28-08-2011 | |
PGS.TS Ngô Minh Oanh
Viện trưởng - Viện Nghiên cứu Giáo dục
Bài viết được trích từ Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Triết lý Giáo dục Việt Nam" do Viện Khoa học Giáo dục tổ chức tháng 8/2011
So với Phương Đông nền văn minh Phương Tây ra
đời chậm hơn đến cả thiên niên kỷ. Khi Phương Đông đã gặt hái được những thành
tựu rực rỡ của văn minh thì Phương Tây đang đắm chìm trong lạc hậu và dã man.
Họ đã tiếp thu những thành tựu văn minh của người phương Đông thông qua người Ả
Rập để làm giàu thêm kho tàng tri thức của mình. Những phát minh vĩ đại của
người Phương Đông (Trung Quốc) đã được người phương Tây sử dụng một cách hiệu
quả cho sự phát triển.
Kỹ thuật làm giấy và kỹ thuật in thay vì dùng
để in lá bùa, chú... phục vụ cho cúng bái của người Trung Quốc đã được người
phương Tây sử dụng phục vụ để in tài liệu phổ biến khoa học và in sách giáo
khoa phục vụ cho cho giáo dục nhà trường. Trường học ra đời sớm và giáo dục
phát triển là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội Tây Âu vào thời hậu kỳ
trung đại và thời cận đại đã bứt phá một cách ngoạn mục để lại phương Đông trì
trệ ở đàng sau. Giáo dục phương Tây với những triết lý của họ thật đáng nghiên
cứu và suy ngẫm.
1. Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, hai quốc
gia tiêu biểu của nền văn minh phương Tây là Hy Lạp và La Mã đã có đạt được những
thành tựu về giáo dục. Hy Lạp là một quốc gia cổ đại bao gồm vùng lãnh thổ phía
Nam bán đảo Ban Căng, các đảo trên biển Êgiê và vùng phía Tây Tiểu Á. Còn La Mã,
khi mới ra đời nằm trên vùng đất bán đảo Italia. Thời kỳ phát triển mạnh nhất
La Mã đã mở rộng lãnh thổ của mình bao gồm cả vùng Nam Âu, vùng phía Đông Địa
Trung Hải, vùng Bắc Phi và vùng phía Tây bao gồm các quốc gia ven bờ Đại Tây
Dương. Lãnh thổ La Mã rộng lớn đến mức, biển Địa Trung Hải như là một cái hồ
nhỏ nằm lọt trong lãnh thổ đế quốc. Thời kỳ Hy Lạp - La Mã là thời kỳ lãnh thổ
chưa định hình ổn định, những cuộc chiến tranh giữa các thành bang và giữa các
nước thường xuyên xảy ra. Do những yếu tố không thuận lợi về sản xuất nông
nghiệp, nhưng bù lại hai quốc gia này có nhiều thuận lợi về buôn bán, giao
thương ở trên biển. Chiến tranh và thương mại đều phải cần đến những con người quả
cảm, gan dạ để luôn giành phần thắng về mình. Những chiến binh dũng cảm dưới ngọn
cờ của vua Odyssey trong thiên anh hùng ca Italiad và Odyssey là những hình ảnh
lý tưởng, là nguyện vọng của người dân Hy Lạp muốn gửi gắm.
Từ những yêu cầu của công cuộc giao thương
hàng hải, việc bảo vệ và mở rộng lãnh thổ, nền giáo dục Hy Lạp đã tổ chức đào
tạo hướng đến đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Giai cấp chủ nô và tầng lớp quý
tộc đã tổ chức nền giáo dục của mình đào tạo ra những học trò theo mẫu hình mà
họ mong muốn: "Con trai các nhà quý tộc được đào tạo trong các vương phủ theo
chiều hướng thiên anh hùng ca để trở thành các quân nhân can đảm, dám hy sinh
để bảo vệ lãnh thổ quốc gia. Các thanh niên này sau sẽ trở thành những phần tử
ưu tú, các anh hùng của chế độ" [1].
Ở thành bang Sparta, học tập quân sự và công
dân giáo dục đóng vai trò quan trọng nhất với mục đích đào tạo các chiến sĩ
dũng cảm, sẵn sàng đóng góp, hy sinh cho tổ quốc[2] :
"Học sinh tùy theo tuổi được sắp xếp học tập trong các đơn vị do các chiến sĩ
trẻ tuổi đảm trách. Đây là những trung tâm giáo dục tập thể, thoát ly gia đình,
sống cuộc đời hoàn toàn quân ngũ với những đồng phục giản dị, ngủ trên đất, ăn
uống thiếu thốn và nhiều khi phải tự mưu sinh. Kỷ luật trường học nghiệt ngã, học
sinh tham gia huấn luyện vào cả ban ngày và ban đêm với những môn quân sự,
chiến tranh đặc biệt là phải tuân lệnh
thượng cấp một cách mù quáng. Từ những học sinh này, thành bang Sparta đã có một đội quân
rất hung mạng. Tất cả con trai Sparta
không chỉ đều phải rèn luyện trong các trường học quân sự của nhà nước, đến năm
20 tuổi thì phải tham gia quân đội cho đến năm 60 tuổi. Có thể nói nhờ đội ngũ những
"chiến binh" này mà Sparta
đã tồn tại và phồn thịnh trong nhiều thế kỷ.
Khác với thành bang Sparta, Athens là một
thành bang có chế độ chính trị dân chủ nhất ở Hy Lạp, có lẽ vì thế mà ở Athens trường
học được thực hiện theo một chương trình giáo dục không chú trọng quá nhiều đến
quân sự mà lại chú trọng hơn đến việc đào tạo mẫu người "khôn ngoan và đạo đức"
để phục vụ cho công việc thương mại ở trên biển. Để phục vụ mục tiêu đó đã xuất
hiện các phương pháp giáo dục mới như: Giáo dục "thực tế và đa dạng" của
Aristotle; giáo dục "diễn thuyết" của Sophist; giáo dục "đối thoại" của Socrates; giáo dục "lý tưởng" của Platon... Aristotle đã
tuyên bố về triết lý giáo dục của mình như sau: "Không ai có thể nghi ngờ được
rằng các nhà làm luật phải chú trọng đặc biệt vào việc giáo dục tuổi trẻ hơn
bất cứ vấn đề nào khác... Công dân phải được rèn luyện theo đường lối tổ chức
chính quyền đương thời"[3].
Tuy có kế thừa giáo dục Hy Lạp, nhưng La Mã
chú trọng hơn đến giáo dục gia đình. Với thanh niên La Mã, họ được chấm dứt
giáo dục gia đình khi tròn 16 tuổi, sau đó được gửi đi thực tập nghề nghiệp hay
thực hiện nghĩa vụ quân sự. Khởi đầu với tư cách là một quân nhân, dần dần họ được
đào tạo để trở thành cấp chỉ huy. Như vậy người thanh niên La Mã được đào tạo
theo truyền thống gia đình và xã hội, được chú trọng về quân sự. Giáo dục được hướng
đến như là một sự noi gương các bậc huynh trưởng với những hình ảnh thực tế của
nó.
2. Thời trung đại, Tây
Âu bước vào chế độ phong kiến từ thế kỷ thứ V với sự diệt vong của đế quốc Tây
La Mã. Sự kiện này đánh dấu chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, các vương quốc mới
thành lập trên lãnh thổ đế quốc Tây La Mã đi vào con đường phong kiến hóa. Xã
hội phong kiến với 2 giai cấp chủ yếu là giai cấp địc chủ phong kiến và
giai cấp nông dân. Hình thức bốc lột chủ yếu hình thức bóc lột địa tô phong
kiến - một nghĩa vụ nặng nề mà những người nông dân lĩnh canh phải gánh chịu.
Ki tô giáo bị đàn áp dã man khi mới ra đời, nay đã trở thành một thế lực mạnh
chi phối đời sống tinh thần và văn hóa xã hội. Vương quyền (nhà vua) và thần
quyền (giáo hội) đã dựa vào nhau và câu kết chặt chẽ để thống trị nhân dân. Trong
cơ cấu xã hội tầng lớp tăng lữ và giai cấp quý tộc phong kiến là đẳng cấp trên nắm
quyền thống trị xã hội. Một bộ phận quý tộc phong kiến là tầng lớp "kỵ sĩ" trở
thành mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến. Họ là tầng lớp luôn trung thành
với lãnh chúa, sùng đạo và tôn thờ người đẹp... mà xã hội luôn ca ngợi. Họ chính
là sản phẩm của nhà trường phong kiến Tây Âu bên cạnh tầng lớp tăng lữ được đào
tạo trong các nhà trường tôn giáo.
Giáo dục thời phong kiến Tây Âu có 2 loại
trường chính là các trường của giáo hội và loại trường của lãnh chúa phong
kiến.
Đối với loại trường của giáo hội, với thế lực
ngày càng mạnh, bên cạnh việc phát triển của hệ thống nhà thờ, hệ thống trường
học giáo hội cũng ra đời và phát triển nhanh chóng. Mục đích của giáo dục nhà
thờ không gì khác hơn là đào tạo ra tầng lớp tăng lữ để hiểu Chúa, tin Chúa và
đảm nhận sứ mệnh tuyên truyền giáo lý của tôn giáo. Người phụ trách và giảng
dạy trong các trường nhà thờ là các tăng lữ với ngôn ngữ của Chúa - tiếng La
tinh được dùng để giảng dạy cho học sinh. Học sinh được chú trọng rèn luyện khả
năng viết và nhớ, không được phép hoài nghi mà chỉ biết chấp nhận những gì thầy
đã dạy. Những môn học đã được dạy với tính thực dụng của nó: Nắm vững ngữ pháp
tiếng La tinh để hiểu kinh thánh, sách vở tôn giáo; học
phép biện chứng để học sinh có khả năng bảo vệ được những tín điều tôn giáo;
thuật hùng biện để thuyết phục tín đồ .v.v.
Với trường học phong kiến, giai cấp quý tộc phong
kiến đã dùng giáo dục để đào tạo ra tầng lớp kỵ sĩ - những người giỏi về cung
kiếm và có nghĩa vụ bảo vệ cho chính quyền phong kiến. Họ là những người sống
bằng nghề cung kiếm với những phẩm chất cần có là theo ý Chúa, trung thành và
dốc hết sức mình để bảo vệ các lãnh chúa. Họ được giáo dục qua các giai đoạn "thị
đồng" hay "tòng sĩ" mà phần lớn thời gian đều ở các "trường học gia đình" trong
lâu đài của các lãnh chúa. Nội dung học tập là những phẩm chất đạo đức phong
kiến như lòng trung thành tuyệt đối và triệt để chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Các
môn học cưỡi ngựa, ném lao, đánh kiếm, săn thú... cũng được dạy với mục đích hết
sức thực dụng là trở thành những người bảo vệ đắc lực cho tôn chủ. Đến năm 21
tuổi, nếu cậu học trò "tòng sĩ" đã nắm vững đầy đủ đạo đức phong kiến, có những
hiểu biết cần thiết về ba lĩnh vực: tôn giáo, chiến tranh và ái tình thì sẽ
được phong làm kỵ sĩ với một nghi lễ long trọng.
