồm cả các lãnh
thổ kinh tế.
3. Cơ cấu tổ chức
của APEC
3.1. Cấp chính
sách
a. Hội nghị không
chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)
Hội nghị các nhà
Lãnh đạo cao nhất của các thành viên APEC được tổ chức hàng năm bắt đầu từ năm
1993. Tháng 11 năm 1993 tại Seattle (Mỹ) theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Bin
Clin-tơn, lần đầu tiên trong lịch sử, 14 vị nguyên thủ quốc gia và đứng đầu
chính phủ của các thành viên APEC đã gặp gỡ và trao đổi về các vấn đề kinh tế.
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ nhất đã nâng vị thế của APEC lên tầm cao mới trên
trường quốc tế, như Tuyên bố chung của các nhà Lãnh đạo khẳng định: "Cuộc họp
của chúng ta phản ánh sự nổi lên của một tiếng nói mới cho khu vực châu Á - Thái
Bình Dương trong các vấn đề quốc tế".
Để tăng cường hơn
nữa cam kết ở cấp Lãnh đạo cao nhất của các thành viên đối với các mục tiêu và
tiến trình của APEC, kể từ năm 1993, các thành viên APEC đã nhất trí tổ chức Hội
nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC mỗi năm một lần vào dịp cuối năm, năm 2003 là
Hội nghị lần thứ 11 được tổ chức tại Băng-cốc, Thái Lan vào tháng 10. Việc lập
ra cơ chế Hội nghị Cấp cao thường niên với tư cách là cơ quan quyết định chính
sách cao nhất của APEC đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của
APEC.
Giáo sư C.F.
Bergsten, Chủ tịch "Nhóm Danh nhân" (EPG) đã nhận xét: "Các nhà lãnh đạo tại
Seattle đã bắt đầu một quá trình biến APEC từ một cơ chế thuần tuý là tư vấn trở
thành một tổ chức quốc tế thực sự". Trong khuôn khổ các Hội nghị Cấp cao, tiến
trình hợp tác APEC được thúc đẩy mạnh mẽ và đạt những kết quả đáng kể. Kết quả
đạt được từ các Hội nghị Cấp cao đã từng bước hoàn thiện những quan điểm chung
của APEC, cụ thể hóa các mục tiêu cũng như thời biểu của APEC tiến đến tự do hóa
thương mại và đầu tư thành Kế hoạch Hành động Tập thể và Kế hoạch Hành động
Riêng lẻ của từng nền kinh tế thành viên.
b. Hội nghị liên Bộ
trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC
Hội nghị Bộ trưởng
APEC họp lần đầu tiên tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia tháng 11 năm 1989 với sự tham
gia của các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế của 12 nền kinh tế thành
viên. Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng năm theo nguyên tắc luân phiên giữa
các nước thành viên APEC. Thành viên đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng hàng
năm sẽ giữ ghế Chủ tịch Hội nghị.
Hội nghị Bộ trưởng
APEC quyết định phương hướng hoạt động của APEC và ấn định thời gian thực hiện
chương trình hành động cho năm sau. Các quyết định của Hội nghị được thể hiện
trong Tuyên bố chung, bao gồm:
- Quyết định
về các vấn đề tổ chức: xác định mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC; thành
lập các uỷ ban, hội đồng...; thành lập quỹ APEC và qui định tỷ lệ đóng góp của
các thành viên; vấn đề kết nạp thành viên mới.
- Quyết định
nguyên tắc, mục tiêu, nội dung các chương trình hoạt động và đánh giá tiến trình
hợp tác của APEC cũng như công tác của các Uỷ ban, các Nhóm công tác và các Nhóm
đặc trách.
- Xem xét và
đánh giá việc thực hiện các sáng kiến của Hội nghị Cấp cao Không chính thức.
- Thông qua
dự thảo chương trình hành động về tự do hóa thương mại và đầu tư, sau đó đệ
trình lên Hội nghị Cấp cao xem xét và quyết định cuối cùng.
