Nếu
như ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu và quan trọng bậc nhất
của con người thì ngoại ngữ chính là cầu nối không thể thiếu trọng quá
trình giao lưu, hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia dân tộc. Điều này
không phải đến ngày nay trong quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa chúng
ta mới nhận thức được mà ngay dưới thời phong kiến nước ta, nhiều vị vua
đã thức thời nhận ra như vua Minh Mạng dưới triều Nguyễn là một ví dụ:
“Xưa, đời nhà Đường, Lý Bạch biết tiềng các nước Phiên. Nếu ông ta không
học thì biết làm sao được”, “Ta muốn học cái hay của người là mở dịch
quán (trường đào tạo ở Kinh thành), cấp tiền lương cho những ai hiểu
biết chữ và tiếng nói của các nước để họ giảng dạy cho người trong nước.
Những tiếng chim muông là không cần học, cần biết; còn thì tiếng người
nên biết cả. Có như thế thì mới mong trở thành nước văn minh và quốc thể
mới được tôn trọng”( ). Nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ như
vậy, nhưng làm thế nào để biến thứ ngôn ngữ nước ngoài ấy thành phương
tiện giao tiếp, thành công cụ để học tập và nghiên cứu? Đó là câu hỏi
đặt ra cho mỗi giảng viên chúng ta và chúng ta phần nào sẽ tìm được lời
giải đáp cho câu hỏi ấy qua việc tìm hiểu về cách học ngoại ngữ của Hồ
Chí Minh – một tấm gương tự học đầy sáng tạo.
Ngay từ thưở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã theo học chữ Hán và tiếp thu vốn văn hóa Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa. Song từ ngày đó, Người đã không thích kiểu học nệ cổ, bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối “tầm chương trích cú”( ) mà luôn tìm tòi những vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc sống để suy nghĩ và giải quyết. Từ năm 1905 đến 1909, Nguyễn Tất Thành có theo học các trường tiểu học Pháp – bản xứ ở Vinh, Đông Ba (Huế) rồi Trường Quốc học Huế. Trong thời gian đó, Người đã có dịp tiếp xúc với tiếng Pháp song mới chỉ là những kiến thức sơ giản mà thôi.
Phải đến khi Người bước chân ra đi tìm đường cứu nước thì hơn lúc nào hết Người mới nhận thức sâu sắc vai trò của ngoại ngữ trên hành trình đi tìm chân lý. Nếu không biết ngôn ngữ của các dân tộc mà Người đã đi qua thì làm sao Người có thể tìm hiểu về lịch sử của dân tộc đó, làm sao Người hiểu nhân dân, đất nước ấy đang làm gì và đang cần gì. Chính vì vậy, đặt chân đến đâu việc đầu tiên của Người là học ngôn ngữ của đất nước đó để có thể sử dụng thứ ngôn ngữ ấy làm phương tiện giao tiếp, tìm tòi, khám phá, từ đó mà rút ra những bài học bổ ích cho hành trình đi tìm chân lý của mình. Năm 1911, sau khi rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), Người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành đã vượt đại dương tìm đến Singapore, Clômbô, Pari, Macxây…Rồi từ Have, Người đã đặt chân đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angieerri, Tuynidi, Đông Phi…Và từ châu Phi người đã sang Mĩ, từ Mĩ Người lại vượt Đại Tây Dương trở về châu Phi…Trên hành trình bôn ba qua bao nhiêu quốc gia ấy, đến nơi nào Người cũng học ngoại ngữ. Bao nhiêu ngôn ngữ được sử dụng ở các nước mà Người đã đi qua là bấy nhiêu ngôn ngữ được Người dày công khổ luyện. Bởi thế, Người học cả tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha…Người không chỉ học ở sách mà người còn tìm cho mình cách học hiệu quả từ trong thói quen giao tiếp với người nước ngoài. Người rất mạnh dạn, không ngần ngại khi giao tiếp với cô sen, với người bạn cùng tàu, với anh đầu bếp hay thậm chí là với cả giáo sư người Anh…
Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Người cũng có thể tìm tòi, học tập, không bỏ phí một chút thời gian nào, một cơ hội nào. Sự kiên trì, chịu khó của Người khi học tiếng Pháp được Trần Dân Tiên miêu tả khá chi tiết. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng: Ông Nguyễn bắt đầu viết tiếng Pháp rất khó khăn. Dù tin túc về Việt Nam không thiếu nhưng ban đầu Người thiếu nhất là văn Pháp, ngôn ngữ Pháp. Bài viết đầu tiên được Người viết thành 2 bản gửi cho chủ báo Pháp và một bản giữ lại cho mình. Người đã vui sướng biết bao khi bài viết đầu tiên ấy được đăng trên báo. Người đã đọc đi đọc lại bài báo đã in, so sánh và sửa những lỗi viết sai. Bài báo đầu tiên ấy dài không quá 7 dòng. Dần dần Người đã viết dài hơn, có thể viết cả một cột báo, rồi tiến đến cả trang báo và rồi viết cả cuốn sách, vở kịch bằng tiếng Pháp. Ở Pari, Người đã cho xuất bản tờ báo: “Người cùng khổ”; các tập sách “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vở kịch “Con rồng tre” và nhiều truyện kí bằng tiếng Pháp khác( ).