Do mục đích giáo dục chỉ nhằm đào tạo ra
những con người phục vụ nhà thờ và lãnh chúa phong kiến một cách mù quáng nên
những nội dung học tập chủ yếu là kinh thánh, quân sự mà thiếu vắng bóng dáng
của các môn khoa học, nhất là khoa học tự nhiên.
Với sự xuất hiện các thành thị thời trung đại
làm cho bộ mặt Tây Âu có nhiều thay đổi. Với sức mạnh kinh tế của mình, các thành
thị đã tự giải phóng ra khỏi sự ràng buộc vào các lãnh chúa để trở thành không
những là một trung tâm kinh tế mà còn là trung tâm văn hóa, giáo dục của xã hội
Tây Âu thời trung đại. Hoạt động văn hóa ở thành thị ngày càng phong phú, các
trường học thế tục dần dần xuất hiện. Từ thế kỷ thứ XII, các trường đại học ở
Tây Âu lần lượt ra đời, trong đó có các trường rất nổi tiếng như trường Đại học
Paris (1150); Đại học Oxford (1167); Đại học Cambridge (1233); Đại học Bôlônhơ
(1388); Đại học Heidenburg (1385); Đại học Harvard (1636)...
Vào các thế kỷ XV-XVI, ở Tây Âu mặc dù quan
hệ sản xuất phong kiến vẫn còn chiếm vị trí thống trị nhưng những quan hệ sản
xuất mới tư bản chủ nghĩa đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Từ sau những cuộc
phát kiến địa lý, Châu Âu hoàn toàn bị
lôi cuốn vào một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ tích lũy tư bản chủ nghĩa.
Tình hình đó đòi hỏi giáo dục phải thay đổi cho phù hợp với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Châu Âu bắt tay xây dựng một chương trình và triết lý giáo
dục mới: giáo dục thế tục, nhân văn và khoa học. Sản phẩm của nền giáo dục cũ
đào tạo ra những con người sùng đạo và trung thành không còn phù hợp nữa mà
phải thay vào đó là sản phẩm của giáo dục phải là những con người có hiểu biết về
tự nhiên và xã hội, có năng lực làm giàu và biết hành động vì chủ nghĩa nhân
văn.
Chủ nghĩa nhân văn trong thời kỳ văn hóa phục
hưng là cơ sở cho việc nở rộ những thành tựu khoa học và giáo dục. Giáo dục đã
tách khỏi nhà thờ khi nội dung học tập là các môn khoa học, thầy giáo là những
nhà khoa học và nhà sư phạm chứ không phải là các thầy tu như trước. Các nhà
giáo dục đã giảng dạy cho học trò và lý giải các vấn đề chuyên môn một cách
khoa học, không bị ràng buộc bởi giáo lý tôn giáo. Nội dung dạy học trong các
trường ngoài các môn khoa học xã hội nhân văn như văn học, hùng biện, triết học...
còn có cả các môn khoa học tự nhiên như toán, lý, kỹ thuật và đặc biệt rất chú trọng
đến phương pháp quan sát, thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Đây là một
chương trình giáo dục rất bao quát với triết lý thực dụng: dạy học phục vụ cho
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, như tuyên bố của Tomas More: "Thực thi một
chế độ giáo dục mới, tiến bộ để thay thế cho trật tự đương thời của chế độ
phong kiến về giáo dục".
3. Bước sang thời cận đại, dưới ngọn cờ của
giai cấp tư sản đang lên, trên cơ sở những tư tưởng nhân văn thời Phục hưng và
thời Khai sáng, giáo dục cận đại châu Âu chủ trương giải phóng con người và tập
hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập
chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng giáo dục tiến bộ tiếp tục được đề cao: Coi giáo dục
là vạn năng, dùng giáo dục để thay đổi xã hội; giáo dục con người phát triển
toàn diện, đạo đức, trí tuệ, thể chất và kỹ năng lao động; coi trọng các khoa
học tự nhiên và chú trọng đến các phương pháp dạy học tích cực, coi trọng thực
hành... Có thể nói, vào các thế kỷ XVIII - XIX giáo dục thế tục đã thắng thế với
3 đặc điểm được ghi nhận là dùng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ địa phương hay ngôn ngữ
dân tộc làm quốc ngữ thay thế cho tiếng latinh; việc giảng dạy các môn khoa học
được xây dựng thành chương trình, nhất là khoa học tự nhiên, kỹ thuật; phương
pháp sư phạm khoa học hơn bằng việc dạy học phải dựa vào những đặc điểm tâm
sinh lý học sinh, phương pháp dạy học tích cực được chú trọng[4].
Sau thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở
Anh, Bắc Mỹ, Pháp... và cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã xác lập
thành một hệ thống thế giới. Cách mạng công nghiệp được mở đầu từ nước Anh sau
đó lan ra các nước Âu - Mỹ làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Những
đòi hỏi đáp ứng lực lượng sản xuất cho nền sản xuất công nghiệp, trong đó nhân
tố con người là yêu cầu tối cần thiết đã tác động đến nhà trường và giáo dục. Thời
gian này đã sự xuất hiện các nhà giáo dục lớn cùng với những tư tưởng tiến bộ
của họ, coi giáo dục là nhu cầu chính đáng của mọi công dân. Họ đề cao lý luận
sư phạm, tôn trọng nhân cách của học sinh, đặc biệt là nội dung giáo dục con
người được chú trọng nhiều mặt: từ đức dục, trí dục, thể dục... là những phẩm
chất và năng lực cần có của người lao động trong một nền công nghiệp hiện đại.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi
chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến đỉnh cao, thì các nền giáo dục phương Tây
lại một lần nữa đề ra những yêu cầu mới cho giáo dục. "Nền giáo dục mới", "nhà
trường mới" là những thuật ngữ được nêu ra trong thời gian này. Người ta đã
giành cho giáo dục những gì tốt nhất với những nội dung hết sức thực tế là
chuẩn bị cho người lao động vốn tri thức và kỹ năng tối thiểu nhằm đem lại năng
suất lao động và lợi nhuận cao nhất cho nhà tư bản. Đã xuất hiện nhiều tư tưởng
mới về giáo dục như: "Nhà trường mới" của Reddie (Anh); "Nền giáo dục công dân"
và "Nhà trường lao động" của Kerschensteiner (Đức); "Giáo dục thực nghiệm" của
Alfred Binet (Pháp); "Giáo dục thực dụng" của Jhon Dewey, James (Mỹ)...
4. Như vậy, loại trừ những mặt hạn chế của
giáo dục Tây Âu, chúng ta thấy rằng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử,
giáo dục Tây Âu vừa là sản phẩm của một thời đại, gắn rất chặt (phục vụ) những
yêu cầu kinh tế - xã hội của thời đại đó, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền
kinh tế và xã hội phát triển.
Những nội dung và hình thức giáo dục được đề
ra và thực hiện đều xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của đời sống kinh tế - xã
hội. Triết lý giáo dục của Tây Âu không gì khác hơn là giáo dục vừa là sản phẩm
vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Triết lý giáo dục của họ không lơ
lững trên không trung mà đều xuất phát từ cơ sở kinh tế - xã hội của một quốc
gia, một thời đại.
Giáo dục Phương Tây từng bước hoàn thiện nội
dung và hình thức giáo dục. Nội dung đào tạo ngày càng hoàn thiện theo hướng
giáo dục toàn diện từ nội dung các môn học khoa học xã hội và tự nhiên, chú
trọng rèn luyện thể lực song song với rèn luyện trí lực. Việc truyền thụ kiến
thức thông qua việc thực hành, thí nghiệm, chú trọng đến hoạt động của cá thể
và hứng thú học tập của học sinh.
Xuyên suốt các nền giáo dục của các nền giáo
dục Phương Tây là đều chú trọng đến đào tạo ra hình mẫu con người mà xã hội cần
đến. Quan tâm đến "giáo dục lý tưởng" cho một lớp người kế tục việc quản lý xã
hội mà chế độ đó đang hướng tới. Tính thực tế/thực dụng trong giáo dục đào tạo
luôn chi phối các triết lý và thực thi của các nền giáo dục Phương Tây.
5. Việt Nam có một lịch sử giáo dục lâu đời
và đạt được nhiều thành tựu. Qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau giáo dục đã
đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp "kinh bang tế thế" của dân tộc.
Nền giáo dục truyền thống của ta trong thời
phong kiến đã chịu ảnh hưởng của nền giáo dục phong kiến Trung Hoa - giáo dục
Nho giáo. Giáo dục Nho giáo lấy đạo "trung quân" làm mục tiêu hướng tới và sản
phẩm khuôn vàng thước ngọc là đào tạo ra "người quân tử". Từ đó "Tam cương", "ngũ
thường" trở thành một chuẩn mực để giáo dục phải theo. Sách thánh hiền "tứ thư",
"ngũ kinh" là những bộ sách giáo khoa không thể thiếu trong dạy học. Sĩ tử thấm
nhuần trong sách thánh hiền những gương sáng người xưa về đối nhân xử thế, về
cách cai trị để mà "tề gia", "trị quốc" và cao hơn nữa là "bình thiên hạ". Khi
vượt qua được các "trường thí" thì người học được bổ đi làm quan, thực hiện
điều hệ trọng nhất trong "tam cương" là cặp quan hệ "quân - thần" mà trung quân
là tiêu chuẩn của người "ái quốc". Sự phiến diện trong nội dung giáo dục và mục
tiêu giáo dục Nho giáo đã làm trì trệ nền giáo dục nước nhà mà còn là lực cản
cho sự phát triển của đất nước.
Trong thời kỳ thuộc Pháp, ý thức được tầm
quan trọng của giáo dục đối với công cuộc khai thác thuộc địa, Pháp đã áp đặt
nền giáo dục Phương Tây vào nước ta. Trong bối cảnh
nền giáo dục Nho giáo đang hồi suy tàn với một lối dạy học lạc hậu, nội dung
phiến diện không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nhân tài cho đất nước, thì nền
giáo dục phương Tây đã đưa đến những yếu tố mới cho nền giáo dục. Đó là việc tổ chức hệ thống trường học, cấp học, lớp học có hệ thống bài
bản, với hình thức tổ chức dạy học tập trung. Học sinh được tổ chức học thành
lớp có cùng độ tuổi, giống nhau về tâm sinh lý, cùng học một chương trình thống
nhất, đa dạng về loại hình trường lớp và được tổ chức rộng khắp. Chương trình
được xây dựng với nội dung giáo dục toàn diện không chỉ có khoa học xã hội mà
cả khoa học tự nhiên, kĩ thuật, ngoại ngữ... Giáo dục thời thuộc Pháp đã đào
tạo được một đội ngũ trí thức Tây học mặc dù có chịu ảnh hưởng của nền văn hoá
Pháp nhưng họ đã nhận thức được sự đối xử bất bình đẳng, miệt thị của người
Pháp đối với người bản xứ. Trừ một số cam tâm làm tay sai cho Pháp, còn phần
lớn họ có lòng yêu nước, gắn bó với các phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân.
Những hệ quả
khách quan tích cực nằm ngoài mục đích của thực dân Pháp, nền giáo dục thời
Pháp thuộc vẫn là một nền giáo dục thực dân, phục vụ cho mục đích cai trị của
Pháp tại Đông Dương : Gieo rắc những tư tưởng nô dịch, tuyên truyền cho văn
hóa, tư tưởng " mẫu quốc ", chủ yếu phục vụ
con em người Pháp và quan lại người Việt thân Pháp, phần lớn nhân dân ta
vẫn ở trong đói nghèo, lạc hậu và mù chữ.
Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, mở ra một trang mới cho con đường phát triển đất nước. Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nền tảng và định hướng cơ bản cho hoạch định
một triết lý giáo dục. Một nền giáo dục mới đã được xác lập cho phù hợp với
hoàn cảnh mới của đất nước. Ngay trong năm học đầu tiên sau Cách mạng, Đại hội Giáo
giới toàn quốc đã xác định 3 nguyên tắc xây dựng nền giáo dục Việt Nam là "Dân
tộc - Khoa học - Đại chúng".
Trải qua các lần
cải cách, điều chỉnh 1950, 1956, 1981... nền giáo dục đã dần dần được hoàn thiện
đáp ứng được yêu cầu cao nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ bao thế hệ
thanh niên ưu tú - sản phẩm của nền giáo dục cách mạng đã không tiếc máu xương,
hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất tổ quốc. Trong hoàn cảnh
đất nước có chiến tranh, chúng ta không có thời giờ để đặt ra và thảo luận cho
ra nhẽ vấn đề triết lý của nền giáo dục của chúng ta là gì. Nhưng bằng kết quả
sản phẩm của nền giáo dục đạt được đã là câu trả lời cho câu hỏi về triết
lý giáo dục: Nền giáo dục phục vụ cho
nhiệm vụ cao cả của dân tộc, của thời đại mà sản phẩm của nó là đào tạo ra
những con người "vừa hồng, vừa chuyên"[5]
yêu nước, sẳn sàng cống hiến cho yêu cầu của đất nước.
Đất nước thống
nhất, cả nước cùng phấn đấu cho một mục tiêu chung vì sự nghiệp "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường mà dân tộc ta đã
chọn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội quyết
định chiến lược: "tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành
nước công nghiệp, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[6]
Trong phần Quan điểm phát triển, Cương lĩnh cũng chỉ rõ: "Phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển"[7]. Trong Báo cáo chính trị của Đại hội, phần Giáo dục - Đào tạo cũng được
khẳng định chủ trương "phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao"; "đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục - đào tạo"; "thực hiện đồng bộ các giải pháp phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo"[8].
Như vậy, Đảng đã
khẳng định rõ về chế độ chính trị mà chúng ta tiếp tục xây dựng với những cơ sở kinh tế
và xã hội đặc trưng của nó. Giáo dục đào tạo là một hình thái ý thức xã hội,
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, không thể không chịu sự chi phối của cơ
sở hạ tầng của hình thái kinh tế xã hội. Triết lý giáo dục, nghĩ cho cùng thì
không phải cái gì khác mà đó chính là hệ thống quan điểm, chủ trương, phương
hướng được cụ thể hóa trong nội dung, hình thức đào tạo và mục tiêu hướng tới của
sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Những quan điểm, chủ trương cũng như nội dung,
hình thức và mục tiêu nói trên phải phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của thực tế
của đất nước.
Hiện nay chúng ta
đang ở trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chuẩn bị cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội bằng việc "hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa". Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động,
chúng ta còn phải "vừa phát huy nội lực vừa hội nhập quốc tế". Vì thế triết lý
giáo dục mà chúng ta hướng tới, thiết nghĩ, cần phải giải quyết những vấn đề
sau đây:
- Để đáp ứng theo
yêu cầu phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI, ngành giáo dục - đào tạo có
nhiệm vụ đáp ứng nguồn lực con người. Để làm tốt nhiệm vụ trọng đại đó, chúng
ta phải xác định được "Chuẩn con người Việt Nam thế kỷ XXI" với những định hướng
giá trị phù hợp. Đấy là con người vừa truyền thống vừa hiện đại; vừa có những
phẩm chất đặc trưng của con người Việt Nam như yêu nước, cần cù, nhân ái... vừa
có những phầm chất của "công dân quốc tế" - con người hiện đại như trình độ văn
hóa, chuyên môn nghề nghiệp cao, có lối sống, tác phong công nghiệp, có khả
năng hội nhập quốc tế...
- Từ chuẩn mực
đó, chúng ta xây dựng hệ thống quan điểm, định hướng cho việc tổ chức một nền
giáo dục "mở": Đa dạng hóa loại hình trường, lớp đảm bảo cho mọi công dân đều
được học suốt đời. Bên cạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, chú trọng đặc
biệt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển vì đây là lực
lượng chủ chốt xây dựng đất nước. Giao quyền chủ động cho các trường trong
nhiệm vụ đào tạo, chịu trách nhiệm trước xã hội về chất lượng, khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh về chất lượng giáo dục trên cơ sở những định hướng chung
của nhà nước.
- Từ cơ sở "Chuẩn
con người Việt Nam thế kỷ XXI" và hệ thống quan điểm, định hướng của nền giáo
dục, chúng ta mới lựa chọn những nội dung và phương pháp đào tạo phù hợp, trong
đó xây dựng được một chương trình đào tạo tốt với những nhóm kiến thức, kỹ năng
theo chuẩn đầ ra đã được phác thảo. Bên cạnh giáo dục cho người học những phẩm
chất cần có theo truyền thống dân tộc, các nhóm nội dung kiến thức cần phải
trang bị là: Nhóm kiến thức nền tảng; nhóm kiến thức nghề nghiệp chuyên môn;
nhóm kiến thức công cụ và phương pháp để hợp tác, hội nhập và học tập suốt đời;
nhóm kỹ năng sống...
Bàn về triết lý
giáo dục là một chủ đề khó, bàn cho ra nhẽ lại càng khó hơn. Nhưng việc định
hình được một triết lý giáo dục đối với nền giáo dục nước ta có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, nó có tác dụng định hướng cho chúng ta trong bối cảnh nền giáo dục
đang rất cần sự đổi mới để phát triển. Với nhận thức trên đây, xin được góp một
ý kiến thảo luận về chủ đề này, dù có thể cần phải tiếp tục được hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011) Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB Chính Trị Quốc gia, HN.
2. Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB GD, HN.
3. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2011), Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia về khoa học giáo
dục Việt Nam, Tập I, Tập
II, Hải Phòng - tháng 2 - 2011.
4. Phạm Minh Hạc (1996), Mười năm đổi mới giáo dục, NXB Giáo Dục, HN.
5. Đinh Xuân Lâm (Chủ
biên,1997) Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo Dục, HN.
6. Phan
Ngọc Liên (2006), Giáo dục và khoa cử Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, HN.
7. Đoàn Huy Oánh (2004), Sơ lược lịch sử giáo dục, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí
Minh.
8. Nguyễn Gia Phu (1998), Lịch sử thế giới trung đại, NXB Giáo Dục, HN. 9.
Hà Nhật Thăng - Đào Thanh Âm (1997), Lịch sử giáo dục thế giới, NXB Giáo Dục,
HN.
10. Nguyễn Q. Thắng
(1993), Khoa cử và Giáo dục Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, HN.
11. Nguyễn Đăng Tiến, (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng
tháng 8 - 1945, NXB Giáo Dục, HN.
[1] Đoàn Huy Oánh (2004), Sơ lược lịch sử Giáo dục, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 33. [2] Đoàn Huy Oánh, Sách đã dẫn, trang 33. [3] Đoàn Huy Oánh. Sách đã dẫn, trang 39. [4] Đoàn Huy Oánh, sách đã dẫn, tr. 138. [5] Từ dùng của Hồ Chủ tịch. [6] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tr. 39. [7] Sách đã dẫn, tr. 47. [8] Sách đã dẫn, tr. 120 - 121. |
Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011
71.Từ nghiên cứu lịch sử giáo dục phương Tây nghĩ về triết lý giáo dục Việt Nam
70.Làm gì để người học tìm đến với nhóm ngành khoa học xã hội
11-09-2011 | |||||||||||||||||||||
ThS.
Trịnh Văn Anh
Trung tâm
Nghiên cứu Giáo dục Đại học - Viện Nghiên cứu Giáo dục
Cùng là những
môn khoa học được giảng dạy trong các trường phổ thông, nhưng khoa học xã hội
hiện nay đã không còn được học sinh xếp "ngồi cùng chiếu" với khoa
học tự nhiên. Khối C "trượt giá", ngày một hẻo người học lẫn người
thi và việc lựa khối thi này được thế hệ 9x coi như là "chuột chạy cùng
sào". Đó là sự thật! Điều gì đã khiến cho người học và xã hội tất tả chạy
theo khối A, quay lưng, xa lánh và bỏ rơi một cách không thương tiếc với khối
C? Điều gì đã làm cho các ngành khoa học xã hội vốn dĩ rất hấp dẫn, cuốn hút
đối với người học cũng như người nghiên cứu về nó, nay thì hoàn toàn ngược lại:
người học chẳng muốn học mà người dạy cũng không toàn tâm và toàn ý với nghề
mình theo đuổi? Bài nghiên cứu này, chúng tôi xin được đề cập đến thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề nan giải hiện nay: "Chào đón khối
A, ‘Buồn ơi chào mi'... khối C"[1].
1.
Vài nét về thực trạng học và thi nhóm ngành khoa học xã hội
"Năm
nay, kỳ thi ĐH lại chứng kiến sự giảm sút không phanh của lượng hồ sơ khối C và
hồ sơ dự thi vào các ngành khoa học xã hội"[2].
Đến hẹn lại lên, vài năm gần đây, khi cận kề mùa thi đại học, người ta đều đọc
được cái "tít" như thế trên các trang báo giấy cũng như báo mạng. Quả
thật, các ngành khoa học xã hội đang đứng trước nguy cơ và thách thức ở cả đầu
ra lẫn đầu vào khi người học ngày càng "quay lưng" với nó và hướng
đến mục tiêu chọn khối ngành kinh tế làm hàng đầu. Số lượng thí sinh dự thi vào
nhóm ngành khoa học xã hội ngày càng khiêm tốn, teo tóp dần, chuyển hướng thi
sang nhóm ngành kinh tế đang vào độ vàng son.
Bảng : Tỷ lệ hồ sơ đăng kí dự thi vào các trường
cao đẳng đại học từ năm 2009 - 2011
(Nguồn: tuoitre.com.vn)
Người học đã
thế, ngay chính các trường THPT thuộc khối công lập cũng có sự đối xử khác biệt
với các môn khoa học xã hội. Phần lớn, họ tập trung vào những môn phục vụ
khối thi A, B và D, bỏ qua những môn thuộc khối C nên chẳng có gì ngạc nhiên
khi "nhiều giáo viên ở Hà Nội và TP.HCM nhận xét: mô hình "lớp
chuyên C" hiện đã không còn xuất hiện ở một số trường THPT" [3]. Sự
định hình khối thi ngay từ đầu những năm học sinh mới đặt chân vào cấp 3, hầu
như các em chỉ quan tâm đến khoa học tự nhiên, ít chú ý tới những môn xã hội.
