Liệu có vết "dầu loang"?
Liệu làn sóng biểu tình ở một số nước
khu vực Bắc Phi có lan sang các khu vực lớn khác trên thế giới? Câu trả
lời là rất ít bởi mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều có bối cảnh chính trị và
điều kiện phát triển khác nhau. Tuy nhiên, có thể là quá sớm để loại
trừ hoàn toàn nguy này bởi ngoài những nguyên nhân đặc thù ở các nước
Trung Đông - Bắc Phi nổ ra xung đột, thì thiếu việc làm, giá lương thực
tăng cao... là nguyên nhân gây ra bất ổn, điều mà nhiều nơi cũng đang
phải đương đầu. Ví dụ như cuộc biểu tình của 100.000 người ở New Dehli
vừa rồi để phản đối giá lương thực ngày càng tăng cao. Đây cũng là một
sự kiện hiếm hoi ở đất nước hơn 1 tỷ dân và nền nông nghiệp khá phát
triển.
Ở một số nước châu Á khác, tuy cũng có
một số bất bình ở một bộ phận nhỏ dân chúng nhưng cũng chủ yếu liên
quan đến các bất đồng về đất đai, sự phân hóa xã hội và nạn tham nhũng.
Thế nhưng, sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ cũng như sự ổn định truyền
thống về chính trị làm cho người dân các nước này nhận thấy những dấu
hiệu tích cực đối với đời sống của chính họ.
Khu vực Mỹ Latinh, đa số các nước phát
triển theo con đường dân chủ, chính quyền được người dân lựa chọn thông
qua các cuộc bầu cử. Chẳng hạn, nguyên thủ quốc gia của Brazil hiện nay
là một phụ nữ, do dân bầu. Còn ở khu vực Trung Á, có thể đây là khu vực
dường như dễ bị tác động của hiệu ứng “vết dầu loang” hơn cả. Andrey
Volodin, Chuyên viên của Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế, nhận
xét: "Ở Trung Á, sau khi tách khỏi Liên Xô trước đây, nhiều quốc gia vẫn
chưa xây dựng được nền kinh tế hiệu quả và không có các cơ chế chính
trị mở. Chính sự không hài lòng của dân chúng sẽ gây ra các cuộc cách
mạng sắc màu với sự tác động của các nhóm cực đoan bên ngoài". Chẳng
hạn, chính biến ở Kyrgyzstan năm 2010 cho thấy tình hình chính trị ở một
số nước trong khu vực có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Giáo sư Nasrulla
Stanakzai của trường Đại học Tổng hợp Kabun nhận định nếu không tiêu
diệt các phần tử cực đoan của al-Qaeda và Taliban trên địa bàn
Afghanistan, nay mai các hiện tượng tiêu cực đó sẽ diễn ra ở những khu
vực khác.
Hệ lụy kinh tế
Hậu quả sẽ ra sao khi cuộc khủng hoảng hiện nay làm đình trệ hoạt động khai thác và xuất khẩu ở Trung Đông và Bắc Phi?
Dầu mỏ vẫn được xem là huyết mạch nuôi
dưỡng nền kinh tế thế giới. Theo phân tích của ngân hàng Deutsche Bank,
với mức tiêu thụ trên toàn cầu là 86 triệu thùng dầu thô/ngày, quy theo
giá 100 USD/thùng, một năm chi phí cho dầu mỏ của nền kinh tế thế giới
là hơn 3.000 tỷ USD, chiếm 4,7% tổng sản lượng kinh tế thế giới. Nếu giá
dầu tăng đến 120 USD, tỷ lệ này sẽ vượt quá mức 5,5%, khiến tăng trưởng
kinh tế bị cản trở. Kể từ năm 1970 đến nay, 5 cuộc suy thoái toàn cầu
(1974, 1980, 1990, 2001 và 2008) đều diễn ra sau một đợt giá dầu tăng
vọt. Việc giá dầu tăng vọt tương ứng với các biến cố chính trị và quân
sự lớn, như cuộc chiến tranh giữa Israel và liên quân Ai Cập - Syria năm
1973, cách mạng Iran năm 1979, hay chiến tranh vùng Vịnh năm 1990. Tiếp
theo đó là đợt nhu cầu dầu mỏ tăng đột biến năm 2000. Còn cuộc khủng
hoảng năm 2008 là do nhu cầu tăng đột ngột của hàng loạt quốc gia đang
trỗi dậy.
Hơn một tháng trước, giá dầu thô Brent
đứng ở mức 96 USD/thùng khi ông Hosni Mubarak vẫn còn là Tổng thống Ai
Cập. Giờ đây Mubarak đã ra đi cùng với làn sóng biểu tình đang làm lung
lay ghế của nhiều nhà lãnh đạo khác ở Bắc Phi và Trung Đông. Giá dầu đã
vượt 115 USD/thùng - giá cao nhất kể từ tháng 9/2008. Điều này không gây
ngạc nhiên bởi khu vực này cung cấp 35% sản lượng dầu mỏ của thế giới.