Vậy là trải qua từng bước đầy gian khổ, bằng đức kiên trì, chịu khó, Người đã biến tiếng Pháp thành phương tiện hữu hiệu để hiểu về nước Pháp và con người nơi đây. Không dừng lại ở học tiếng Pháp, Người còn dũng cảm vượt qua mọi gian khó trên hành trình tiếp cận với tiếng Anh, tiếng Nga và nhiều thứ tiếng khác. Hơn ai hết Người hiểu rằng: con đường ngắn nhất để tiếp cận và hiểu một dân tộc trước hết là sử dụng được ngôn ngữ của dân tộc đó. Theo lời kể lại của Trần Dân Tiên, Người lúc nào cũng tận dụng thời gian đọc sách bằng tiếng nước ngoài. Hồ Chủ Tịch thích đọc truyện của Sếchspia và Đíchken bằng tiếng Anh, truyện của Lỗ Tấn bằng tiếng Hán hay các tác phẩm của Huygo, Đuyma bằng tiếng Pháp. Ngay ở trong cảnh tù đày, Người còn lạc quan viết nên tập thơ “Nhật ký trong tù” bằng tiếng Hán. Và trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Ngươì vẫn không quên trau dồi tiếng Nga bằng cách dịch những tác phẩm tiếng Nga có thể phục vụ thiết thực cho cách mạng hiện thời. Cuốn sách “Tỉnh ủy bí mật” của A phêđôrôp – một trong những người lãnh đạo phong trào du kích ở Liên Xô hay cuốn “Lịch sử Đảng cộng sản B Liên Xô” (Bản tin Liên Xô, số 10/312) ra đời chính trong trong thời kỳ đầy gian khổ ấy.
Rõ ràng, dù trong hoàn cảnh nào, Người cũng luôn tận dụng thời gian để học ngoại ngữ, trau dồi nó, biết sử dụng nó một cách rất thiết thực. Người học liên tục, không đứt đoạn và rất cẩn thân, từ tốn mà chắc chắn. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng: “Ngày còn học ở Xiêm (Thái Lan), Bác Hồ đã đề ra ngày học 10 chữ. Có người chê ít, đòi học nhiều hơn nhưng chỉ 3 tháng sau Bác đã xem được báo chữ Xiêm, còn những người khác háo hức lúc đầu nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu”( ).
Qủa thật là, khi nói đến học ngoại ngữ, người ta thường hay nói đến năng khiếu. Cố nhiên có năng khiếu thì học sẽ nhanh hơn, nhưng nếu sẵn có khiếu mà không học kiên trì, liên tục thì năng khiếu đó cũng không thể phát huy. Với Hồ Chí Minh, trước hết chúng ta tìm thấy ở Người một phong cách học ngoại ngữ bền bỉ, kiên trì và đầy nghị lực, không nóng ruột, vội vàng mà rất chắc chắn. Qúa trình học tiếng nước ngoài của Người là quá trình học rèn luyện, rèn luyện liên tục, để không ngừng xây dựng và củng cố kỷ năng ngôn ngữ mới, để đạt đến độ sử dụng được nó một cách sinh đông, có hiệu quả.
Từ tấm gương tự học ngoại ngữ của Người, chúng ta có thể suy ngẫm rút ra được những bài học quý báu để hình thành cho mình một phương pháp học ngoại ngữ tốt nhất. Là giảng viên đại học Sư phạm, muốn đào tạo ra những người Thầy giỏi, có khả năng tiếp cận nhanh nhất những thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật trên thế giới và có sự năng động, linh hoạt trong quá trình giao lưu, hội nhập với nền giáo dục bên ngoài thì trước hết phải được trang bị ngoại ngữ và ngoại ngữ phải được biến thành công cụ trong quá trình học tập, nghiên cứu. Muốn đào tạo ra những người Thầy như thế thì trước tiên người giảng viên phải là những người có trình độ ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ thành thục. Nên chăng mỗi giảng viên chúng ta phải luôn luôn ý thức việc tự học ngoại ngữ là nhiệm vụ thường xuyên song hành với nhiệm vụ trau dồi, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn của mình. Việc học kiên trì, bền bỉ đến liên tục không ngừng với một quyết tâm cao độ sẽ giúp mỗi giảng viên chúng ta biến ngoại ngữ thành công cụ đắc lực phục vụ, hỗ trợ cho quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy, giúp mỗi chúng ta tự tin vững bước cùng đất nước trên hành trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Qủa thật tấm gương tự học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh thực sự đã rung động lòng người, khiến mỗi giảng viên chúng ta thêm ý thức, thêm trách nhiệm!