Trong khuôn khổ
APEC, ngoài Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC được tổ chức
thường niên, các Hội nghị Bộ trưởng khác có tính chất chuyên ngành được triệu
tập khi cần thiết để giải quyết các vấn đề cụ thể, liên quan tới lợi ích chung
của các thành viên.
3.2. Cấp làm việc
a. Hội nghị các Quan
chức Cao cấp (SOM)
Hội nghị này được tổ
chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm nhằm chuẩn bị và đưa ra các
khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ chức, chương trình hoạt
động của APEC, chương trình hành động tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư,
kế hoạch hành động của các nền kinh tế thành viên và các chương trình hợp tác
kinh tế, khoa học - công nghệ của APEC, xem xét và điều phối ngân sách và chương
trình công tác của các Uỷ ban, các Nhóm công tác và Nhóm đặc trách.
Trước Hội nghị Quan
chức Cao cấp, sẽ có các cuộc họp của các Nhóm công tác liên quan gồm đại diện
cho các thành viên APEC để chuẩn bị những nội dung cần thiết báo cáo lên Hội
nghị các Quan chức Cao cấp.
Hội nghị các Quan
chức Cao cấp có trách nhiệm thúc đẩy tiến trình APEC phù hợp với các quyết định
của Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế, Hội nghị Bộ trưởng và chương trình hành
động thông qua tại hội nghị này.
b. Uỷ ban Thương mại
và Đầu tư
Uỷ ban Thương mại và
Đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở Tuyên bố về "Khuôn khổ hợp tác
và đầu tư" của Hội nghị Bộ trưởng. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư có nhiệm vụ thúc
đẩy hợp tác về tự do hóa thương mại và tạo môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các
nền kinh tế thành viên. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm
trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề liên quan tới thương mại và đầu tư trong
khu vực đồng thời chỉ đạo các Tiểu ban và Nhóm chuyên gia trong việc giải quyết
những vấn đề cụ thể. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư là một trong số các cơ quan chủ
chốt của APEC giúp thực hiện Kế hoạch Hành động Ô-xa-ca và Kế hoạch Hành động
Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực như Thuế quan và các biện pháp phi quan
thuế, Dịch vụ, Giảm bớt các quy định, Hoà giải tranh chấp, Thực hiện kết quả
Vòng đàm phán U-ru-goay, Đầu tư, Thủ tục Hải quan, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Đi
lại của Doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, Chính sách Cạnh tranh, Chi tiêu chính phủ,
Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực hiện tốt vai trò của mình trong 15
lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, mỗi năm Uỷ ban Thương mại và Đầu tư
nhóm họp ba lần và đây đã thực sự trở thành một diễn đàn hiệu quả đối với các
nền kinh tế thành viên để trao đổi các vấn đề về thương mại và chính sách.
c. Uỷ ban SOM về Hợp
tác Kinh tế-Kỹ thuật
Tiểu ban SOM về Hợp
tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC) được thành lập năm 1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị Quan
chức Cao cấp (SOM) trong việc phối hợp và quản lý các hoạt động hợp tác kinh
tế-kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này của
các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chỉ là Tiểu ban về ECOTECH, năm
2002 đổi tên thành Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC). Bằng việc thúc
đẩy hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác ECOTECH,
Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật cùng với các diễn đàn khác trong APEC giữ
vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững của APEC.
Tại Hội nghị các
Quan chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, các thành viên APEC đã nhất trí thông qua
bốn lĩnh vực ưu tiên của ECOTECH trong thời gian tới là: (i) Hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu; (ii) Xây dựng năng lực chống khủng bố; (iii) đẩy mạnh và phát
triển kinh tế tri thức; và (iv) Giải quyết những tác động xấu của Toàn cầu hóa.
