Trong
lịch sử hơn 200 năm, nước Mỹ đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh, nhưng
cuộc chiến ở Việt Nam là dài nhất, tốn kém nhất và hao binh, tổn tướng
nhất.
Dài nhất, tốn kém nhất
Theo US News & World Report (Mỹ)
số ra năm 1975, chiến tranh xâm lược VN kéo dài 11 năm 1 tháng (tính từ
22/12/1961 khi lính Mỹ đầu tiên chết ở VN). Nhưng theo tạp chí Lịch sử
Quân sự VN, ngay từ đêm 6/7/1959, tại TP. Biên Hoà, bộ đội đặc công VN
đã nổ mìn tiêu diệt 2 cố vấn quân sự Mỹ. Tên của 2 cố vấn này đứng đầu
danh sách binh lính Mỹ tử trận tại VN ghi trên bức tường ở Washington.
Như vậy, cuộc chiến tranh xâm lược VN của Mỹ phải là 14 năm 7 tháng và
là cuộc chiến tranh dài nhất từ trước đến nay.
Theo tài liệu khảo sát Harrison and
Stevens (1976), ước tính chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN là 925 tỷ
USD, nghĩa là cứ mỗi phút chiến tranh, Mỹ phải chi khoảng 32.000 USD.
Đây là một trong những chi phí chiến tranh lớn nhất so với nhiều cuộc
chiến khác như chiến tranh Triều Tiên (164 tỷ USD), Thế chiến II (664 tỷ
USD)...
Các loại vũ khí tối tân nhất cũng được
quân Mỹ sử dụng từ bom chùm, bom bi, bom từ trường, bom thông minh điều
khiển bằng laser, pháo lớn “Vua chiến trường” 203mm, cho đến các loại
vũ khí bị cấm như bom Napan, chất độc hoá học, đặc biệt là chất độc da
cam. Trong chiến tranh VN, Mỹ đã ném 7 triệu tấn bom và bắn hơn 7 triệu
tấn đạn các loại (gấp 3 lần số bom đạn Mỹ ném xuống Châu Âu trong Thế
chiến II và bằng sức nổ của 70 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima năm
1945. Trung bình, mỗi người dân VN phải chịu 500kg bom đạn, còn mỗi
người lính VN phải chịu tới vài tấn bom, đạn!
Hao binh, tổn tướng nhất
Theo các số liệu trong sách Sổ tay sự
kiện chiến tranh VN của Jeff Stein - Marc Leepson và hồi ký Nhìn lại quá
khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về VN của cựu Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ R.McNamara, đã có tới 6,6 triệu lượt binh sĩ Mỹ: 70% Lục quân, 60%
Lính thuỷ đánh bộ, 40% Hải quân, 60% Không quân đã tham chiến ở VN.
22.000 xí nghiệp quốc phòng và dân sự gián tiếp hoặc trực tiếp phục vụ
chiến tranh VN.
Cụ thể hơn, về lục quân, năm 1969 là
năm số quân Bộ binh Mỹ tham chiến cao nhất tại VN: 11 Sư đoàn và 11
trung đoàn với 543.400 quân. Trong số đó có nhiều Sư đoàn nổi tiếng
thiện chiến như Sư đoàn 3 Lính thuỷ đánh bộ đã tham gia Thế chiến II ở
Thái Bình Dương. Sư đoàn Bộ binh số 25 “Tia chớp nhiệt đới” tham gia Thế
chiến II và Chiến tranh Triều Tiên. Sư đoàn “Kỵ binh bay số1” là sư
đoàn cơ động đường không đầu tiên, tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ và Sư
đoàn Bộ binh số 1 “Anh cả đỏ” nổi tiếng nhất Lục quân Mỹ…
Về không quân, vào thời kỳ leo thang
cao điểm nhất năm 1972, Mỹ có tới 1.192 máy bay hoạt động: 999 máy bay
chiến thuật và 193 máy bay ném bom B52.
Về hải quân, Mỹ điều cả tàu sân bay
túc trực thường xuyên. Máy bay của Hải quân Mỹ cất cánh từ các tàu sân
bay ném bom, bắn phá dữ dội đất liền. Vào năm cao điểm 1972, có tới 55 -
59 tàu các loại (60% tàu Hạm đội 7) gồm 3-5 tàu sân bay, 1 tàu chống
ngầm, 30 - 33 tàu Khu trục, 5 tàu tuần dương, 4 tàu ngầm và 11 tàu đổ bộ
tham chiến.
Ngoài ra, Mỹ còn viện trợ lực lượng
ngụy quyền Sài Gòn, có lúc lên tới 1,1 triệu quân các loại, chưa kể 5
nước (Hàn Quốc, Thái Lan, Australia, Philippines và New Zealand) cũng
đem gần 73.000 quân đến VN tham chiến.
Không chỉ đông quân, nhiều súng đạn,
với tham vọng giành thắng lợi, Mỹ còn đưa đến VN rất nhiều tướng tài như
Wesmoreland, Harkins, Abrams... Tuy nhiên, không những không thắng, mà
ngược lại, họ còn phải hứng chịu tổn thất nặng nề. Theo The New York
Times, 12 Tướng Mỹ tử trận và 8 Tướng Mỹ khác bị thương trong chiến
tranh VN. Theo thống kê được ghi trên bức tường tại Washington, số binh
sĩ Mỹ chết trận là 57.939 người, bị thương là 365.000 người.
