Bom nổ chậm
Có phải Bắc Kinh đã tìm ra được một công thức bí mật cho thành công kinh tế, ngoài tầm hiểu biết của các nước phương Tây?
GS. Minxin Pei - Chuyên gia nghiên cứu
Trung Quốc tại Mỹ, thuộc Claremont McKenna College đã viết trên tờ The
Diplomat (Mỹ) rằng, Trung Quốc đã cố duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh trong thời kỳ suy thoái toàn cầu bằng các khoản vay khổng lồ từ
ngân hàng cung cấp cho chính quyền địa phương, dẫn đến tình trạng bội
chi cho cơ sở hạ tầng mà nước này phải gánh chịu trong nhiều năm tới,
nên nợ công đang là trái bom nổ chậm.
Đúng như vậy, một phần câu trả lời cho
bí ẩn trên đã được Bắc Kinh đưa ra vào cuối tháng 6/2011. Hóa ra Bắc
kinh đã xoay sở giữ nền kinh tế tăng trưởng GDP trong suy thoái toàn cầu
bằng các khoản vay khổng lồ từ ngân hàng cấp cho chính quyền các địa
phương, dẫn đến tình trạng bội chi khổng lồ cho cơ sở hạ tầng. Trong
những lý do dẫn đến khủng hoảng kinh tế làm Mỹ và Tây Âu khốn đốn,
nguyên nhân lớn nhất là tình trạng "bùng nổ tín dụng" - tức việc cho vay
và vay quá nhiều làm bùng lên bong bóng nhà đất và chi tiêu không bền
vững. Trung Quốc dường như đã bị nhiễm căn bệnh tương tự, chỉ với một
điểm khác duy nhất là hầu hết nợ của Trung Quốc được đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, chứ không phải tiêu dùng.
Theo số liệu được Cơ quan Kiểm toán
Quốc gia Trung Quốc (NAO) công bố vào cuối tháng trước, chính quyền các
địa phương đã mắc tổng số nợ 10.700 tỷ NDT (1.650 tỷ USD), chiếm khoảng
27% GDP năm 2010. Giới quan sát cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) gần đây ước tính nợ của các địa
phương đã lên tới 14.000 tỷ NDT (hầu hết là nợ ngân hàng), cao hơn 30%
so với số liệu của NAO.
Trên giấy tờ, nợ của Trung Quốc chỉ
dưới 20% GDP, khiến Bắc Kinh trở thành một mẫu mực so với các chính phủ
Phương Tây tiêu xài quá tay. Tuy nhiên, nếu tính các khoản nợ của địa
phương, chi phí tái cấp vốn cho các ngân hàng nhà nước, trái phiếu do
ngân hàng nhà nước phát hành và trái phiếu đường sắt, tổng nợ của Trung
Quốc có thể lên tới 70-80% GDP, gần bằng mức nợ công của Mỹ và Anh. Do
hầu hết các khoản nợ này được vay trong thập niên vừa qua, nên Trung
Quốc đang trên quỹ đạo không bền vững với tốc độ tích tụ nợ hiện nay,
đặc biệt khi tăng trưởng kinh tế chậm lại như đã được dự báo cho thập
niên kế tiếp.
Mặc dù Trung Quốc là nền kinh tế phát
triển nhanh nhất thế giới, có dự trữ ngoại hối và thặng dư thương mại
khổng lồ, nhưng thị trường vẫn lo ngại khoản nợ địa phương lớn có thể
ảnh hưởng đến ổn định kinh tế quốc gia. Vấn đề tiếp theo là liệu chính
quyền các địa phương có thể trả lãi và trả nợ gốc hay không?
Theo một báo cáo được đăng tải trên
website của NAO, tổng số có 148 công ty tài chính do các chính quyền địa
phương thành lập đã nợ quá hạn lên tới 8 tỷ NDT, trong khi hơn 5% số
công ty này đã tìm cách vay mới để trả nợ cũ. Theo tiết lộ của một nhà
quản lý ngân hàng, chỉ 1/3 các dự án trên có thể hoàn trả đủ vốn đã vay .
Trong khi đó đất đai mà chính quyền địa phương thế chấp để vay vốn đang
có giá trị bấp bênh do thị trường địa ốc có thể suy sụp. Vì vậy, có
nhiều khả năng các chính quyền địa phương sẽ không có khả năng hoàn vốn
từ các khoản đầu tư hạ tầng - hay trả nợ cho ngân hàng.
Điều gì có thể xảy ra
Như vậy có nghĩa là phần lớn mức tăng
trưởng của Trung Quốc đã không thực chất, nói cách khác đây thực sự là
một quả bong bóng lớn. Những nỗ lực xây đường sắt cao tốc của Trung Quốc
là một ví dụ khi mang tới một núi nợ quá lớn, trong mọi khả năng khó có
thể chi trả bằng doanh thu từ đường sắt.