Hệ thống các
trường phổ thông ngoài công lập ngoài mục tiêu đạt con số 100% tốt nghiệp, thời
gian còn lại, họ tập trung chủ yếu cho ban A. Do vậy, cũng không có gì là khó
hiểu khi ở một số trường ngoài công lập có tiếng chỉ chọn đội ngũ giáo viên
quản nhiệm (đặc biệt là giáo viên quản nhiệm nội trú) thuộc khối khoa học tự
nhiên, mặc dù trong số những "ông cử, bà cử" ấy cũng có một số
người được đào tạo chẳng liên quan gì đến nghề làm thầy.
Học trò ngày
càng xa lánh với khoa học xã hội. Điều này vô hình chung đã làm phá sản mục
tiêu "đào tào con người toàn diện". Như vậy, mục tiêu đào tạo con
người toàn diện hiện nay chỉ mang tính hình thức. Số lượng học sinh theo
ban KHXH và NV trên cả nước trong năm học 2006 - 2007 đạt 6,41% nhưng chỉ
sau 2 năm, tỷ lệ này giảm xuống còn 2%. Có hơi quá khi kết luận "Chào đón
khối A, ‘Buồn ơi, chào mi... khối C" như báo Vietnamnet đăng tin hay
không? Nhưng cần thừa nhận đó là sự thật! Chúng ta không thể né tránh thực tế
này. Học trò theo khối A như một trào lưu, trong tình hình này, những
học sinh có khả năng nghiêng về tự nhiên thì chẳng nói làm gì, đằng này có trò
thuộc dạng khá ban C và không khá nổi những ban còn lại cũng cố theo ban A để
cho ... hợp thời thế. Bởi vậy, mới có câu chuyện cười ra nước mắt là, có thí
sinh nọ nộp hồ sơ dự thi vào ngành kinh tế nhưng lại trúng tuyển vào
"hàng không" (Toán: 0, Lý: 0; Hóa: 0; Tổng cộng: 0.0 - 5 số
không đứng một hàng nên anh ta đậu "hàng không"). Trình độ chỉ bấy
nhiêu, nhưng khi chúng tôi hỏi thì tác giả "5 không" đó vẫn hùng hồn
tuyên bố rằng, em sẽ tiếp tục ôn thi đại học thêm một năm nữa. Cậu còn cho
rằng, đại học là con đường duy nhất để vào đời nhưng phải là ban A???
Khối C thiếu
người học trầm trọng, đó là thực trạng cần phải "báo động đỏ". Một
số trường đại học đã cho tuyển sinh khối thi thuộc KHTN vào các ngành
thuộc KHXH, trường Đại học KHXH & NV Hà Nội và ĐH KHXH &NV TP. Hồ Chí
Minh là ví dụ. Lý giải điều này có ý kiến cho rằng thực tế là chuyên môn của một
số ngành học gắn liền với đầu vào khối A. Việc tuyển sinh vừa đáp ứng nhu cầu
đầu vào của từng chuyên ngành, vừa tạo thêm cơ hội lựa chọn cho thí sinh, điều
nay đúng nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là thiếu người học. Nhiều khoa đã cố
gắng trong các khâu tuyển sinh nhưng vẫn thiếu sinh viên, chẳng hạn,
"Khoa Tâm lý của ĐH Văn Hiến suốt 12 năm qua chưa bao giờ tuyển đủ chỉ
tiêu, mặc dù chỉ tiêu hàng năm chỉ có 70 sinh viên [4].
KHXH ngày càng teo nhỏ hơn so với nhóm ngành khác không chỉ ở quy mô đào tạo mà
có những ngành đã bị loại ra khỏi danh sách tuyển sinh.
Một thực
trạng nữa rất đáng buồn là kết quả kì thi đại học môn Lịch sử năm 2011
như giọt nước tràn ly đã bộc lộ hết những gì âm ỉ cháy trong lòng bấy lâu nay
của xã hội thờ ơ, bàng quan với khoa học xã hội. Một vài con số 0 tròn trịa
nằm trong các bài thi môn Lịch sử qua các kì thi đại học chẳng nói lên điều gì,
chẳng làm người ta ngạc nhiên, nhưng một kì thi có đến hàng ngàn bài bị điểm 0
và "Hầu hết các trường, tỉ lệ thí sinh đạt điểm thi môn Sử từ trung
bình trở lên chỉ chiếm từ 0,3-5%"[5] thì đó lại là một điều hoàn toàn không bình thường. Đó là cú
"thôi sơn" trực diện gây "choáng toàn tập" đã buộc các nhà
chuyên môn, nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội nói chung phải vào cuộc
cùng nhau mổ xẻ, tháo gỡ vấn đề, song đến nay vẫn còn rối như tơ vò.
2.
Đâu là nguyên nhân chính?
Có nhiều nguyên
nhân khiến cho người học quay lưng xa lánh khối C, nhưng theo chúng tôi thì có
4 nguyên nhân chủ yếu.
Trước hết, đó
là vấn đề đầu ra. Những người thi khối C không có nhiều lựa chọn trường thi,
ngành thi, nguyện vọng 2, 3 càng xa vời hơn so với các khối thi khác. Đầu vào
như thế, đầu ra lại càng gian nan hơn. Thực tế, nhiều cử nhân khoa học xã hội
không tìm ra công ăn việc làm, cực chẳng đã họ tự buộc mình vào nghề chẳng
giống ai để giải quyết cái ăn, cái mặc sống lây lất tồn tại qua ngày. Xa hơn
nữa, cơ hội thu nhập, thăng tiến của họ không nhiều như những người theo khối
thi khác.
Xã hội chưa
thực sự coi trọng khoa học xã hội nếu không muốn nói là đánh giá quá thấp nó và
những người gắn bó với nó. Khi phần hồn của con người bị bỏ đói nhường chỗ cho
đồng tiền, vật chất thì khó có thể nói đến sự phát triển bền vững trước mắt
cũng như lâu dài. Và, một xã hội văn minh đến đâu nhưng không có sự phát triển
hài hòa về văn hóa thì cũng là một xã hội phát triển khập khiễng. Đến
nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào về mối liên quan giữa khoa học xã
hội, bạo lực học đường và tội ác xã hội, nhưng vài năm nay thì có chiều hướng
tăng và tăng rất mạnh đến nỗi nhiều bậc cao niên phải thốt lên rằng "xã
hội loạn mất rồi (!?)" .
Cách
dạy học và chương trình của những môn ban C lại quá khô khan, cứng nhắc, thậm
chí nhiều người đi học cứ ngỡ như là học môn chính trị. Khi khoa học XH không
còn như bản chất vốn có của nó thì khó có thể hấp dẫn người học cũng như người
nghiên cứu về nó. Đánh giá về môn Lịch sử hiện nay, chúng ta hãy nghe vị giáo
sư đầu ngành Sử học Đinh Xuân Lâm nhận xét:"Đó không phải là một môn
giáo dục, tuyên truyền chính trị thông qua các sự kiện và con số, mà là một môn
khoa học với tất cả sự hấp dẫn và khó khăn của nó. Lịch sử cần được nghiên cứu
và trình bày một cách khách quan, không thiên kiến thì mới tạo ra sức hấp dẫn
được (...). Cần phải viết một bộ SGK Lịch sử theo yêu cầu của thời đại, với
tinh thần hòa nhập và đổi mới. Chương trình cũ chỉ thích hợp với một giai đoạn
lịch sử nhất định, trong thời chiến tranh mà thôi."[6].
Chương
trình vốn dĩ đã khô khan, nặng nề, cộng thêm cấu trúc chương trình có dạng vòng
tròn đồng tâm, không gây được hứng thú ở người học. Nhìn lại tổng thể
chương trình, chúng ta thấy có sự lặp đi lặp lại theo cấp bậc đào tạo. Đơn cử
như, chương trình Địa lý lớp 6 dạy về Địa lý tự nhiên đại cương, lên lớp 10 lại
học thêm một lần nữa tuy có sâu hơn, hoặc chương trình lớp 9 cung cấp cho học
sinh kiến thức về Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam, lớp 12 học sinh học thêm một
lần nữa (có sâu hơn). Món ăn dù có ngon, có lạ, có hấp dẫn mức nào, nhưng ngày
nào cũng thưởng thức nó thì điều gì sẽ xảy ra? Tri thức cũng vậy, khi đã biết
nhất định về nó rồi thì sẽ vơi đi sự hứng thú, hấp dẫn đối với nó, nhất là
với lứa tuổi ô mai hiếu động, thích khám phá những điều mới lạ thì trường học
lại càng tránh tình trạng "bội thực tri thức" ở học
sinh.
Đời
sống của thầy cô những năm gần đây đã cải thiện đáng kể, nhưng cuộc chạy đua
giữa lương và giá vẫn chưa làm họ an tâm cho sự nghiệp trồng người. Cho đến tận
bây giờ, mặc dù sắp bước sang quý 4 của năm 2011, song giáo viên vẫn chưa có
thể sống được bằng lương! "Có thực mới vực được đạo"- chân lý muôn
đời - người thầy cũng là một cơ thể sống nên họ cũng có nhu cầu như bao con
người khác. Để đưa hồn vào bài giảng, truyền lửa cho học trò đòi hỏi người thầy
phải đầu tư rất nhiều công sức, song họ còn phải "sống", đồng lương
chưa thể giúp gia đình thầy cô đủ ăn đủ mặc, đó là chưa kể đến thời "bão
giá" như hiện nay. Tuổi trẻ nhiệt huyết, theo thời gian, tuổi đời thêm
chồng chất, tuổi nghề ngày một nhiều, kinh nghiệm ngày một dày dặn, nhưng
tình yêu dành cho nghề sẽ vơi dần theo sự tụt dốc của đời sống vật
chất. Đặc tính của những người học, nghiên cứu, giảng dạy các ngành
thuộc KHXH thì "gừng càng già càng cay", song gừng không thể cay hơn
khi vấn đề cơm áo gạo tiền đeo bám họ, ghì cuộc đời họ xuống hàng thấp
nhất của xã hội. Thực tế, nếu muốn cuộc sống dễ thở hơn thì ông thầy dạy
ban C phải giỏi cả hai nghề, nghề tay trái cũng như là tay mặt (nghề phụ, nếu
có thể). Kết cục, những bài giảng trở nên nhạt nhẽo, vì thiếu sự đầu tư, hoặc
nếu có thì cũng chỉ để đối phó với bệnh thành tích hơn là truyền thụ vì
kiến thức cho đám học trò. Và, cuộc sống cơ hàn của những người thầy đã đập
vào mắt học trò đó chính là "người thật, việc thật", là "người
đương thời" khiến lớp trẻ bám víu vào ban A mong thoát "kiếp
nghèo" bỏ rơi khối C. Chúng ta hãy nghe tâm sự của em Nguyễn Thị
Thùy, lớp 12 chuyên sử, Trường THPT Chuyên Nguyễn Trãi, giải nhất quốc gia môn
Lịch sử, tân sinh viên Trường ĐH Luật Hà Nội[7]: "Thích sử là một chuyện,
nhưng khi chọn ngành, em phải chọn nghề mà sau này em có thể nuôi sống bản thân
để bố mẹ không phải vất vả xin việc. Em không dám thi vào một ngành mà mình
không nhìn thấy đầu ra"
Khối
C ngày một hẻo người học lẫn người thi!
3.
Làm gì để người học đến với khoa học xã hội?
Một
là, đã vào khối C là có việc
làm, điều này có nghĩa là tất cả những người theo học KHXH khi tốt nghiệp đều
được bố trí công ăn việc làm.