Muốn thúc đẩy hợp
tác trong khuôn khổ ECOTECH cần có sự hỗ trợ đắc lực của các thể chế tài chính,
bởi vậy Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật đang tiến hành nghiên cứu cách
thức để APEC có thể tăng cường hợp tác cùng có lợi với các tổ chức tài chính
quốc tế cũng như các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực Hợp tác Kinh tế-Kỹ
thuật, đặc biệt là hợp tác về chuyên gia kỹ thuật và xây dựng năng lực giữa các
thành viên APEC; đồng thời không ngừng tăng cường phối hợp giữa Uỷ ban SOM về
Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật với các diễn đàn khác của APEC.
d. Uỷ ban Kinh tế
Uỷ ban Kinh tế (EC)
được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ sáu tháng 11 năm 1994 để thực
hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn đề kinh tế thông qua các chỉ số kinh tế
cơ bản. Uỷ ban Kinh tế là một diễn đàn thúc đẩy đối thoại giữa các nền kinh tế
thành viên về các vấn đề kinh tế, dự báo, xu hướng kinh tế trong khu vực để tạo
ra một khung cảnh rộng hơn cho sự hợp tác trong APEC. Hoạt động của Uỷ ban đóng
vai trò quan trọng, hỗ trợ cho việc soạn thảo chính sách trong các diễn đàn khác
của APEC.
Trước đây khi chưa
có Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật, Uỷ ban Kinh tế có nhiệm vụ chuẩn bị
Báo cáo về Hợp tác kinh tế và kỹ thuật trong APEC, tập trung vào những vấn đề
năng lượng, môi trường, cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, dân số, phát
triển bền vững, thương mại và đầu tư. Trong lĩnh vực tự do hóa thương mại và đầu
tư, các dự án nghiên cứu của Uỷ ban bao gồm nghiên cứu tác động về mặt kinh tế
của quá trình tự do hóa thương mại, tác động của tự do hóa đầu tư và các nguyên
tắc tự do hóa đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các chính sách cạnh tranh,
chính sách sở hữu trí tuệ, hợp tác tiểu khu vực và tác động của nó tới APEC.
Hiện nay, Uỷ ban Kinh tế đang xúc tiến nghiên cứu một số vấn đề kinh tế và hợp
tác kinh tế, trong đó bao gồm triển vọng kinh tế khu vực hàng năm và vai trò của
các thể chế tài chính; thuận lợi và khó khăn cũng như lợi ích của việc cơ cấu
l��i nền kinh tế; các vấn đề liên quan đến Kinh tế mới và Kinh tế tri thức; và
một số chương trình hỗ trợ quá trình Tự do hoá, Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu
tư trong APEC.
e. Uỷ ban Ngân sách
và Quản lý
Uỷ ban Ngân sách và
Quản lý (BMC) được thành lập năm 1993, có chức năng tư vấn cho các quan chức cao
cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành. Uỷ ban này được trao quyền
đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem xét các ngân sách hoạt động
do các Nhóm công tác, các Uỷ ban đưa ra, và ngân sách hành chính do Ban thư ký
đưa ra. Uỷ ban có quyền đánh giá về hoạt động của các Nhóm công tác và khuyến
nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả; xem
xét các khoản chi tiêu của Nhóm công tác và dự án của các Nhóm đặc trách. Uỷ ban
Ngân sách và Quản lý họp mỗi năm hai lần thường vào cuối tháng ba và tháng bảy.
Uỷ ban Ngân sách và
Quản lý có chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến ngân sách chung của
APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế thành viên. Hội nghị Bộ trưởng APEC
lần thứ tư năm 1992 quyết định thành lập Ban Thư ký APEC và quỹ tài chính chung
do các thành viên đóng góp. Mức đóng góp căn cứ trên GNP của từng nền kinh tế
thành viên và bình quân GNP/người trong ba năm gần nhất. Hiện trong APEC đang có
bốn mức phí đóng góp: đứng đầu là Mỹ và Nhật Bản, đóng góp tới 18% tổng ngân
quỹ; tiếp đến là Xinh-ga-po, Hồng Công, Niu Di-lân đóng 2,75%; xếp hàng thứ ba
là Trung Quốc, Ôt-xtrây-lia, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Hàn Quốc, Đài Loan, Liên bang
Nga; đóng góp mức thấp nhất là Chi-lê, Ma-lai-xia, Thái Lan, Phi-líp-pin,
Bru-nây, In-đô-nê-xia, Pa-pua Niu Ghi-nê, Pê-ru, Việt Nam, mỗi thành viên đóng
góp 1,5% ngân quỹ. Cho đến nay, Quỹ chung của APEC gồm ba khoản chính: (i) Chi
phí hành chính cho hoạt động của APEC, cụ thể là chi phí cho hoạt động của Ban
Thư ký; (ii) Chi phí cho các dự án của APEC; (iii) Quỹ đặc biệt để thúc đẩy Tự
do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư trong APEC, quỹ này do Nhật Bản
đóng góp (năm 1995, Nhật Bản cam kết sẽ đóng góp 10 tỷ yên để hỗ trợ cho việc
thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư).