Libya, tâm điểm của bất ổn hiện nay, cung cấp 1,7 triệu trong tổng số 88
triệu thùng dầu thô mỗi ngày cho thế giới. Làn sóng bất ổn trong khu
vực được cho là lý do khiến giá dầu tăng thêm 20%.
Sau cú sốc hồi thập niên 70 của thế kỷ
trước, thế giới đã nhanh chóng xây dựng kho dự trữ dầu để đề phòng bất
ổn tái diễn, chẳng hạn kho dự trữ chiến lược 727 triệu thùng của Mỹ. Vì
vậy, tác động của khủng hoảng sẽ phụ thuộc vào sản lượng dầu bị giảm bao
nhiêu và trong bao lâu. Tuy nhiên, việc giá dầu đột ngột tăng vọt không
phải lúc nào cũng dẫn đến suy thoái kinh tế, như thực tế đã xảy ra vào
giữa những năm 2002-2006. Đó cũng là lý do khiến Trợ lý Giám đốc Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) John Lipsky cho rằng hiện tại, ít có khả năng việc
giá dầu tăng vọt sẽ tác động lớn đến triển vọng kinh tế toàn cầu.
Khủng hoảng tị nạn
Tình hình bất ổn tại các nước Ả Rập ở
Bắc Phi không chỉ là một cuộc khủng hoảng chính trị, mà nó còn có thể
sớm châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng tỵ nạn toàn cầu. Sau khi chế độ
Ben Ali sụp đổ, khoảng 5.000 người Tunisia đã tìm cách chạy sang Italia.
Những người này đang bị tạm giữ trên đảo Lampedusa, trong lúc chính phủ
Italia đang cân nhắc trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Bên cạnh đó, sự hỗn loạn chính trị
đang làm gián đoạn các nền kinh tế từ Maroc tới Vịnh Batư, khiến những
người thất nghiệp phải đi tìm việc ở nước ngoài. Giá dầu đã tăng mạnh,
có nghĩa là giá lương thực cũng sẽ sớm tăng theo, làm trầm trọng thêm
cảnh cơ cực của những người nghèo trong khu vực Trung Đông và Bắc Phi.
Bên cạnh đó, dân số tại khu vực này lại không ngừng tăng lên. Khoảng 2/3
số dân Ả rập dưới 25 tuổi. Trong vòng 15 năm tới, khu vực này cần tới
80 triệu việc làm mới để bắt kịp với mức bùng nổ dân số.
Hiện nay mỗi năm châu Âu đang phải
tiếp nhận 1,7 triệu người nhập cư, dù tự nguyện hay không tự nguyện,
trong đó phần lớn đến từ Trung Đông và Bắc Phi, và họ chủ yếu theo đạo
Hồi. Những người nhập cư này thường không được trang bị các kỹ năng cần
thiết để thành công trong một nền kinh tế phát triển. Theo kết quả thống
kê, từ năm 1971-2000, số người nhập cư sống tại Đức tăng hơn gấp đôi,
từ 3 triệu người lên 7,5 triệu người nhưng số lượng người nhập cư trong
lực lượng lao động Đức lại không hề tăng: vẫn giữ nguyên ở mức 2 triệu
người.
Nguy cơ Hồi giáo cực đoan
Giới phân tích đang quan ngại rằng khi
các chế độ chuyên quyền khắp thế giới Ả Rập sụp đổ hoặc phải vật lộn để
tồn tại, một khoảng trống an ninh hậu bất ổn có thể làm tăng nguy cơ từ
những kẻ thánh chiến Hồi giáo cực đoan. Cho đến nay, các nhóm Hồi giáo
cực đoan vẫn chưa đóng vai trò lãnh đạo trong các cuộc nổi dậy của người
dân Ả Rập mà những người giữ vai trò này là một thế hệ thanh niên mới
có học, theo chủ nghĩa thế tục và đầy tham vọng. Họ đã thành công ở
Tunisia và Ai Cập, làm rung chuyển các chính phủ tại Yemen, Baranh,
Syria, Libya...
Mặc dù những nhóm Hồi giáo cực đoan có
thể tham gia các cuộc biểu tình của người dân, song dường như các nhóm
này đang "tọa sơn quan hổ đấu" để trục lợi từ sự thất vọng hay hỗn loạn
hậu khủng hoảng. Hiện nay, người ta vẫn đang suy đoán về vai trò chính
trị của những nhóm Hồi giáo cực đoan tại các nước như Ai Cập và Tuynidi
bởi những chế độ thay thế Hosni Mubarak và Ben Ali vẫn chưa được quyết
định. Mọi thứ đang được tái cấu trúc, kể cả hoạt động chính trị Hồi
giáo.
