Một
cách tự nhiên, Biển Đông là nơi liên kết các nền văn minh và kinh tế
giữa các nước Đông Nam Á và giữa họ với phần lục địa phía Nam Trung
Quốc. Với vị trí địa chính trị, cấu tạo tự nhiên và hoạt động kinh tế -
xã hội liên kết giữa các quốc gia, Biển Đông là ngôi nhà chung của các
nước trong khu vực và là quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu
vực. Biển Đông không thuộc hoàn toàn riêng về một nước nào. Bởi thế, các
vấn đề của Biển Đông cần được các nước trong khu vực giải quyết trên
tinh thần cầu thị, tôn trọng chủ quyền và lợi ích của nhau, tuân thủ
pháp luật quốc tế, cùng nhau tìm một giải pháp công bằng, mà các bên có
thể chấp nhận.
Vùng biển vàng chiến lược
Với diện tích khoảng 3,5 triệu km
vuông, Biển Đông là một vùng biển nửa kín được bao bọc bởi Việt Nam và 8
nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia,
Singapore, Thái Lan và Campuchia. Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới
cuộc sống của trên 300 triệu người dân các nước nói trên. Không những
thế, vùng biển này còn là địa bàn địa kinh tế - chính trị chiến lược
không chỉ đối với ASEAN, các nước khác trong khu vực mà còn cả châu Á -
Thái Bình Dương và Mỹ. Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển
huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á,
Trung Đông - Châu Á. Đây được coi là tuyến đường hàng hải quốc tế nhộn
nhịp thứ hai của thế giới với khoảng 150 - 200 tàu lớn qua lại mỗi ngày
và khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại
nhất thế giới là cảng Singapore và Hongkong.
Nhiều nền kinh tế ở khu vực Đông Á phụ
thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore và cả Trung Quốc bởi đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển
dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á
tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Vì vậy, nếu Biển Đông bị một nước
hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
Không chỉ có giá trị về hàng hải, Biển
Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho
đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là
nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí, khí tự
nhiên), du lịch và là khu vực đa dạng bậc nhất thế giới về sinh học và
môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi
trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,
Indonesia và Philippin, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn
nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm). Biển Đông được coi là một
trong 5 bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Tại vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích giàu dầu khí, trong đó
các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu
khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng
dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10
tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự
báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối.
Cần duy trì ổn định
Chính bởi sự giàu có và vị trí chiến
lược vô cùng trọng yếu của mình, nên Biển Đông đã trở thành một trong
những vùng biển thường xẩy ra các cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên
thế giới. Hơn nữa, ở Biển Đông không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt
luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà nó còn được
thúc đẩy bởi những lợi ích về địa - chính trị. Và đáng buồn thay, những
tranh chấp và va chạm trên vùng biển này gần đây lại có xu hướng gia
tăng tỷ lệ thuận với sự lớn mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự của một
số cường quốc liên quan.
Tiếp đó là việc Bắc Kinh tuyên bố Biển
Đông là "lợi ích cốt lõi" hồi tháng 7/2010 và Mỹ tuyên bố bảo đảm lợi
ích chiến lược của họ tại Biển Đông tháng 10/2010... Trong ASEAN, thì
các tranh cãi về chủ quyền cũng xuất hiện giữa Trung Quốc với Việt Nam,
giữa Trung Quốc với Philippine, với Malaysia… Tình hình ơrở Biển Đông
sau hơn 1 thập kỷ tương đối yên tĩnh bắt đầu nóng lên bằng việc tháng
5/2009, Trung Quốc đưa ra cái gọi là yêu sách "đường lưỡi bò" phi lý bao
trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông và thi hành lệnh cấm đánh bắt cá vô
căn cứ ở các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đã làm dấy lên
những quan ngại đáng kể cho Việt Nam và các nước trong khu vực.
Đặc biệt, vụ tàu hải giám Trung Quốc
ngang nhiên cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh khi tàu này đang tiến hành
khảo sát bình thường trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam hôm
26/5 đã gây ra phẫn nộ sâu sắc trong dư luận và đi ngược lại tuyên bố
của lãnh đạo cấp cao hai nước. Hành động này đã làm ảnh hưởng xấu tới
hình ảnh của một nước Trung Quốc "trỗi dậy hòa bình" và gây quan ngại
cho các nước trong khu vực bởi nó đe doạ hoà bình, ổn định và an ninh
hàng hải ở Biển Đông, đi ngược lại xu thế chung của thời đại.
Hiện tại, trong khu vực Biển Đông đang
tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu. Một là những tranh chấp về chủ
quyền lãnh thổ và hai là những tranh chấp ranh giới các vùng biển và
thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề.
Hai loại tranh chấp này được hình thành vào các thời điểm khác nhau, có
nội dung, mức độ khác nhau và diễn ra trên những phạm vi địa lý có liên
quan đến các bên tranh chấp cũng rất khác nhau. Hiện nay, hầu hết các
nước trong khu vực đều có các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ ở Biển
Đông, mà điểm nóng nhất là ở 2 quần đảo của Việt Nam là Trường Sa và
Hoàng Sa. Ở hai quần đảo này, đã âm ỉ mấy chục năm nay các tranh chấp và
xung đột về tuyên bố chủ quyền giữa Trung Quốc với Việt Nam, với
Philippines, Malaysia, Singapore…
Giải pháp nào để có vùng biển hòa bình?