f. Các Nhóm công tác
Các Nhóm công tác có
chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo, Bộ trưởng và quan chức cao cấp
giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11 Nhóm công tác phụ trách các lĩnh
vực sau: Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp, Năng lượng, Nghề cá, Phát triển Nguồn
nhân lực, Khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Thông tin và Viễn thông, Du lịch, Xúc tiến thương mại, Vận tải. Phần lớn
hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng
trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này,
các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính
giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Uỷ
ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các Nhóm công tác là nền tảng chủ
yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo
luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu
của các Nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo
là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên quan đến
phương hướng hoạt động của APEC.
g. Các Nhóm đặc
trách của SOM
Bên cạnh các Nhóm
công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra ba Nhóm đặc trách nhằm xác
định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về những lĩnh vực quan trọng cần xem xét
trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có ba Nhóm đặc trách của SOM là:
Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới (Gender Focal-Points Network),
Nhóm chỉ đạo về thương mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm
đặc trách về Chống khủng bố (Counter-Terroism Task Force).
Nhóm đặc trách về
Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003 nhằm tiếp tục các
chương trình về hội nhập giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ giới vào các hoạt
động thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân của nhóm đặc trách này là Nhóm Tư
vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập giới (the SOM Ad Hoc Advisory Group on Gender
Integration - AGGI) tồn tại từ năm 1999 đến năm 2002.
Nhóm đặc trách về
thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999 với vai trò phối hợp và
thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại điện tử của APEC thông qua hệ thống
các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán. Những nỗ lực của Nhóm
đặc trách về thương mại điện tử trong thời gian vừa qua đã góp phần nâng cao
lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào lĩnh vực thương mại điện tử, và qua
đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử như
In-tơ-nét để tiến hành trao đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi
giữa các nền kinh tế.
Nhóm đặc trách về
Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan chức Cao cấp tháng 2 năm
2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà Lãnh đạo về Chống khủng bố và Thúc
đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10 năm 2002 tại Mê-hi-cô. Nhóm đặc trách về
Chống khủng bố có chức năng giúp đỡ các nền kinh tế thành viên trong việc xác
định và đánh giá những biện pháp cần thiết để chống khủng bố, phối hợp các
chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và năng lực, và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa
APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan đến chống
khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của Nhóm đặc trách
về Chống khủng bố là: Sáng kiến về Bảo đảm An ninh Thương mại trong khu vực APEC
(the Secure Trade in the APEC Region - STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ tài chính cho
các hoạt động khủng bố; tăng cường an ninh mạng; sáng kiến an ninh năng lượng;
và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
3.3. Ban Thư ký
APEC
Hội nghị Bộ trưởng
APEC lần thứ tư ở Băng Cốc năm 1992 nhận thấy cần phải có một cơ chế giúp việc
hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong APEC nhằm tăng cường vai trò
và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, đã nhất trí thành
lập Ban Thư ký APEC, đặt trụ sở tại Xinh-ga-po, và lập một quỹ chung của APEC.