Sở
dĩ người học ngày càng "quay lưng" với KHXH đó là không có đầu ra.
Muốn thu hút người học đến với khối C, nhất là những người giỏi thì nhà nước
cần tính toán thật kĩ nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của các địa phương,
các ngành từ đó định mức đầu vào và đầu ra cho từng ngành đào tạo. Khi chưa thể
giải quyết đầu ra cho họ thì sự kêu gọi, tuyên truyền, cổ vũ... cũng chỉ
là vô nghĩa và làm sự việc thêm rối ren trở thành "hề" trong
mắt người học, xã hội.
Về
điều kiện để được bố trí việc làm, theo chúng tôi, tất cả những sinh viên tốt
nghiệp đạt loại khá trở lên, tất nhiên đó phải là các trường công lập, các cơ
quan nhà nước, các viện nghiên cứu, tốt nghiệp hạng trung bình khá trở xuống
thì tự tìm việc, xuất sắc được toàn quyền lựa chọn nơi công tác. Mục đích này
nhằm kích thích sinh viên cố gắng học tập, đó cũng là một trong những cách tạo
công bằng xã hội. Bên cạnh đó, học bổng dành cho sinh viên khoa học xã hội phải
cao hơn sinh viên theo học ngành khác, đồng thời cách tính thâm niên cho thầy
cô dạy những bộ môn khoa học xã hội cũng cần được như thế.
Hai
là,phải quan trọng hoá KHXH lên bằng
cách:
Theo
chúng tôi, thiết thực nhất là thi tốt nghiệp THPT phải 7 môn: Toán, Lý, Hoá,
Văn, Sử, Địa, Sinh. Sở dĩ không nên đưa ngoại ngữ là môn bắt buộc vì hiện nay
muốn có việc làm, muốn có cuộc sống tốt hơn thì bắt buộc cá nhân đó phải có
ngoại ngữ. Khi môn học trở thành nhu cầu cuộc sống có quan hệ mật thiết với sự
nghiệp, đường tiến thân thì bắt buộc người ta phải học, phải tự học và đương
nhiên ngoại ngữ là môn học suốt đời dưới nhiều hình thức. Thực tiễn cho thấy,
các trung tâm ngoại ngữ mọc lên như nấm sau mưa đâu có ai ép buộc phải mở ra để
nâng cao dân trí, để buộc học sinh phải vào đó học thêm đối phó với thi cử mà ở
đây là vì nhu cầu, người học tự tìm đến. Giả sử, bên cạnh trung tâm Anh ngữ,
nếu ai đó mở thêm Trung tâm Lịch sử, Địa lý hay Văn học cạnh tranh với trung
tâm kia thì điều gì xảy ra?
Với
cách thi tốt nghiệp như hiên nay, những môn khoa học xã hội thực sự chỉ có thể
cảm thấy được gọi là cần thiết, được coi trọng khi những môn đó được Bộ Giáo
dục và Đào tạo đưa vào danh sách thi tốt nghiệp THPT. Có thể khắc phục tình
trạng trên bằng cách, nội dung thi tốt nghiệp các môn KHXH phải bao gồm kiến
thức của lớp 11 và 12 và học đâu thi đó không giới hạn chương trình. Điều này
cũng nhằm mục đích tạo điều kiện cho giáo viên đào sâu kiến thức, có thời gian giảng
giải để học sinh hiểu sâu hơn, hấp dẫn hơn.
Ba
là,đổi mới chương trình và phương pháp
dạy học
Đưa
KHXH về đúng vị trí xưa nay là yêu cầu bước thiết hiện nay. Điều này có
nghĩa là cần biên soạn lại chương trình sao cho đó là một môn khoa học thực sự
phục vụ cho học tập và cho nghiên cứu chứ không thể là môn tuyên truyền cho mục
đích khác. Học sinh sẽ rất chán và rất ngán khi biết trước kết cục trận đánh
kiểu "ta thắng địch thua" và nhiệm vụ còn lại là nhớ xem bao nhiêu xe
tăng cháy, máy bay rơi, quân địch bị tiêu diệt... KHXH là môn rất hấp dẫn không
hề khô cứng, nếu nó được trả lại vị trí đúng nghĩa.
KHXH
không còn nhận được sự mặn mà từ học sinh, sinh viên nữa là vì cấu
trúc chương trình theo vòng tròn đồng tâm đã tạo ra sự nhàm chán trong
cách dạy học của giáo viên. Vì vậy, biên soạn cấu trúc chương trình nên
tránh sự lặp lại như thế để tạo sự hấp dẫn cho người học. Người học cần được
học những mảng kiến thức cơ bản nhất, quan trọng nhất và luôn cảm thấy thú vị
với những điều mới lạ, hấp dẫn trong mỗi bài học để từ đó có khả năng tự nghiên
cứu kiếm tìm tri thức trên cơ sở kiến thức đã có. Kiểu học máy móc "thuộc
lòng" buộc phải nhớ không còn phù hợp với thời hội nhập, toàn cầu hoá, với
thời công nghệ thông tin phát triển như vũ bảo hiện nay vì chỉ một cái
"lick" chuột và hỏi ông "google" là có tất cả các thông tin
cần thiết và đa chiều.
Bốn
là, hiền tài là nguyên khí quốc gia, ở
đây hiền tài chính là những người thầy giỏi, tâm huyết. Và xã hội cũng khó có
thể đòi hỏi, kì vọng gì hơn ở người thầy mà ở đó thiếu sự chăm lo về vật chất
cũng như tinh thần. Muốn có nhà tư tưởng lớn, nhà hiền triết thì ngay từ bây
giờ, Nhà nước cần bù đắp sự thiếu hụt trên cho người thầy, để người thầy
chuyên tâm vào bài giảng, hướng đến học trò, để người thầy không
phải tất tả cắp cặp chạy sau khi tan trường! Do vậy, chúng tôi thiết
nghĩ, Nhà nước cần nâng lương cho giáo viên đến mức họ tự sống bằng
nghề là việc làm vô cùng ý nghĩa hiện nay!
KHXH
đang đứng trước khó khăn thách thức về chỗ đứng trong lòng người dân
Việt. Đây là dấu hiệu của sự phát triển thiếu ổn định cho kinh tế xã hội
nước nhà. Chúng ta cần nhìn thẳng vào thực trạng để từ đó tháo gỡ vướng mắc.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân, chúng tôi đưa ra bốn giải pháp
với mong muốn đưa người học tìm đến với KHXH.
Tài
liệu tham khảo
[7].http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/34203/-con-do-chuyen-su--em-xau-ho-voi-co-quan--.html |
69. Sự du nhập giáo dục phương Tây vào Nam kỳ Việt Nam thời thuộc Pháp (1861-1945)
PGS.TS Ngô Minh Oanh
Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐH Sư phạm Tp.HCM
(Bài viết được trích từ Tạp chí Khoa học xã hội do Trường ĐH Sư phạm Tp.HCM phát hành)
Với việc kí kết
Hiệp ước Patenôtre năm 1884,
đánh dấu triều đình Huế đã đầu hàng hoàn toàn trước thực dân Pháp.
Thực dân Pháp đã
cơ bản bình định xong nước ta về mặt quân sự và tiến hành tổ
chức cai trị nước ta trên quy mô rộng lớn và với một cường độ nhanh chóng. Về chính trị,
Pháp đã thiết lập một chính quyền thống trị chặt chẽ trên phạm vi toàn
Đông Dương, chia nước ta thành ba kỳ, trong đó Bắc Kỳ, Trung Kỳ đặt
dưới sự bảo hộ của Pháp, còn Nam Kỳ là thuộc địa hoàn toàn của thực dân Pháp
với chế độ trực trị. Để có một đội ngũ những người phục vụ đắc lực cho công
cuộc "khai hóa", thực dân Pháp không thể không tiến hành mở mang giáo dục. Với
kinh nghiệm của một nước thực dân nhà nghề, Pháp hiểu rõ sức mạnh của giáo dục
và họ đã sử dụng giáo dục như một công cụ đắc lực để cai trị Đông Dương. Vì
thế, ngay từ đầu thực dân Pháp đã tiến hành phát triển giáo dục một cách nhanh
chóng. Đó là quá trình Pháp du nhập nền giáo dục phương Tây vào Việt Nam nói
chung và Nam Kỳ nói riêng.
Nền giáo dục ở Nam Kỳ trước khi Pháp xâm chiếm đang ở trong hệ thống giáo
dục phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn. Sau khi đánh bại vương triều Tây
Sơn, Gia Long lên ngôi vua lập ra triều Nguyễn, xác lập và củng cố vương triều
của mình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Công cuộc củng cố
vương triều đòi hỏi phải có nhiều nhân tài để đảm đương sự nghiệp như Gia Long
vẫn kỳ vọng. Tuy nhiên, trong buổi đầu của Triều Nguyễn, nhân tài "như lá mùa
thu" nên bên cạnh việc mời gọi và sử dụng những cựu thần, nho sĩ của nhà Lê,
nhà Nguyễn đã lo đến việc tổ chức giáo dục và đào tạo nhân tài để phục vụ cho
việc xây dựng đất nước. Triều Nguyễn rất quan tâm đến đào tạo đội ngũ quan lại ở
Nam Kỳ để làm chỗ dựa tinh thần thông qua việc tổ chức học hành, thi cử.
Ở Nam Kỳ, chỉ có các loại trường ở tỉnh, phủ, huyện thuộc hệ thống trường
"hương học". Năm 1803, chính quyền đã định lại học quy cho trấn Gia Định và hoàn
thành việc xây dựng học đường Gia Định, sau này thành trường tỉnh học Gia Định.
Quan đốc học là người trông coi việc học của toàn tỉnh, giáo thụ là người phụ
trách các trường phủ, huấn đạo phụ trách các trường huyện. Ngoài ra còn có
trường học ở các tổng, xã, ấp là các loại trường dân lập hay tư thục do các
thầy đồ hay các nho sĩ mở ra và trực tiếp giảng dạy. Cũng giống như các triều
đại phong kiến trước đó, nhà Nguyễn vẫn lấy nho học làm đạo trị nước, an dân và
làm phương tiện để giáo hóa con người. Ở các lớp khai tâm, từ tám tuổi trở lên
bắt đầu học hiếu kinh, trung kinh; từ 12 tuổi trở lên học Luận ngữ, Mạnh Tử rồi
đến Trung dung, Đại học; từ 15 tuổi trở lên học Thi, Thư rồi sau đến kinh Dịch,
kinh Lễ, kinh Xuân Thu...
Nội dung dạy học là phải cung kính, hiếu thảo với cha mẹ, tu luyện mình cho
nghiêm chỉnh, siêng năng học hành, đèn sách, theo gương những người xưa mà tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Hình thức và phương pháp dạy học thì sử
dụng phương pháp "chính học" truyền thống: học theo lối người xưa là học thuộc
lòng để cho thấm nhuần lời nói thánh hiền. Người học tiếp thu kiến thức một
cách thụ động, thiếu tinh thần sáng tạo: "thuật nhi bất tác". Chế độ thi cử
dưới triều Nguyễn giống như thời Lê về thể lệ và quy chế thi cử, với 3 kỳ thi
chính là thi Hương, thi Hội, thi Đình. Các danh xưng đỗ đạt trong các kì thi
cũng lấy đại khoa (tiến sĩ), trung khoa (cử nhân, tú tài) và các lễ ban yến, áo
mũ, vinh quy như trước đây. Từ năm 1813, Gia Long mở kì thi Hương đầu tiên, trong
đó Nam Kỳ có trường thi Gia Định. Trường thi Gia Định là một trong những trường
thi lớn đã tuyển chọn được nhiều nhân tài đất Nam Kỳ cho triều đình Huế.