Biển Đông quan trọng là thế, và cũng
vì thế mà nó luôn tiềm ẩn những “dư chấn”, thậm chí có thể xuất hiện
"sóng thần" nếu các bên thiếu kiềm chế còn một bên thì cố hiện thực hóa
tuyên bố chủ quyền của họ bằng mọi giá và bất chấp tất cả. Để tránh xung
đột, trước hết, tất cả các bên liên quan phải hành xử một cách thận
trọng và tận dụng mọi kênh ngoại giao để duy trì hoà bình tại vùng biển
này để giải quyết khi có bất cứ kịch bản nào xẩy ra. Vậy tình hình Biển
Đông sẽ diễn ra theo kịch bản nào? Giữ nguyên trạng, xấu đi hay tốt lên
trong tương lai?
Theo các học giả tham dự Hội thảo quốc
tế về Biển Đông do Học viện Ngoại giao tổ chức tháng 4/2011 đều cho
rằng có thể có 4 kịch bản xảy ra với Biển Đông: Một là, tình hình khu
vực sẽ tốt hơn nếu như các bên, đặc biệt là Trung Quốc, hành xử đúng
theo những gì họ đã tuyên bố, đó là "tạo dựng Biển Đông thành một vùng
biển hòa bình và hợp tác". Hai là, tình hình diễn ra cơ bản với quá
trình hợp tác và đấu tranh tiếp tục và đan xen lẫn nhau. Ba là, tình
hình trở nên xấu hơn với xung đột, tranh chấp nhiều hơn hợp tác nhưng
không xung đột quy mô lớn. Bốn là, xảy ra xung đột lớn. Nếu chiểu theo
các kịch bản như trên, thì có thể thấy rằng Biển Đông hiện nay đang ở
dạng kịch bản thứ ba.
Vậy giải pháp nào để duy trì Biển Đông
là "vùng biển hòa bình và hợp tác" và không để kịch bản xấu nhất xẩy
ra? Về phía Việt Nam, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước luôn muốn có một Biển
Đông ổn định và luôn theo đuổi các giải pháp hòa bình trong giải quyết
tranh chấp. Tại buổi họp báo quốc tế về Hội nghị Cấp cao ASEAN 16 hôm
9/4/2010, trả lời câu hỏi liên quan đến chủ đề Biển Đông, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: "Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an
toàn trên Biển Đông là lợi ích chung và là mối quan tâm lớn của các
nước ASEAN, trong khu vực". Thủ tướng nhấn mạnh: "Với thiện chí của các
bên và vì lợi ích chung của khu vực, các bên liên quan cần tiếp tục tuân
thủ và thực hiện tốt DOC, cũng như Công ước Liên hợp quốc về Luật biển
năm 1982". Nhưng chỉ có Việt Nam có thiện chí và muốn ổn định không thôi
là chưa đủ, mà trước hết, cần có sự tuân thủ và thiện chí hợp tác của
tất cả các bên liên quan, đặc biệt là từ phía Trung Quốc.
Trên tinh thần đó, phát biểu tại Diễn
đàn an ninh châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 10 (Đối thoại Shangri- La)
tại Singapore hôm 5/6 vừa rồi, Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phùng
Quang Thanh nhấn mạnh: "Là một quốc gia biển, trải qua nhiều cuộc chiến
tranh, chúng tôi thấu hiểu giá trị của hòa bình và ổn định cho xây dựng
và phát triển đất nước. Chính vì vậy, chính sách quốc phòng của Việt Nam
là hòa bình và tự vệ, an ninh quốc gia của VN gắn liền với an ninh khu
vực và thế giới". Và để có được môi trường hòa bình cho Biển Đông, theo
Đại tướng Thanh, các bên liên quan cần tuân thủ Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982. Trong khu vực Đông Nam Á, cần thực hiện đầy đủ
Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông (DOC) và cần nhanh chóng cùng với
Trung Quốc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC). Bên cạnh
đó, các bên liên quan cũng cần tăng cường hiệu lực của các cơ chế hiện
hữu và các cấu trúc an ninh mới như Cấp cao Đông Á (EAS) với sự tham gia
của Nga và Mỹ, hay Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+).
Ngoài ra, các bên cần tăng cường hợp tác phát triển trên biển, cả song
phương và đa phương, nhằm xây dựng và tăng cường lòng tin giữa quân đội
các nước, tuyệt đối không sử dụng vũ lực. Khi có các vấn đề, vụ việc xảy
ra trên biển, các bên cần kiên trì, kiềm chế, tuân thủ luật pháp quốc
tế, công khai minh bạch.
Mong muốn một môi trường hòa bình cho
Biển Đông không chỉ là nguyện vọng riêng của Việt Nam, mà còn là của tất
cả các nước trong khu vực và các quốc gia khác có lợi ích liên quan.
Bởi như ông Nazery Khalid, Chuyên viên cao cấp, Viện Nghiên cứu Biển
Malaysia nhấn mạnh trong tham luận tại Hội thảo về Biển Đông lần I do
Học viện Ngoại giao tổ chức tháng 11/2009, rằng: "Không ai muốn xung đột
mà tất cả chúng ta đều muốn sử dụng các nguồn tài nguyên mà vùng biển
này cung cấp để trở nên thịnh vượng về kinh tế và sinh sống hòa bình.
Một số nhân vật chính trên sân khấu Biển Đông cần phải từ bỏ tâm lý
thắng-bằng-mọi-giá trong việc đòi chủ quyền và bảo vệ lợi ích của họ tại
Biển Đông". Quả đúng như vậy, bởi ổn định để hợp tác ở Biển Đông sẽ là
con đường dẫn tới sự thịnh vượng chứ Biển Đông không phải là sân khấu
cho các cuộc tranh chấp và xung đột của những lực lượng kỳ vọng chiến
thắng trên sự phi lý
Đức Trí
|