Khoảng 50% các khoản vay ngân hàng của
chính quyền các địa phương sẽ đến kỳ trả nợ trong hai năm tới, một cuộc
khủng hoảng thanh toán ngắn hạn được dự đoán có thể xảy ra. Các ngân
hàng nhà nước của Trung Quốc sẽ phải gia hạn các khoản vay và cứ coi như
chúng vẫn đang sinh lời. Thậm chí các ngân hàng còn phải cho vay thêm
để họ trả lãi. Tác động của các mánh lới kế toán này sẽ làm giảm khả
năng sinh lời của các ngân hàng Trung Quốc, điều được coi không phải là
mối lo thực sự, nhưng việc đó chỉ có thể tạm thời làm chậm lại cái không
thể tránh khỏi.
Tác động dài hạn của các khoản vay lớn
không hiệu quả trên nhiều khả năng sẽ không thể hiện ra dưới dạng một
cuộc khủng hoảng ngân hàng, mà dưới các hình thức âm thầm hơn, và cũng
tai hại hơn. Vì Bắc Kinh có thừa nguồn lực tài chính để cứu trợ chính
quyền các địa phương khi mà các khoản vay này đến kỳ phải trả. Nhưng đổi
lại, trong thập kỷ tới - thập kỷ các nguồn lực tài chính đều trở nên
quý giá hơn, Trung Quốc sẽ trải qua sự kết thúc của tăng trưởng dân số,
gia tăng chi phí cho y tế và lương hưu và tăng trưởng kinh tế chậm lại -
nước này sẽ có ít vốn để đầu tư hơn. Với một nền kinh tế lấy đầu tư làm
động lực, cho vay là bản lề tăng trưởng, nhưng lại quá nhiều khoản nợ
đang trở thành khó đòi thì chẳng thể biết được điều gì sẽ xảy ra.
Tương lai bấp bênh?
Đối với một số nhà quan sát, cán cân
sức mạnh toàn cầu đang dịch chuyển vững chắc về phía có lợi cho Trung
Quốc. Nước này hiện được coi là lo ngại chính với nhiều quyền lực lớn
trên thế giới như Nhật, Đức và Mỹ. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đã thận
trọng hơn về kinh tế Trung Quốc. Một số đã hạ dự báo tăng trưởng và xếp
hạng các ngân hàng do lo ngại về làn sóng nợ xấu của nước này.
Charlenne Chu - chuyên gia phân tích
của Fitch cho rằng, tăng trưởng của Trung Quốc gần đây dựa quá nhiều vào
tín dụng lỏng lẻo và rằng dòng tiền dễ dàng ấy đang thổi bùng lạm phát
và bong bóng tài sản.
Hơn thế nữa, những lợi thế lâu nay của
Trung Quốc đang có xu hướng mất dần. Nguồn cung lao động dồi dào từ
nông thôn đang giảm dần. Dân số trong độ tuổi lao động sẽ đạt đỉnh trong
vài năm tới. Tốc độ đô thị hóa - một trong những động lực tăng trưởng
đang suy yếu dần. Trong 10 năm tới, nhiều chuyên gia lo ngại về việc
Trung Quốc rơi vào bẫy thu nhập trung bình, mất khả năng cạnh tranh
trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, nhưng thất bại trong
việc tìm nguồn tăng trưởng mới...
GS. Michael Pettis - trường Quản Lý
Guanghua (Trung Quốc) cho rằng "tăng trưởng của Trung Quốc đã mất cân
bằng đến mức sẽ vô cùng khó khăn để họ chuyển sang một mô hình tăng
trưởng mới". Chính phủ đã quy định trong kế hoạch kinh tế mới trong 5
năm rằng họ muốn nâng cao vai trò của tiêu dùng trong tăng trưởng kinh
tế, bằng cách nâng cao sức mua của người dân và phát triển hơn nữa các
dịch vụ và an sinh xã hội. Nhưng hết tháng này qua tháng khác, các chỉ
số kinh tế vẫn cho thấy đầu tư và xuất khẩu tiếp tục tăng nhanh hơn tiêu
dùng.
Chính phủ cũng có các đòn bẩy mạnh mẽ
về mặt sở hữu để điều chỉnh hướng đi của nền kinh tế. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước có khả năng tiếp cận tín dụng cao hơn
khu vực tư nhân cạnh tranh hơn và mới là nguồn tạo ra công ăn việc làm
chính của quốc gia này. Vì thế đây là một sự phân bổ nguồn lực yếu kém.
Richard McGregor- tác giả cuốn Đảng
Cộng sản: Thế giới bí mật của các nhà cầm quyền Trung Quốc cho biết:
"Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước đã lớn mạnh hơn rất nhiều so với
trước đây. Hiện tại quốc gia này đã trở nên hùng mạnh hơn, nhưng tôi
không chắc đó là một hiện tượng kéo dài".