Tuy nhiên, giáo
dục ở Nam Kỳ trước khi Pháp xâm chiếm vẫn duy trì một nền giáo dục Nho giáo,
dạy học trò về "nội trị và ngoại giao", noi gương người xưa giữ liêm chính để trị
quốc. Học trò chỉ học sách "thánh hiền" mà không được trang bị kiến thức toàn
diện, trong đó có kiến thức về khoa học tự nhiên và kĩ thuật. Hình thức và
phương pháp dạy học cũng theo lối "điển chương, trích cú", thầy dạy trò theo
lối "gia đình" mà chưa tổ chức thành hệ thống trường, lớp một cách bài bản. Có
thể nói, giáo dục dưới triều Nguyễn nói chung và ở Nam Kỳ nói riêng đã "quá cũ
kĩ và rập khuôn nền giáo dục phong kiến Trung Quốc"(1), nó không đáp ứng trước
những yêu cầu phát triển của đất nước.
Sau khi chiếm
xong Nam Kỳ (1867), người Pháp xác lập quyền thống trị của mình, biến Nam Kỳ
thành thuộc địa của Pháp - xứ Đông Pháp. Đứng đầu Nam Kỳ thuộc Pháp là Thống
đốc Nam Kỳ và bên dưới là các chủ tỉnh người Pháp để tiến hành cai trị thuộc
địa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người Pháp thấy rất rõ tầm
quan trọng của giáo dục, nên ngay "sau khi người lính đã hoàn thành sự nghiệp
của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ"(2). Tiến hành
áp dụng nền giáo dục phương Tây ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, người
Pháp phải đứng trước lựa chọn khôn khéo trong việc sử dụng giáo dục như một
công cụ thống trị, vừa áp đặt nền giáo dục mới vừa từng bước hạn chế, đi đến
xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục phong kiến, "biến người bị trị thành người Pháp
về mặt văn hoá".
Quá trình xác lập
nền giáo dục phương Tây của Pháp ở Nam Kỳ có thể chia làm hai giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất, từ năm 1861 đến năm 1916 là giai đoạn tồn tại song song giáo dục
phương Tây với giáo dục Nho giáo.Giai đoạn thứ hai từ năm 1917 đến năm 1945, chính
quyền thuộc địa từng bước hạn chế và đi đến xóa bỏ hoàn toàn giáo dục và khoa
cử Nho giáo ở Nam Kỳ.
1. Thực
dân Pháp từng bước áp đặt nền giáo dục phương Tây vào Nam Kỳ (1861 - 1916).
Trong giai đoạn
từ năm 1861 đến năm 1916, do nhu cầu đáp ứng về người cho bộ máy cai trị, thực
dân Pháp đã nhanh chóng cho mở hệ thống các trường dạy nghề và các trường học
phổ thông.
- Các trường dạy nghề: Do gặp phải rào cản về mặt ngôn ngữ với người bản địa, việc đào tạo thông dịch
viên vô cùng quan trọng đối với Pháp lúc bấy giờ. Bảy tháng sau khi chiếm được
đại đồn Chí Hoà, ngày 21 tháng 9 năm 1861, đô đốc Charner đã ký nghị định thành
lập trường Bá Đa Lộc (Évêque d'Adran) để dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy
tiếng Việt cho người Pháp do linh mục Groc - phiên dịch viên của Chacner làm
hiệu trưởng. Mục đích của trường là đào tạo những thông dịch viên cho quân đội
Pháp và những thư kí làm trong các cơ quan hành chính. Học viên của trường là
binh lính người Việt trong quân đội Pháp hay những người thân Pháp. Ngày 19-7-1871, Đô đốc Dupre cho thành lập
trường sư phạm thuộc địa tại Sài Gòn để đào tạo giáo viên và nhân viên công sở.
Khóa đầu tiên có 60 giáo sinh. Những giáo sinh tốt nghiệp trường này được bổ
nhiệm về các trường tiểu học do Pháp lập ra ở các thị trấn để giảng dạy. Đến
năm 1874, số giáo viên này đã có mặt ở trên 20 trường tiểu học ở khắp các tỉnh
Nam Kỳ. Đến năm 1874, Pháp cho thành lập thêm trường Hậu bổ (Collège des
administrateurs stagiaires) đào tạo những người đã có bằng hán học để bổ sung
vào đội ngũ quan lại. Học viên học tiếng Việt, chữ Nho, hành chính bản xứ và
những kiến thức về kiến trúc và thực vật học. Với 4 năm tồn tại, trường đã đào
tạo được 50 nhân viên cho Nam Kỳ (3).
- Hệ thống các trường phổ thông: Ngày 16-7-1864, Grandière ra nghị định tổ chức các trường tiểu học ở các
tỉnh để dạy chữ quốc ngữ và toán pháp. Giáo viên ở các trường tiểu học là do một
số thông dịch viên đảm nhận. Chương trình học chỉ có tập đọc, học viết chữ quốc
ngữ. Họ cho xuất bản ba quyển sách giáo khoa, một quyển mẫu tự chữ quốc ngữ,
hai quyển về số học và hình học cơ bản. Vừa dùng thay sách giáo khoa vừa để
tuyên truyền cho chế độ thuộc địa, các trường đã dùng tờ Nguyệt san thuộc địa và tờ Gia
Định báo cho học sinh học. Sau khi tốt nghiệp, các học sinh được phép về
làng mình mở trường dạy học. Tính đến năm 1866, Pháp đã mở được ở Nam Kỳ 47
trường tiểu học với 1.238 học sinh (4). Năm 1874, trường Chasseloup Laubat được
thành lập tại Nam Kỳ dành cho con em người Pháp đang cai trị và những người
Việt làm cho Pháp. Đây là trường trung học sớm nhất dạy từ tiểu học đến tú tài
chương trình Pháp, thu hút được những học sinh ưu tú của đất Nam Kỳ thời đó. Bên
cạnh các trường nói trên, lợi dụng lòng mộ đạo của người dân công giáo, thực
dân Pháp còn tạo điều kiện và giúp đỡ cho việc thành lập các trường dòng để thu
hút các học sinh là con em giáo dân vào học và đào tạo họ thành những thông
ngôn, thư kí. Cho đến năm 1866, số trường dòng đã lên 47 trường với 1328 người
(5).
Để tiến thêm một
bước trong thay đổi nền giáo dục bản xứ, trong các năm 1874 và năm 1879, chính
quyền thuộc địa đã cho ban hành hai quy chế về giáo dục. Quy chế Giáo dục năm
1874 là bản quy chế giáo dục đầu tiên của thực dân Pháp ở Nam Kỳ quy
định tất cả các trường tư chỉ được phép hoạt động khi có sự đồng ý của chính
quyền. Quy chế chia giáo dục ra hai bậc: tiểu học và trung học. Trường tiểu học
được mở tập trung ở 6 nơi: Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc
Trăng. Nội dung học có các môn: tập đọc, tập viết chữ quốc ngữ, chữ nho, chữ
Pháp và số học. Kỳ thi tốt nghiệp tiểu học gồm có thi viết và thi vấn đáp.
Trường trung học chỉ mở ở Sài Gòn, dạy 3 ban với các môn: tiếng Pháp, chữ quốc
ngữ, toán, địa lý, lịch sử (chỉ dạy lịch sử Pháp, không dạy lịch sử Việt Nam).
Tuy nhiên, quy
chế 1874 tỏ ra kém hiệu quả.Vì thế, đến tháng 3-1879, Lafont ký quyết định ban
hành quy chế mới, theo đó, hệ thống giáo dục được chia làm ba cấp, bãi bỏ tất
cả các trường được tổ chức theo quy chế 1874. Ba cấp học gồm có: trường hàng
tổng (cấp I), trường hàng quận (cấp II), trường tỉnh (trường trung học, cấp
III). Mỗi huyện đều có một trường cấp một, ở mỗi tỉnh có 6 trường cấp 2.
- Về thời gian và chương trình:
Cấp I, học 3 năm, gồm các môn:
tiếng Pháp, bốn phép tính, cách đo lường. Chữ Hán và chữ quốc ngữ chỉ học đến
một mức độ nhất định, đủ để biết đọc, biết viết.
Cấp II, thời gian học là 3
năm. Các môn học gồm có tiếng Pháp, Toán, Lịch sử Việt Nam, Địa lý Việt Nam,
chữ Hán và chữ quốc ngữ. Tiếng Pháp ở cấp hai được học kĩ hơn, môn Toán được trang
bị cả kiến thức Đại số và Hình học... Tốt nghiệp cấp học này
học sinh được nhận bằng Sơ học (Brevet Élémentaire) và được học lên cấp cao
hơn.
Cấp III, học sinh học 4 năm, học
thêm những môn mới như Thiên văn, Địa chất, Sinh vật. Các môn còn lại cũng như
cấp II, nhưng được mở rộng và nâng cao hơn. Các môn học đều học bằng tiếng
Pháp. Tốt nghiệp trung học, học sinh được cấp bằng Cao đẳng tiểu học (Brevet
Supérieur).
- Về tổ chức quản lí và giáo viên giảng dạy:
Các trường đều
đặt dưới sự quản lý của Sở Nội vụ và các chủ tỉnh. Mỗi trường ở các cấp do các hiệu
trưởng người Pháp quản lý. Một số giáo viên người Việt là thư ký sở Nội vụ. Họ
không được đào tạo bài bản về sư phạm. Do đó, việc giảng dạy và xây dựng kế
hoạch chương trình đào tạo đều có nhiều bất cập, cơ sở vật chất thiếu thốn,
sách giáo khoa và chương trình chắp vá nên hiệu quả giáo dục không cao.
Trong những thập
niên đầu, trong việc tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ, người Pháp đã tập trung vào hai
mục tiêu cơ bản: một là, đào tạo
thông dịch viên, viên chức phục vụ quân đội xâm lược và bộ máy chính quyền
trong các vùng đất mới chiếm đóng. Hai
là, từng bước đưa nền giáo dục mới từ châu Âu vào Nam Kỳ. Pháp đã tìm mọi
cách để du nhập nền giáo dục phương Tây vào Nam Kỳ Việt Nam nhưng Pháp chưa
thành công. Mặc dù giáo dục phong kiến Việt Nam với chế độ khoa cử lỗi thời
nhưng nó vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ trong xã hội. Giáo dục phương
Tây mới đào tạo được một lực lượng trí thức Tân học ít ỏi nhưng vẫn bị lép vế
trong một xã hội vốn vẫn còn tư tưởng Nho giáo thống trị từ gốc rễ .