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Khoa Việt Nam học – Đại học Sư phạm Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
1. Đinh Xuân Lâm. Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Nxb Lao đông, Hà Nội, 2006.
2. Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
3. Bác Hồ thời niên thiếu. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989.
4. Nguyễn Thành. Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
5. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 4/2000.
6. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 2/2004.
Ngay từ thưở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã theo học chữ Hán và tiếp thu vốn văn hóa Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa. Song từ ngày đó, Người đã không thích kiểu học nệ cổ, bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối “tầm chương trích cú”( ) mà luôn tìm tòi những vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc sống để suy nghĩ và giải quyết. Từ năm 1905 đến 1909, Nguyễn Tất Thành có theo học các trường tiểu học Pháp – bản xứ ở Vinh, Đông Ba (Huế) rồi Trường Quốc học Huế. Trong thời gian đó, Người đã có dịp tiếp xúc với tiếng Pháp song mới chỉ là những kiến thức sơ giản mà thôi.
Phải đến khi Người bước chân ra đi tìm đường cứu nước thì hơn lúc nào hết Người mới nhận thức sâu sắc vai trò của ngoại ngữ trên hành trình đi tìm chân lý. Nếu không biết ngôn ngữ của các dân tộc mà Người đã đi qua thì làm sao Người có thể tìm hiểu về lịch sử của dân tộc đó, làm sao Người hiểu nhân dân, đất nước ấy đang làm gì và đang cần gì. Chính vì vậy, đặt chân đến đâu việc đầu tiên của Người là học ngôn ngữ của đất nước đó để có thể sử dụng thứ ngôn ngữ ấy làm phương tiện giao tiếp, tìm tòi, khám phá, từ đó mà rút ra những bài học bổ ích cho hành trình đi tìm chân lý của mình. Năm 1911, sau khi rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), Người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành đã vượt đại dương tìm đến Singapore, Clômbô, Pari, Macxây…Rồi từ Have, Người đã đặt chân đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angieerri, Tuynidi, Đông Phi…Và từ châu Phi người đã sang Mĩ, từ Mĩ Người lại vượt Đại Tây Dương trở về châu Phi…Trên hành trình bôn ba qua bao nhiêu quốc gia ấy, đến nơi nào Người cũng học ngoại ngữ. Bao nhiêu ngôn ngữ được sử dụng ở các nước mà Người đã đi qua là bấy nhiêu ngôn ngữ được Người dày công khổ luyện. Bởi thế, Người học cả tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha…Người không chỉ học ở sách mà người còn tìm cho mình cách học hiệu quả từ trong thói quen giao tiếp với người nước ngoài. Người rất mạnh dạn, không ngần ngại khi giao tiếp với cô sen, với người bạn cùng tàu, với anh đầu bếp hay thậm chí là với cả giáo sư người Anh…
Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Người cũng có thể tìm tòi, học tập, không bỏ phí một chút thời gian nào, một cơ hội nào. Sự kiên trì, chịu khó của Người khi học tiếng Pháp được Trần Dân Tiên miêu tả khá chi tiết. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng: Ông Nguyễn bắt đầu viết tiếng Pháp rất khó khăn. Dù tin túc về Việt Nam không thiếu nhưng ban đầu Người thiếu nhất là văn Pháp, ngôn ngữ Pháp. Bài viết đầu tiên được Người viết thành 2 bản gửi cho chủ báo Pháp và một bản giữ lại cho mình. Người đã vui sướng biết bao khi bài viết đầu tiên ấy được đăng trên báo. Người đã đọc đi đọc lại bài báo đã in, so sánh và sửa những lỗi viết sai. Bài báo đầu tiên ấy dài không quá 7 dòng. Dần dần Người đã viết dài hơn, có thể viết cả một cột báo, rồi tiến đến cả trang báo và rồi viết cả cuốn sách, vở kịch bằng tiếng Pháp. Ở Pari, Người đã cho xuất bản tờ báo: “Người cùng khổ”; các tập sách “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vở kịch “Con rồng tre” và nhiều truyện kí bằng tiếng Pháp khác( ).