Tư tưởng thánh chiến cực đoan có thể
phát triển sau các cuộc biểu tình. Phong trào thánh chiến ở Libya tập
trung tại các thành phố miền Đông là Darnah và Benghazi, những khu vực
đầu tiên rơi vào tay những người biểu tình chống chính phủ. Các chuyên
gia cho rằng, nếu ông Gaddafi thất bại tại Libya, những phần tử Hồi giáo
cực đoan sẽ mở rộng phạm vi hoạt động tại Libya. Nếu chế độ không sụp
đổ và xảy ra nội chiến giữa các khu vực phía đông và phía tây của đất
nước, lực lượng này cũng có thể trỗi dậy để mở rộng hoạt động trong bối
cảnh hỗn loạn. Ngoài ra những kẻ thánh chiến cũng có thể cướp vũ khí của
quân đội để tự trang bị thành những đội quân hùng mạnh.
Tình hình cũng tương tự tại Ai Cập.
Ayman al-Zawahiri, người Ai Cập, là Phó tướng của trùm khủng bố Osama
bin Laden và được coi là đầu não thực sự của al-Qaeda. Trong các cuộc
nổi dậy vừa qua tại Ai Cập, hầu hết những kẻ thánh chiến đã thoát khỏi
nhà tù sau khi cảnh sát và lính gác nhà tù đã biến mất một cách bí mật.
Syed Saleem Shahzad, một chuyên gia về Hồi giáo người Pakistan kết luận
rằng các cuộc nổi dậy trên đường phố tại thế giới Arập có thể mang lại
cho các nhóm Hồi giáo cực đoan uy tín chưa từng thấy.
Bàn tay bên ngoài?
Trong bối cảnh hàng loạt quốc gia ở
khu vực Trung Đông, trong đó có Tuynidi, Ai Cập, Yemen... đang lâm vào
tình trạng rối ren do làn sóng bạo động chống chính phủ dâng cao, cộng
với quyết định đình chỉ tư cách thành viên của Libya tại Hội đồng Nhân
quyền Liên Hợp Quốc (LHQ)…, Mỹ và phương Tây đang dự tính can thiệp quân
sự vào Libya, với lý do quốc gia Bắc Phi này đang trên bờ vực nội chiến
đẫm máu. Tuy nhiên, những toan tính đó không dừng lại ở hai từ "can
dự". Trên thực tế, hiện Mỹ đã triển khai lực lượng không quân và hải
quân đến gần sát đất nước Libya. Khúc dạo đầu của chiến lược can thiệp
bằng vũ lực của Washington có thể bằng sự kiện hàng trăm cố vấn quân sự
của Anh, Pháp và Mỹ đã tới miền Đông Libya - thành trì của phe nổi dậy.
Các nhà phân tích cho rằng, hiện
Washington đang thực thi chiến lược "cây gậy và củ cà rốt" khi toan tính
can thiệp quân sự vào Libya. Mạng tin Worldnews dẫn lời Tổng thống
Venezuela Hugo Chavez cho rằng, "củ cà rốt" ở đây là sự vỗ về với chính
quyền Gaddafi khi mọi giải pháp chính trị còn hữu dụng, còn "cây gậy" là
khi tàu đổ bộ của Mỹ đang áp sát vùng biển của Libya và "mọi phương án
đều đang tính tới".
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, con bài
lợi ích thực sự của Mỹ tại Trung Đông lại nằm ở các mỏ dầu. Đến nay, cả
Mỹ và Anh đều không còn úp mở về ý muốn Đại tá Gaddafi phải rời ghế
lãnh đạo Libya. Iran, Cuba và Venezuela lên tiếng cáo buộc Mỹ không hề
quan tâm đến hòa bình ở đây mà ngược lại họ muốn có được nguồn dầu mỏ
của quốc gia Bắc Phi này. Trong khi đó, Nga và Trung Quốc tuyên bố phản
đối sự can thiệp của lực lượng quân sự nước ngoài vào khu vực.
Từ châu Mỹ, châu Á đến châu Âu, từ
nông thôn đến thành thị, từ những lao động chân tay đến các chính trị
gia danh tiếng đều đang dõi theo những diễn biến mới nhất tại "rốn" dầu
thế giới. Quả không sai khi nói rằng mọi sự chú ý đều đang đổ dồn về Bắc
Phi và Trung Đông bởi những hậu quả nhãn tiền của cuộc khủng hoảng tại
khu vực này đang đến.
KHAI TÂM
|