Từ năm 1886 đến
năm 1917, Tổng trú sứ Paul Bert(6) đã có những động thái nhằm thay đổi hơn nữa giáo
dục của Pháp ở Việt Nam. Paul Bert cho thành lập Cơ quan thanh tra giáo dục
nhằm "nhanh chóng thiết lập mối quan hệ trực tiếp càng nhiều càng tốt giữa dân
tộc An Nam với chúng ta (Pháp)". Paul Bert chủ trương vừa phát triển mở rộng
trường lớp, vừa cải tổ dần giáo dục cũ để tiến tới thủ tiêu hẳn.Tuy nhiên, phải
đến Toàn quyền P. Beau thì mới đưa ra được một chương trình cải cách giáo dục
toàn diện. Đây là cải cách giáo dục lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam. Tháng
11 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập Nha học chính Đông
Dương để nghiên cứu cải cách giáo dục. Năm 1906, Toàn quyền P. Beau đưa ra một
kế hoạch cải cách giáo dục ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ thông qua các nghị định ngày 8 -3
và ngày 6 - 5 - 1906. Theo cải cách này, hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử
của giáo dục Nam Kỳ đã có thay đổi căn bản như sau:
* Về hệ thống các cấp học, lớp học:
Hệ thống trường Pháp - Việt là những trường chủ yếu
dạy bằng hai ngôn ngữ tiếng Pháp và chữ quốc ngữ, được chia làm hai bậc tiểu
học và trung học. Bậc tiểu học gồm 4
năm học, học sinh phải qua các lớp: lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì và lớp Nhất. Chương
trình dạy chủ yếu bằng tiếng Pháp, các môn dạy bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ rất
ít. Bậc trung học được chia làm hai
cấp Trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp. Trung học đệ nhất cấp học
sinh chỉ học một năm được chia làm 2 ban: Ban Văn học và Ban Khoa học.
Hệ thống trường chữ Hán: Trong khi chưa xóa bỏ
hẳn được nền giáo dục truyền thống thì chính quyền thuộc địa Pháp tiến hành cải
cách để thay đổi đáng kể cơ cấu của hệ thống giáo dục này. Hệ thống giáo dục
trường chữ Hán được chia làm 3 cấp học: ấu học, tiểu học và trung học. Bậc ấu học có 3 loại trường: Trường một
năm hay dưới một năm mở ở các vùng hẻo lánh, chỉ dạy bằng chữ quốc ngữ. Loại
trường hai năm dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Hán. Loại trường ba năm dạy cả ba
thứ chữ quốc ngữ, chữ Pháp, và chữ Hán. Tiếng Pháp là môn bắt buộc phải học. Sau
khi học xong bậc ấu học, học sinh phải trải qua một kì thi gọi là hạch tuyển,
nếu đậu sẽ được cấp bằng "tuyển sinh."
Bậc tiểu học có thời gian học là hai năm, được
mở ở các phủ, huyện. Quản lí và giảng dạy ở trường tiểu học là do các giáo thụ
và huấn đạo phụ trách. Chương trình dạy bằng ba thứ tiếng, chữ quốc ngữ chiếm
nhiều giờ nhất. Học xong chương trình, học sinh phải qua kì thi (hạch khóa) để
lấy bằng khóa sinh. Người có bằng khóa sinh được học tiếp lên bậc trung học.
Bậc trung học được mở ở các tỉnh lỵ do các quan
đốc học phụ trách. Chương trình học vẫn được dạy bằng ba thứ chữ Pháp, Hán, quốc
ngữ. Chữ quốc ngữ được dạy nhiều thời gian nhất, rồi đến chữ Pháp. Học sinh
phải trải qua một kì thi (thí sinh hạch), nếu đậu được cấp bằng thí sinh và
được đi thi Hương.
* Về chương trình và sách giáo khoa: Do tiến hành cải cách giáo dục một cách chắp vá, lại có nhiều loại trường
trong cùng một hệ thống giáo dục, nên chương trình học cũng không ổn định và không
thống nhất. Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc biên soạn sách giáo khoa. Lúc
đầu họ dùng tờ Gia Định báo để làm sách tập đọc, sau đó họ đưa sách giáo khoa
từ Pháp sang, nhưng kết quả cũng rất hạn chế do khác nhau về trình độ, về văn
hóa. Đến những năm tám mươi của thế kỉ XIX, cơ quan Học chính Nam Kỳ đã cho
biên soạn một số sách giáo khoa tiểu học và sau đó dần dần được bổ sung
thêm thành hệ thống sách giáo khoa
trường tiểu học.
Năm 1880, Pháp mở
trường trung học ở Mỹ Tho, Trường Chợ Lớn cho Hoa kiều và một trường tiểu học
cho cả nam lẫn nữ. Năm 1915 Pháp mở Trường Collège de Jeunes Fille Indigèges
(nay là Trường THPT Nguyễn Thị
Minh Khai), năm 1918 mở Trường Cao đẳng
nữ sinh người Pháp (nay là Trường THPT
Marie Curie)...
Như vậy giai đoạn từ
1886 đến năm 1916, Pháp tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất. Đó là giai
đoạn quá độ trong quá trình phát triển nền giáo dục ở Nam Kỳ, từ việc tồn tại
song song hai hệ thống giáo dục, đi đến xóa bỏ hoàn toàn giáo dục phong kiến. Tuy
nhiên, mục đích đó của Pháp chưa thực hiện được trong giai đoạn này. Phải đợi
đến giai đoạn 1917 - 1945, nền giáo dục theo kiểu phương Tây mới thay thế được hoàn
toàn nền giáo dục phong kiến.
2. Từ duy trì song song
hai nền giáo dục đến xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo ở Nam Kỳ giai đoạn 1917 -
1945
Đầu năm 1917, A. Sarraut sang làm toàn quyền ở
Đông Dương, cho ban hành bộ Học chính tổng quy (Học quy) vào tháng 12 năm 1917,
thay đổi cơ bản hệ thống giáo dục ở Nam Kỳ. Với việc áp dụng Học chính tổng quy
này được xem như là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai. Bộ Học quy của A. Sarraut
được chia làm 7 chương với 558 điều gồm nhiều quy định cụ thể, xác định công
cuộc giáo dục ở Việt Nam là dạy học phổ thông và thực nghiệm. Hệ thống trường
học được chia làm hai loại: trường Pháp dạy cho học sinh người Pháp theo chương
trình "chính quốc" và trường Pháp - Việt dạy cho người Việt theo chương trình
"bản xứ". Hệ thống giáo dục Nam Kỳ được quy định như sau:
- Tổ chức trường lớp: Quá trình đào tạo được chia làm ba cấp:
* Đệ nhất cấp (Tiểu học): Các trường tiểu học được tổ chức ở các xã. Nếu xã nhỏ thì có thể tổ chức
một trường tiểu học chung cho hai, ba xã. Các trường tiểu học có hai loại: Trường tiểu học bị thể (é1cole primaire
de pleinexerices) có 5 lớp: Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng, lớp Nhì và lớp Nhất. Trường sơ đẳng tiểu học (écle élémentaire):
Đây là những trường chỉ có hai, ba lớp dưới dành cho những vùng mà học sinh chỉ
cần học để biết đọc, biết viết, rồi sau đó về làm ruộng chứ không theo con
đường học vấn. Học sinh nào muốn học lên nữa thì phải đến các trường tiểu học
bị thể khác để tiếp tục học tập
* Đệ nhị cấp (Trung học): Chia làm hai cấp, cao đẳng tiểu học và trung học. Cao đẳng tiểu học: Học sinh học trong 4 năm với 4 lớp: Đệ nhất, Đệ
nhị, Đệ tam và Đệ tứ niên. Học xong 4 năm học sinh thi lấy bằng cao đẳng tiểu
học (còn gọi là bằng đíp-lôm hay thành chung). Trung học: Học sinh học 2 năm, sau đó thi lấy bằng tú tài bản xứ.
Trong thời gian này, bên cạnh các trường trung học được mở trước đây, Pháp đã
cho mở thêm trường Petrus Ký vào năm 1928.
* Đệ tam cấp: cao đẳng và đại học chuyên nghiệp và trường
nghề:
Hầu hết các
trường cao đẳng và đại học thời gian này đều tập trung tại Hà Nội, ở Nam Kỳ chỉ
có các trường dạy nghề là chủ yếu. Các trường dạy nghề như Trường Nông nghiệp
Bến Cát, Trường Canh nông Nam Kỳ, Trường Mỹ nghệ Bản xứ Thủ Dầu Một dạy các
nghề thêu, khảm và vẽ, Trường Biên Hòa dạy các nghề trang sức, đồ gỗ và nghề
sắt; Trường Sa Đéc dạy các nghề làm mặt hàng từ đồi mồi; Trường Cần Thơ dạy
thêu...
- Bên cạnh đệ nhất cấp và đệ nhị cấp còn có hệ thực
nghiệp: Ở bậc tiểu học thực
nghiệp có các trường dạy nghề như rèn, mộc, nề, trường gia chánh, trường
canh nông, trường mỹ thuật công nghiệp và mỹ nghệ. Các trường trung học thực nghiệp cũng dạy các ngành
nghề nhưng dạy khá hoàn chỉnh chứ không dạy sơ lược như ở cấp dưới. Các trường
này do người đứng đầu địa phương quản lý trực tiếp, Học sinh sau khi học xong
sẽ tùy theo cấp học và trình độ mà có thể vào làm ở các cơ sở sản xuất khác
nhau.
- Về đội ngũ giáo viên, những người có bằng sơ học yếu lược hoặc bằng khóa sinh chỉ cần có lời
cam đoan tuân theo luật lệ của làng xã trong việc dạy dỗ con em là có thể dự
tuyển làm giáo viên. Hàng năm các giáo viên được dự các lớp bồi dưỡng chuyên
môn do cơ quan học chính tỉnh tổ chức trong thời gian không quá 6 tuần.
Từng bước xóa bỏ
hoàn toàn nền giáo dục và khoa cử phong kiến Việt Nam, đến năm 1815 thực dân
Pháp đã bãi bỏ kì thi Hương ở Nam Kỳ. Ở Trung Kỳ, năm 1918 tổ chức kì thi Hương
cuối cùng. Năm 1919, hai kì thi Hội và thi Đình cuối cùng cũng được tổ chức tại
Huế rồi sau đó vĩnh viễn chấm dứt nền khoa cử của giáo dục Nho giáo. Ngày 14 -
6 - 1919, triều đình Huế cũng đã tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học
và thay thế vào đó là hệ thống trường Pháp - Việt. Từ đây, triều đình Huế đã
phó mặc hoàn toàn việc giáo dục thi cử cho thực dân Pháp. Nền giáo dục Việt Nam
được đặt dưới quyền quản lý của Nha học chính Đông Pháp. Năm 1933, Pháp cho
thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục do Phạm Quỳnh làm Thượng thư. Ở các tỉnh có chức
đốc học, kiểm học, còn ở các phủ, huyện phục hồi chức huấn đạo và Giáo thụ. Về
hình thức, nền giáo dục do hai chính quyền quản lý, nhưng thực chất Bộ Quốc gia
Giáo dục của triều Nguyễn chỉ quản lý bậc tiểu học ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, còn
lại toàn bộ hệ thống giáo dục vẫn do Pháp quản lý. Đến lúc này, hệ thống giáo
dục ở Nam Kỳ được tổ chức lại và tồn tại cho đến trước năm 1945 như sau:
- Bậc tiểu học gồm có:
Trường sơ đẳng yếu lược bản xứ gồm các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, có khi chỉ có một hai lớp sơ đẳng. Trường
này còn được gọi là trường Hương học vì thường được đặt ở các làng và ngân sách
do các làng đóng góp.