Vậy là trải qua từng bước đầy gian khổ, bằng đức kiên trì, chịu khó, Người đã biến tiếng Pháp thành phương tiện hữu hiệu để hiểu về nước Pháp và con người nơi đây. Không dừng lại ở học tiếng Pháp, Người còn dũng cảm vượt qua mọi gian khó trên hành trình tiếp cận với tiếng Anh, tiếng Nga và nhiều thứ tiếng khác. Hơn ai hết Người hiểu rằng: con đường ngắn nhất để tiếp cận và hiểu một dân tộc trước hết là sử dụng được ngôn ngữ của dân tộc đó. Theo lời kể lại của Trần Dân Tiên, Người lúc nào cũng tận dụng thời gian đọc sách bằng tiếng nước ngoài. Hồ Chủ Tịch thích đọc truyện của Sếchspia và Đíchken bằng tiếng Anh, truyện của Lỗ Tấn bằng tiếng Hán hay các tác phẩm của Huygo, Đuyma bằng tiếng Pháp. Ngay ở trong cảnh tù đày, Người còn lạc quan viết nên tập thơ “Nhật ký trong tù” bằng tiếng Hán. Và trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Ngươì vẫn không quên trau dồi tiếng Nga bằng cách dịch những tác phẩm tiếng Nga có thể phục vụ thiết thực cho cách mạng hiện thời. Cuốn sách “Tỉnh ủy bí mật” của A phêđôrôp – một trong những người lãnh đạo phong trào du kích ở Liên Xô hay cuốn “Lịch sử Đảng cộng sản B Liên Xô” (Bản tin Liên Xô, số 10/312) ra đời chính trong trong thời kỳ đầy gian khổ ấy.
Rõ ràng, dù trong hoàn cảnh nào, Người cũng luôn tận dụng thời gian để học ngoại ngữ, trau dồi nó, biết sử dụng nó một cách rất thiết thực. Người học liên tục, không đứt đoạn và rất cẩn thân, từ tốn mà chắc chắn. Trần Dân Tiên đã kể lại rằng: “Ngày còn học ở Xiêm (Thái Lan), Bác Hồ đã đề ra ngày học 10 chữ. Có người chê ít, đòi học nhiều hơn nhưng chỉ 3 tháng sau Bác đã xem được báo chữ Xiêm, còn những người khác háo hức lúc đầu nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu”( ).
Qủa thật là, khi nói đến học ngoại ngữ, người ta thường hay nói đến năng khiếu. Cố nhiên có năng khiếu thì học sẽ nhanh hơn, nhưng nếu sẵn có khiếu mà không học kiên trì, liên tục thì năng khiếu đó cũng không thể phát huy. Với Hồ Chí Minh, trước hết chúng ta tìm thấy ở Người một phong cách học ngoại ngữ bền bỉ, kiên trì và đầy nghị lực, không nóng ruột, vội vàng mà rất chắc chắn. Qúa trình học tiếng nước ngoài của Người là quá trình học rèn luyện, rèn luyện liên tục, để không ngừng xây dựng và củng cố kỷ năng ngôn ngữ mới, để đạt đến độ sử dụng được nó một cách sinh đông, có hiệu quả.
Từ tấm gương tự học ngoại ngữ của Người, chúng ta có thể suy ngẫm rút ra được những bài học quý báu để hình thành cho mình một phương pháp học ngoại ngữ tốt nhất. Là giảng viên đại học Sư phạm, muốn đào tạo ra những người Thầy giỏi, có khả năng tiếp cận nhanh nhất những thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật trên thế giới và có sự năng động, linh hoạt trong quá trình giao lưu, hội nhập với nền giáo dục bên ngoài thì trước hết phải được trang bị ngoại ngữ và ngoại ngữ phải được biến thành công cụ trong quá trình học tập, nghiên cứu. Muốn đào tạo ra những người Thầy như thế thì trước tiên người giảng viên phải là những người có trình độ ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ thành thục. Nên chăng mỗi giảng viên chúng ta phải luôn luôn ý thức việc tự học ngoại ngữ là nhiệm vụ thường xuyên song hành với nhiệm vụ trau dồi, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn của mình. Việc học kiên trì, bền bỉ đến liên tục không ngừng với một quyết tâm cao độ sẽ giúp mỗi giảng viên chúng ta biến ngoại ngữ thành công cụ đắc lực phục vụ, hỗ trợ cho quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy, giúp mỗi chúng ta tự tin vững bước cùng đất nước trên hành trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Qủa thật tấm gương tự học ngoại ngữ của Hồ Chí Minh thực sự đã rung động lòng người, khiến mỗi giảng viên chúng ta thêm ý thức, thêm trách nhiệm!
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Khoa Việt Nam học – Đại học Sư phạm Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
1. Đinh Xuân Lâm. Về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Nxb Lao đông, Hà Nội, 2006.
2. Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
3. Bác Hồ thời niên thiếu. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989.
4. Nguyễn Thành. Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
5. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 4/2000.
6. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 2/2004.