3 đột phá chiến lược
Năm 2010, kinh tế Việt Nam đạt được
hầu hết các chỉ tiêu đề ra (17/21 chỉ tiêu), nhưng những biến động tiêu
cực của kinh tế thế giới đã và đang tác động mạnh và trực tiếp đến kinh
tế Việt Nam. Lạm phát trở thành nguy cơ lớn nhất đối với nền kinh tế, do
nguyên nhân 'nhập khẩu lạm phát' từ thế giới, ở trong nước giá lương
thực, thực phẩm tăng liên tục vì mất mùa do tình hình thời tiết phức tạp
và nhất là quá trình tăng trưởng thời gian qua của nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào việc bơm vốn.
Cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao
(trung bình nhập siêu mỗi tháng một tỷ USD) do giá các nguyên, nhiên
liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, do nhu
cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm. Vấn đề nhập siêu đang gây áp lực
lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời
gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối với nền kinh tế.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất
là các doanh nghiệp nhập khẩu gặp khó khăn do chi phí nhập khẩu tăng;
một số ngành sản xuất đang có sự liên thông với chuỗi cung ứng toàn cầu,
như ngành lắp ráp ô-tô, máy tính, điện tử... sẽ bị tác động do sự đình
đốn của các hãng sản xuất Nhật Bản sau thảm họa động đất sóng thần.
Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi, Trung
Ðông đã tác động đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước khu vực
này, nhất là lĩnh vực thương mại, du lịch và xuẩt khẩu lao động. Chỉ
riêng việc hơn 10.000 lao động Việt Nam từ Libia về nước cùng một thời
điểm cũng là một bài toán đặt ra đối với thị trường lao động và việc bảo
đảm an sinh xã hội ở khu vực nông thôn.
Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước
ngoài ODA mặc dù chưa có tín hiệu chịu tác động rõ nét, nhưng về lâu dài
sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều nước phải thực hiện các biện pháp
thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư.
Trước những khó khăn này, để tạo tiền
đề thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Chính phủ nhiệm kỳ mới
quyết tâm đột phá vào ba khâu quan trọng và nếu giải quyết tốt các khâu
này sẽ tạo xung lực mới có sức lan toả mạnh, giải phóng mọi tiềm năng,
khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững.
Có thể nói, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch
sử nhân loại. Với mục tiêu phát triển của đất nước, KTTT định hướng
XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi
phối của các nhân tố định hướng XHCN. Sự chuyển đổi cơ chế trên đã giải
quyết được mâu thuẫn trong sự phát triển của đất nước và thực sự là một
đột phá chiến lược. Từ đột phá có tính mở đường này, chúng ta đã thực
hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo đà cho bước phát
triển mới, cao hơn.
10 năm triển khai thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã đạt được những thành
tựu quan trọng, với ba khâu đột phá: (i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ
chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị
trường trong và ngoài nước; (ii) Tạo bước chuyển mạnh về phát triển
nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;
(iii) Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, các hạn chế, yếu kém, đặc
biệt là việc tổ chức thực hiện các khâu đột phá vẫn thiên về hướng tiệm
tiến, chưa thực sự quyết liệt và thiếu đồng bộ, sức sản xuất chưa được
giải phóng triệt để. Những hạn chế, yếu kém này đang cản trở sự phát
triển và để đất nước phát triển nhanh, bền vững, cần phải tập trung sức
giải quyết, tháo gỡ. Chính vì vậy, ba khâu đột phá của Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 xác định, gồm: (i) Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập
môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; và,
(iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Theo đó, yêu cầu cơ bản để thể chế
kinh tế thị trường phát huy hết mặt tích cực của nó là các yếu tố của
kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, các loại thị trường phát triển
đồng bộ với độ minh bạch cao, được quản lý và giám sát tốt; nhờ đó, thị
trường xác lập sự cân bằng động trong phân bố nguồn lực vào các ngành
sản xuất và dịch vụ theo tín hiệu thị trường, bảo đảm hiệu quả kinh tế.