Các nhà phân tích hoài nghi rằng liệu
một Trung Quốc phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ mới trong thế
giới đã phát triển có thể thực hiện các biện pháp khắc phục tương tự như
họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Fraser
Howie- đồng tác giả cuốn Chủ nghĩa tư bản Đỏ: Cơ sở tài chính dễ tan vỡ,
sự gia tăng bất thường của Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc có thể làm
tương tự trong trường hợp này - cấp thêm nhiều vốn đề xây dựng những dự
án không hữu ích. Nhưng cuối cùng thì việc này chỉ gây lãng phí các
nguồn lực và mô hình tăng trưởng này rồi sẽ thất bại.
Hy Lạp tiếp theo?
Trả lời phỏng vấn CNBC, nhà phân tích
thuộc Mizuho Securities Asia - Jim Antos nói rằng, tính trên thang điểm
từ 1 đến 10 về mức độ nguy hiểm của nợ nần, thì Trung Quốc đang ở cấp độ
8. Một ví dụ tiêu biêu về bong bóng tín dụng là chỉ từ 12/2007 đến
5/2011, lượng vốn tín dụng cấp mới của các ngân hàng Trung Quốc đã tăng
gấp đôi.
Tờ Financial Times dẫn lời chuyên gia
kinh tế của Đại học Northwestern (Mỹ) thì cho rằng, nếu xem xét kỹ hơn
các loại nghĩa vụ của chính phủ, thì con số nợ thực tế phải vượt quá
150% GDP của Trung Quốc năm 2010 (nợ của Mỹ so với GDP là 93%, của Nhật
Bản vượt quá 225% GDP). Chẳng hạn, khoản vay nợ để xây đường sắt cao tốc
đã không được tính vào khoản nợ chính thức của chính phủ, mặc dù đây là
nợ của Bộ Đường sắt. Một số nhà phân tích cho rằng, suy thoái kinh tế
có thể đã phơi bày các khoản nợ khổng lồ ẩn trong hệ thống ngân hàng.
Tiền đã được đổ vào nhằm giảm tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu tới kinh tế Trung Quốc. Vì thế rất nhiều vấn đề gắn với gói kích
thích kinh tế 586 tỷ USD hồi cuối năm 2008 và một làn sóng lớn các khoản
vay được chính phủ hỗ trợ trong giai đoạn 2009 - 2010.
Vậy Trung Quốc có giống Hy Lạp không?
vừa không, vừa có. Trung Quốc không gặp vấn đề nợ như Hy Lạp. Các khoản
nợ của Trung Quốc không có khả năng kích hoạt khủng hoảng hay thậm chí
suy thoái trong ngắn hạn. Khoản nợ hiện tại của Trung Quốc không cao hơn
so với trước đây khi nền kinh tế nước này tăng trưởng mạnh. Hơn nữa,
phần lớn các khoản nợ được phát hành bằng nội tệ với lãi suất thấp. Mức
lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm hiện chỉ vào khoảng 3,94%.
Nợ của nước này cũng ít rắc rối hơn so
với gánh nặng nợ công của các nước giàu, vì đã được bù đắp bởi một tốc
độ tăng trưởng rất cao. Tỷ lệ nợ/GDP ở 80% là nghiêm trọng nếu tăng
trưởng trong ngắn hạn dưới 3% như ở Mỹ và gần 1% như ở Nhật. Nguy cơ ít
hơn nhiều khi tăng trưởng trong ngắn hạn của Trung Quốc được dự báo tới
9%. Thậm chí, nếu tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc trong khoảng 5-7%, nợ
nần cũng sẽ nhanh chóng được giải quyết nếu các khoản cho vay mới được
kiểm soát.
Trung Quốc cũng không cần phải lo ngại
tới các chủ nợ nước ngoài. Bởi nước ngoài hiện khó tiếp cận được nợ
Trung Quốc do hệ thống tài chính nội địa đang chịu sự kiểm soát mạnh mẽ
từ chính phủ. Và dĩ nhiên, Trung Quốc còn có 3.000 tỷ USD dự trữ. Vì
vậy, việc thanh toán nợ chắc chắn không gây nhiều khó khăn cho kinh tế
Trung Quốc.
Tuy vậy không có nghĩa là các khoản nợ
không phải là vấn đề. Có thể khủng hoảng nợ trong ngắn hạn tại Trung
Quốc khó xảy ra. Nhưng các chính sách kinh tế mà Trung Quốc buộc phải
thực hiện nhằm giảm nợ trong ngắn hạn có thể đe dọa tăng trưởng của nước
này trong 5 đến 10 năm tới. Các ngân hàng lớn thiếu sự độc lập cần
thiết, giới hạn khả năng sử dụng chính sách tiền tệ để chống lạm phát và
những tác động ngược của chính sách gây lo ngại nhiều hơn rằng Trung
Quốc không tránh khỏi sự suy giảm tốc độ tăng trưởng. Nước này cũng sẽ
gặp khó khăn trong việc hướng tới một động lực tăng trưởng khác
An Sinh
|