Những bức thư tuyệt mật
Nếu tính từ năm 1945 khi Tổng thống Mỹ
Harry Truman tuyên bố gửi cố vấn và viện trợ quân sự cho thực dân Pháp,
đã có 6 đời Tổng thống Mỹ dính líu và trực tiếp can thiệp vào chiến
tranh VN với các chiến lược khác nhau.
Thậm chí, Tổng thống Richard Nixon và
Tổng thống Gerald Ford đã gửi cho cựu Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn
Thiệu tới 31 bức thư tuyệt mật (trong đó riêng Nixon gửi 27 thư) để
thường xuyên chỉ đạo, vỗ về. Các bức thư này đều được giữ tuyệt mật, chỉ
riêng Tổng thống ngụy quyền được đọc và sau này giao cho Ts. Nguyễn
Tiến Hưng, phụ tá đặc biệt của Tổng thống, cựu Bộ trưởng Bộ Kế hoạch, sử
dụng trong những ngày cuối cuộc chiến để xin Quốc hội Mỹ tăng cường
viện trợ quân sự khẩn cấp hòng cứu chế độ ngụy quyền sụp đổ.
Chẳng hạn như trong bức thư gửi ngày
14/11/1972, Nixon hứa với Thiệu sẽ: “Phản công mãnh liệt và nhanh chóng
bất kỳ một vi phạm Hiệp định Paris nào” hay trong bức thư ngày 5/1/1973,
Nixon cam kết nếu miền Nam VN ngoan ngoãn làm theo Mỹ thì “chúng tôi sẽ
dốc toàn bộ lực lượng nếu Bắc Việt vi phạm”...
Thế nhưng gánh nặng chi phí chiến
tranh khổng lồ, sự phản đối chiến tranh mạnh mẽ của dân chúng và cựu
chiến binh Mỹ, tâm lý mệt mỏi, chán chường vì chiến tranh kéo dài... đã
làm cho Quốc hội, Tổng thống Mỹ nản chí.
Và cuộc hành binh cuối cùng
Theo cuốn Từ Toà Bạch ốc đến Dinh Độc
lập của Ts. Nguyễn Tiến Hưng (phụ tá đặc biệt của Tổng thống ngụy, nay
là Giáo sư kinh tế ở ĐH Haward) và Jerrold L.Schecter, lúc 10h51 phút
sáng ngày 29/4/1975 giờ Sài Gòn (đang đêm ở Washington), Tổng thống
Gerald Ford ra lệnh bắt đầu cuộc hành quân mang tên “Cơn lốc” (Operation
Frequent Wind). Đài phát thanh Sài Gòn vang lên bản nhạc Tôi mơ về một
mùa Noel tuyết trắng, đó là mật hiệu cho cuộc rút quân cuối cùng, chấm
dứt sự dính líu của Mỹ ở VN.
Trước đó một ngày, tình hình căng
thẳng. 6h20 chiều ngày 28/4/1975, một biên đội 5 máy bay A-37 đã tiến
vào không phận sân bay Tân Sơn Nhất. Tại Văn phòng Tùy viên quân sự Mỹ
cạnh sân bay, Von Marbod chăm chú quan sát những máy bay đang tới gần và
nghi ngờ hỏi: “Tôi tưởng Không quân VN (ngụy) nghỉ làm lúc 6 giờ?”.
Kiểm soát viên không lưu lập tức hỏi những máy bay đang tiến đến: “Máy
bay của Không đoàn nào?”. Một giọng lạ vang lên qua máy điện đàm: “Máy
bay do Mỹ chế tạo đây!”, rồi bất ngờ trút hàng loạt bom xuống sân bay. 3
máy bay AC-119 và nhiều máy bay C-47 khác đang đỗ trên đường băng chính
bị phá hủy. Sau đó, người Mỹ mới biết đó là những máy bay của Không lực
VN Cộng hòa bị đối phương chiếm dụng. Tình hình nguy cấp, họ cho rằng
toàn bộ nhân viên quân sự Mỹ phải rời VN trong vòng 24 giờ.
Trong cuộc rút lui này, những máy bay
vận tải C-130 “Thần lực sỹ” khổng lồ, mỗi chiếc chở 180 người di tản,
liên tục cất cánh, đưa 1.373 người Mỹ và khoảng hơn 6.000 người VN đến
các tàu chiến của Hạm đội 7 Mỹ đang neo đậu ngoài khơi. 8h sáng ngày
30/4/1975, Đô đốc Gayler đã chuyển lệnh của Tổng thống Ford buộc Đại sứ
Mỹ G.Martin lên máy bay rời VN, trở thành người Mỹ cuối cùng rời khỏi
Sài Gòn, kết thúc chiến dịch “Cơn lốc”.
Viên Hoà (Tổng hợp theo tài liệu nước ngoài)
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/HoSo/2011/4/F287865CE3394F94/
|