Ban Thư ký APEC đứng
đầu là một Giám đốc Điều hành, do nước giữ ghế Chủ tịch APEC cử với thời hạn một
năm. Một phó giám đốc điều hành do nước sẽ giữ chức Chủ tịch APEC vào năm tiếp
theo cử. Đây là các quan chức của Chính phủ mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban Thư
ký APEC hiện có khoảng 20 Giám đốc chương trình do các nền kinh tế thành viên
tiến cử, 25 nhân viên chuyên nghiệp (cũng được biệt phái từ các nước thành viên)
và các nhân viên phục vụ.
Ban Thư ký làm việc
dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp và có quan hệ thông tin trực tiếp
thường xuyên với các thành viên, các Uỷ ban, các Nhóm công tác và các Nhóm đặc
trách của APEC. Mới đây, Ban Thư ký APEC quyết định nâng cấp trang Mạng
(website) của mình nhằm giới thiệu về APEC, giúp cho việc tiếp cận các thông tin
về hoạt động của APEC được dễ dàng hơn.
Ban Thư ký APEC giữ
vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của APEC, có chức năng tư vấn, hỗ
trợ kỹ thuật, phối hợp các hoạt động của APEC; điều hành ngân sách hàng năm của
APEC; cũng như quản lý thông tin và các dịch vụ thông tin tuyên truyền. Từ năm
1993, do vấn đề tài chính và ngân sách trở nên phức tạp, chức năng điều hành tài
chính được chuyển giao cho Uỷ ban Ngân sách và Quản lý.
Ban Thư ký APEC đồng
thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý các dự án của APEC. Hiện Ban Thư ký
APEC đang hỗ trợ các nền kinh tế thành viên và các diễn đàn trong khuôn khổ APEC
quản lý hơn 230 dự án lấy kinh phí từ quỹ của APEC.
II. QUAN
HỆ VIỆT NAM – APEC
Ngày
14/11/1998, các thành viên của APEC đã thông qua việc kết nạp Việt Nam, cùng
với Liên bang Nga và Pêru, làm thành viên chính thức của APEC; đánh dấu bước đi
quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế của Việt Nam.
Trong
7 năm qua, APEC đã đóng vai trò quan trọng duy trì quá trình tự do hoá và tạo
thuận lợi hoá cho dòng chảy thương mại và đầu tư trong khu vực. Thị trường APEC
cũng đang tạo nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI và gia
tăng khôi lượng thương mại với các đối tác trong APEC. APEC cũng chính là điều
kiện để Việt Nam khẳng định quá trình hội nhập kinh tế đầy đủ của mình. Việt Nam
có nhiều đối tác lớn trong APEC như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga. Thị trường APEC có tiềm năng rất lớn đối với Việt
Nam, chiếm khoảng 80% kim ngạch buôn bán, 75% vốn đầu tư nước ngoài và trên 50%
nguồn viện trợ phát triển (ODA).
Tuy là
một thành viên mới, nhưng Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các chương
trình hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa của APEC. Việt
Nam đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến.Tại Hội nghị APEC lần thứ 11 tại Băng Cốc
(Thái Lan), có 2 sáng kiến của Việt Nam là tăng cường hợp tác nội khối và thành
lập Quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ được Hội nghị đánh giá cao. Đến nay,
Việt Nam đã đề xuất 11 dự án và đều được APEC thông qua, trong đó tập trung vào
các lĩnh vực chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, thủy sản, nông nghiệp, khoa
học-công nghiệp. Hiện Việt Nam đang tiến hành công tác chuẩn bị Hội nghị cấp cao
APEC 2006 và coi đây là một trong những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng. Việt Nam
đã tham gia mạnh mẽ vào một số Kế hoạch hành động tập thể (CAPs) trong hai lĩnh
vực hợp tác chủ yếu là Tiêu chuẩn và hợp tác (SCSC) và Thủ tục Hải quan (SCCCP),
dành ưu tiên cho Chương trình hợp tác kinh tế công nghệ (ECOTECH). Việt Nam đã