Trường tiểu học là trường có 3
lớp đệ nhất, đệ nhị và lớp nhất, có khi chỉ có 2 lớp trên bậc tiểu học. Trường
này được đặt ở các phủ, huyện hoặc tỉnh lị. Sau khi phải qua kì thi Sơ học yếu
lược, học sinh được nhận bằng tiểu học Pháp - Việt.
- Bậc trung học: gồm có hai ban Cao đẳng tiểu học và Tú tài: Cao đẳng tiểu học gồm các lớp nhất niên, nhị niên, tam niên, tứ
niên. Tú tài có thời gian học là 3
năm: đệ nhất niên, đệ nhị niên, đệ tam niên. Chương trình tú tài ngay từ đệ
nhất niên đã có sự phân ban thành ban Khoa học và Ban Toán và Ban Triết. Học
sinh học xong đệ nhị niên có thể thi lấy bằng tú tài bán phần. Phải có bằng tú
tài bán phần thì mới được học năm cuối để thi lấy bằng tú tài toàn phần.
Do Nam Kỳ là
thuộc chế độ trực trị của Pháp nên giáo dục ở đây chỉ có chương trình Pháp, tuy
nhiên trong các trường Pháp cũng có chia thành hai khu: Khu Pháp chuyên học
bằng tiếng Pháp, khu bản xứ có học thêm một số chương trình Việt văn, nhưng
cuối học kì không thi lấy tú tài bản xứ
như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Hệ thống giáo dục
cao đẳng và đại học thời gian này có một số trường như Viện đại học Đông Dương,
Trường Y dược Đông Dương, Trường Mỹ thuật Đông Dương, Trường Cao đẳng Thương
mại Hà Nội, Trường Đại học Luật khoa Đông Dương... đều đặt ở Hà Nội.
Hệ thống giáo dục
thời kỳ này có thay đổi chút ít, còn về cơ bản vẫn như trong giai đoạn cải cách
giáo dục lần thứ hai.
3. Một vài nhận
định về giáo dục Nam Kỳ thời thuộc Pháp:
3.1 Người Pháp đã
áp đặt nền giáo dục phương Tây vào Nam Kỳ Việt Nam:
Sự áp đặt mô hình giáo dục phương
Tây của thực dân Pháp vào Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói
riêng cũng mang lại những hệ quả tích cực.
Trong bối cảnh nền giáo dục Nho giáo đang hồi suy tàn với một lối dạy học lạc
hậu, nội dung phiến diện không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nhân tài cho đất
nước, thì nền giáo dục phương Tây đã đưa đến những yếu tố mới cho nền giáo dục.
Về hình thức, đó là việc tổ
chức hệ thống trường học, cấp học, lớp học có hệ thống bài bản, với hình thức
tổ chức dạy học tập trung. Học sinh được tổ chức học thành lớp có cùng độ tuổi,
giống nhau về tâm sinh lý, cùng học một chương trình thống nhất. Nền giáo dục
đa dạng về loại hình trường lớp, hệ thống giáo dục được tổ chức rộng khắp.
Về nội dung giáo dục, chương trình được xây dựng với nội dung giáo dục toàn diện không chỉ có
khoa học xã hội mà cả khoa học tự nhiên, kĩ thuật, ngoại ngữ. Trong khoa học xã
hội học sinh được học cả lịch sử, văn học thế giới, triết học đông tây, luân lý;
trong khoa học tự nhiên có toán học, địa dư, kinh tế...; về sau học sinh còn được
phân ban theo các ban khoa học, ban toán và ban triết học. Nội dung giáo dục
không chỉ giới hạn trong sách "thánh hiền" mà hiểu biết của học sinh đã được mở
rộng ra nhiều lĩnh vực, điều mà giáo dục Nho học trước đây không có.
3.2 Cùng với việc
bắt buộc phải học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, các trường Pháp - Việt và cả các
trường Nho giáo đã trang bị cho học sinh hai thứ ngôn ngữ hữu ích để mở rộng
giao tiếp và hiểu biết của mình đối với các nền văn hóa thế giới. Mặc dù còn
nhiều hạn chế, nhưng bước đầu thông qua giáo dục, người Pháp cũng đã truyền bá
được văn minh châu Âu vào vùng đất Nam Kỳ. Cùng với sự du nhập của những yếu tố
văn minh vật chất, lối sống theo văn hoá phương Tây được hình thành ở những đô
thị lớn. Những tư tưởng tiến bộ cũng được tiếp nhận và phát huy.
3.3 Giáo dục Nam
Kỳ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức Tây học, một tầng lớp mới trong xã hội
Nam Kỳ lúc bấy giờ. Điều đặc biệt là mặc dù được đào tạo trong các trường học
của Pháp, chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp, nhưng tầng lớp trí thức Tân học
ở Nam Kỳ lại có một nền tảng giáo dục truyền thống rất vững chắc. Họ vừa am
hiểu văn hóa, ngôn ngữ Pháp nhưng lại rất tinh thông Nho học. Những trí thức Tân học ở
Nam Kỳ bắt đầu dịch thuật các tác phẩm chữ Hán, chữ Pháp ra chữ quốc ngữ để phổ
biến trong nhân dân. Ngoài ra, họ còn trực tiếp truyền bá tư tưởng khoa học và
tư tưởng dân chủ phương Tây cho nhân dân thông qua các chuyến đi du học và từ
nguồn sách báo từ nước ngoài. Cũng qua sách báo yêu nước và tiến bộ, nhiều trí
thức, sinh viên, học sinh ở Việt Nam đã nhận thức ra sự đối xử bất bình đẳng,
miệt thị của người Pháp đối với dân bản xứ. Trừ một số cam tâm làm tay sai cho
Pháp, còn phần lớn trí thức ở Nam Kỳ có lòng yêu nước và gắn bó với các phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân.
3.4 Tuy có những
hệ quả khách quan tích cực nói trên nằm ngoài mục đích của thực dân Pháp, nền giáo dục Nam Kỳ thời Pháp thuộc vẫn là một nền giáo dục thực
dân, phục vụ cho mục đích cai trị của Pháp tại Đông Dương. Đó là một nền giáo
dục gieo rắc những tư tưởng nô dịch, tuyên truyền nhiều cho văn hóa, tư tưởng
của "mẫu quốc". Tuy thực dân Pháp có chú ý mở rộng hệ thống giáo dục nhưng chủ
yếu vẫn chỉ tập trung ở những thành phố, thị xã, thị trấn phục vụ cho chính con
em người Pháp và đội ngũ quan lại người Việt thân Pháp. Một nền giáo dục phục
vụ cho số ít người chứ không phải cho quảng đại dân chúng. Phần lớn nhân dân
Nam Kỳ vẫn ở trong đói nghèo, lạc hậu và mù chữ.
CHÚ THÍCH:
(1). Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB GD, HN,
tr.32.
(2). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 96 (3-1967), dẫn theo Nguyễn Đăng Tiến 1996),
Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 - 1945, NXB Giáo Dục, HN,
tr.180.
(3). Nguyễn Đăng Tiến, (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng
tháng 8 - 1945, NXB Giáo Dục, HN, tr. 189.
(4). Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục
và khoa cử Việt Nam,
NXB Từ điển bách khoa, HN, tr.111.
(5). Nguyễn Đăng Tiến, Sđd, tr. 188.
(6). Paul Bert được Tổng thống Pháp cử sang
Đông Dương làm Tổng trú sứ theo sắc lệnh ngày 27 - 1 -1886. Tổng trú sứ có
nhiệm vụ như Toàn quyền sau này.
(7). Đinh Xuân Lâm (Chủ biên,1997) Đại cương lịch sử Việt
Nam,
tập II, NXB Giáo Dục, HN.
(8). Leopond Pallu (2008), Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kì
năm 1861, NXB Phương Đông, TP. HCM.
(9). Philippe Devillers (2006), Người Pháp và người Annam bạn hay thù, NXB Tổng hợp Thành phố
HCM.
(10). Nguyễn Quang Thắng (1993), Khoa cử và Giáo dục Việt
Nam,
NXB VH TT, HN.
(11). Gail P. Keelly (1982), Franco - Vietnames school
1918 - 1938 Regional and implifications for national integration, Center for
Southeast Asian Studies University of Wisconsion.
|
Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011
68. A power shift in Asia
By Robert D. Kaplan, Published: September 24
U.S. officials argue that upgrading Taiwan’s Lockheed Martin F-16 A/B jets will make them nearly as capable as the 66 new F-16 C/D models that the Taiwanese were seeking, and at a fraction of the cost. But the upgrades reportedly do not include the new engines necessary for added speed and will make it harder for the Taiwanese to retire their oldest jets as they had hoped. Clearly, the decision signifies a painful compromise for the Obama administration.
Loading...
Comments
- Weigh In
- Corrections?
Notice what is happening, though. The administration is not acting unreasonably. It is not altogether selling out to Beijing. Rather, it is adjusting its sails as the gusts of Chinese power, both economic and military, strengthen. Thus the decision to help Taiwan — but not too much — illustrates how decline itself is an overrated concept.
Decline is rarely sudden: Rather, it transpires quietly over decades, even as officialdom denies its existence and any contribution to it. The Royal Navy began its decline in the 1890s, Princeton University professor Aaron L. Friedberg writes in “The Weary Titan,” even as Britain went on to win two world wars over the next half-century. And so, China is gradually enveloping Taiwan as part of a transition toward military multipolarity in the western Pacific — away from the veritable American naval lake that the Pacific has constituted since the end of World War II. At the same time, however, the United States pushes back against this trend: This month, Obama administration officials — with China uppermost in their minds — updated a defense pact with Australia,giving the United States greater access to Australian military bases and ports near the confluence of the Pacific and Indian oceans. The United States is making room in Asian waters for the Chinese navy and air force, but only grudgingly.
Decline is also relative. So to talk of American decline without knowing the destiny of a power like China is rash. What if China were to have a political and economic upheaval with adverse repercussions for its defense budget? Then history would turn out a lot more complicated than a simple Chinese rise and an American fall.
Because we cannot know the future, all we can do is note the trend line. The trend line suggests that China will annex Taiwan by, in effect, going around it: by adjusting the correlation of forces in its favor so that China will never have to fight for what it will soon possess. Not only does China have some more than 1,500 short-range ballistic missiles focused on Taiwan, but there are 270 commercial flights per week between Taiwan and the mainland, even as close to a third of Taiwan’s exports go to China. Such is independence melting away. And as China’s strategic planners need to concentrate less on capturing Taiwan, they will be free to focus on projecting power into the energy-rich South China Sea and, later, into the adjoining Indian Ocean — hence America’s heightened interest in its Australian allies.
This is a power shift. Subtle and indirect though it may be, it is a clearer story line than what is occurring in the chaotic Middle East, a region less prosperous and less dynamic than East Asia in economic and military terms, and therefore less important. Taiwan tells us where we are, and very likely where we’re going.
Robert D. Kaplan is a senior fellow at the Center for a New American Security and the author of “Monsoon: The Indian Ocean and the Future of American Power.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)