đứng ra tổ chức một số cuộc hội thảo trong khuôn khổ APEC như “Hội thảo về phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa” (3 đến 5/3/2003), hội thảo “Tăng cường hợp tác
trong lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch giữa các nền kinh tế APEC” (28 đến
31/10/2003), “Hội nghị thường niên Diễn đàn Nghị viện châu Á – Thái Bình Dương
(APPF) lần thứ 13” (10/1/2005)...Đặc biệt, Việt Nam sẽ lần đầu tiên đăng cai Hội
nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC 2006) vào tháng 11/2006. Năm 2006 cũng được chọn là Năm APEC Việt Nam. Phó
Thủ tướng Vũ Khoan đã khai mạc Hội nghị quốc tế về chuẩn bị cho Năm APEC Việt
Nam 2006 diễn ra hôm nay tại Hà Nội
Triển vọng hợp tác APEC
Việt
Nam rất coi trọng quan hệ hợp tác với APEC. Việc Chủ tịch nước Trần Đức Lương
dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 12, được tổ
chức tại Xantiagô (Chilê) từ ngày 20 -21/11/2004, cũng như việc Việt Nam tổ chức
Năm APEC Việt Nam 2006, một lần nữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam chủ động,
khẩn trương hơn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị vai trò chủ
nhà APEC 2006, thúc đẩy tiến trình đàm phán gia nhập WTO và mở rộng quan hệ với
các đối tác trong APEC. Như lời Phó thủ tướng Vũ Khoan đã nói trong Hội nghị
quốc tế chuẩn bị APEC Việt Nam, Việt Nam cam kết tiếp tục đẩy mạnh mở cửa kinh
tế và hội nhập sâu rộng hơn nữa kinh tế toàn cầu; thúc đẩy thực hiện mục tiêu
Bô-gô; bảo đảm môi trường kinh doanh an toàn và bền vững, cũng như trong các vấn
đề y tế, phòng chống thiên tai, an ninh năng lượng, chống tham nhũng, công nghệ
thông tin, sở hữu trí tuệ... Việt Nam sẽ nỗ lực góp phần giải quyết những thách
thức đặt ra cho APEC và tạo những thay đổi tốt hơn cho cộng đồng kinh tế khu
vực.
III. TIN HOẠT
ĐỘNG
- 1989, với
diễn đàn cấp bộ trưởng không chính thức tại Canbêra, Ôxtrâylia, APEC bắt đầu đi
vào hoạt động.
- 11/1993,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ nhất ở Seattle và 11/1994, Hội nghị Cấp cao APEC
lần thứ hai ở Bogor. Hai hội nghị này đã xây dựng được khuôn khổ thương mại, đầu
tư và phương hướng hành động cho APEC để đạt được mục tiêu tự do thương mại và
đầu tư chậm nhất và năm 2020.
- 11/1995,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ ba ở Osaka. Tại hội nghị này, các nội dung và lĩnh
vực hoạt động cụ thể đã được đề ra một cách tập trung trong Chương trình Hành
động Osaka, bao gồm vấn đề tự do hóa thương mại và đầu tư hợp tác kinh tế và kỹ
thuật giữa các thành viên trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản đã được thông qua.
- 11/1996,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ tư tại Manila, đã thông qua Kế hoạch Hành động
Manila (MAPA).
- 11/1997,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ năm tại Vancouver, Canada. APEC thông qua đề xuất
về Tự do hoá sớm các lĩnh vực một cách tự nguyện (EVSL) trong 15 lĩnh vực và
quyết định các kế hoạt hành động riêng sẽ được cập nhật hàng năm, xây dựng
chương trình thẻ du lịch doanh nhân APEC (ABTC)
- 11/1998,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ sáu tại Kuala Lămpua, Malaixia, APEC nhất trí 9
lĩnh vực đầu tiên cho EVSL và tìm kiếm thoả thuận EVSL với những thành viên
không thuộc APEC trong WTO. Việt Nam được kết nạp vào APEC trong đợt này.
- 11/1999,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ bảy tại Auckland, Niu Dilân, APEC quyết định sẽ
tiến tới thương mại không giấy đối với các nước phát triển vào năm 2005 và với
các nước đang phát triển vào 2010.
-11/2000, Hội
nghị Cấp cao APEC lần thứ bảy tại Bandar Seri Begawan, Brunây, lập hệ thống Kế
hoạch hành động riêng điện tử (e-IAP), thông qua Kế hoạch Hành động cho Nền kinh
tế mới, trong đó đặt mục tiêu tiếp cận internet tăng gấp ba vào năm 2005.
- 11/2001,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ tám tại Thượng Hải, Trung Quốc. APEC thông qua
Hiệp ước Thượng Hải, tập trung vào mở rộng tầm nhìn APEC, làm rõ Lộ trình tới
Bôgô và cải thiện cơ chế thực hiện, thông qua Chiến lược APEC điện tử.
- 11/2002,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ chín tại Los Cabos, Mêxicô, APEC thông qua Kế
hoạch Hành động Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, các tiêu chuẩn minh bạch
và kinh tế số hóa và chính sách thương mại. Tuyên bố Chống khủng bố lần thứ nhì
được công bố, cùng với việc thông qua Sáng kiến Thương mại An ninh trong khu vực
APEC (STAR).
- 3 đến
5/3/2003, hội thảo APEC về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện nghiên cứu và đào tạo quốc
tế thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tổ chức tại Hà Nội.
- 28 đến
31/10/2003, hội thảo "Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch
giữa các nền kinh tế APEC" diễn ra tại Hà Nội. Trong hội thảo, các nước APEC
nhất trí sẽ hợp tác nhằm nâng cao giá trị nông sản. Các nước có kinh nghiệm tăng
cường chuyển giao theo hướng hỗ trợ hoặc thương mại hóa cho các nước thành viên
APEC khác những công nghệ quan trọng.
- 9/2003,
chương trình “Tuần lễ APEC tại Việt Nam” và kỷ niệm 5 năm Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC). 18/9/2003, Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế tổ chức hội thảo
“Việt Nam – APEC, kết quả và triển vọng” nằm trong khuôn khổ chương trình này.
- 10/2003,
hội nghị các Nhà lãnh đạo Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 11. Các
nền kinh tế thành viên APEC đều lên tiếng ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO.
- 11 đến
16/10/2003, cuộc họp lần thứ 14 nhóm công tác nghề cá và lần thứ 16 nhóm công
tác bảo tồn tài nguyên biển của APEC, tổ chức tại Hà Nội.
- 11/2003,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ mười tại Băng Cốc, Thái lan. APEC nhất trí đẩy
mạnh đàm phán theo Chương trình nghị sự Doha, nhấn mạnh thêm mục tiêu ký kết các
hiệp định thương mại khu vực và song phương, Mục tiêu Bôgô và hệ thống thương
mại đa phương trong WTO; ký kết Kế hoạch hành động đối phó với dịch SARS và Sáng
kiến Bảo vệ sức khoẻ; tiếp tục hợp tác chống khủng bố...
- 11/2004,
Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ mười một tại Santiagô, Chilê. APEC có tuyên bố
mạnh mẽ sẽ ủng hộ tiến trình của Chương trình nghị sự Doha. APEC thông qua Sáng
kiến Santiagô cho Thương mại mở rộng và Hiệp định khung bí mật dữ liệu, thể hiện
quyết tâm chống khủng bổ, xây dựng hướng dẫn về quản lý hệ thống phòng không có
thể xách tay (MANPADS), tiếp tục thực hiện sáng kiến STAR, ký kết thoả thuận
chính trị về chống tham nhũng và đảm bảo minh bạch, và thành lập một chương
trình hành động đặc biệt vì mục đích này.
- 10/1/2005, khai
mạc Hội nghị thường niên Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) lần
thứ 13 tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, với sự tham dự của gần 300 đại
biểu đến từ 23 quốc gia thành viên APPF và nước quan sát viên Brunây.
- 1/7/2005
Việt Nam tuyên bố quyết định tham gia chương trình thẻ du lịch doanh nhân APEC
(ABTC).
(Nguồn: Bộ Kế
hoạch và Đầu tư)