Thiếu các điều kiện này, thị trường
không thể cho tín hiệu đúng, các nguồn lực không thể dịch chuyển thuận
lợi và do đó, các chủ thể kinh doanh không thể phát huy được tiềm năng
và nền kinh tế không đạt được hiệu quả. Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2011 - 2020 xác định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ
và hiện đại là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Ở thời đại này, Khoa học công nghệ;
Toàn cầu hóa và Khan hiếm nguyên, nhiên liệu đã trở thành ba đặc điểm
chi phối sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều đó, ngày càng nổi bật vai
trò ngày càng tăng của nguồn lực con người - lợi thế cạnh tranh động
trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so sánh
giữa các quốc gia.
Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa
tạo điều kiện cho việc thay đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu dựa vào
tăng vốn đầu tư, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ
nhưng chất lượng thấp sang sự phát triển dựa vào các nhân tố năng suất
tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học
công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Chìa
khóa của sự chuyển đổi, nhân tố trung tâm của quá trình này là nguồn
nhân lực chất lượng cao. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao...; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Xét cho cùng, đây là khâu quan trọng
nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột
phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ
máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Thực hiện tốt đột phá này
sẽ làm tăng sức mạnh mềm của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh
hưởng quyết định đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng
cao trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng. Kinh nghiệm của
các nước trên thế giới cho thấy quốc gia nào xây dựng và phát huy tốt
nguồn lực con người thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn.
Đột phá cuối cùng sẽ tấn công vào hệ
thống cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, lạc hậu của nền kinh tế. Quy mô
kinh tế ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc
lộ những bất cập trong kết cấu hạ tầng nước ta, nhất là hệ thống giao
thông và hạ tầng đô thị, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và là một
trong những điểm nghẽn tăng trưởng.
Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự
phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất,
thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển
đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm
tăng tính hiệu quả nhờ quy mô. Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay
đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương
thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai dự án. Trong điều kiện
nguồn lực có hạn, quyết định của chúng ta không thể dựa vào lòng mong
muốn mà phải lựa chọn cái tốt nhất có thể nhằm giải tỏa nhanh các điểm
nghẽn vận tải, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong thời gian
ngắn nhất.
Thách thức từ 3 đột phá
Trách nhiệm với những thành quả của
đất nước trong 25 năm qua, đứng trước vận mệnh đất nước trong tương lai,
3 đột phá trên thực sự là những thách thức đặt ra đối với chính phủ
trong 5 năm tới. Định hướng cho nhiệm vụ và nội dung trọng tâm mà Thủ
tướng nêu ra khá rõ và nhằm giải quyết những vấn đề căn cơ của bài toán
phát triển trong những năm tới. Nhưng đối chiếu với tình hình thực tiễn,
nếu xây dựng lộ trình cụ thể và định lượng được cho cả ba khâu này thì
lời giải không hề đơn giản, đòi hỏi một sự quyết tâm chính trị rất lớn.
Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội
Tp.HCM, Chuyên gia Kinh tế, TS. Trần Du Lịch phân tích, hình dung thực
hiện 3 đột phá chiến lược, xét về trung và dài hạn, làm sao phải đưa
"con tàu kinh tế Việt Nam" chạy đúng trên đường ray của nó. Ba khâu đột
phá mà Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh, chính là tạo ra đường ray như
vậy. Chưa đặt vấn đề tàu chạy nhanh chậm mà phải đúng đường ray đã, nếu
không thì càng chạy càng sinh chuyện, càng tích tụ khó khăn.
Lấy ví dụ một điểm trong khâu đột phá
thứ nhất là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách
hành chính. Việt Nam đã có hàng chục năm cải cách hành chính, nhưng nền
hành chính liên quan đến thể chế, con người, bộ máy, mà bộ máy liên quan
đến tổ chức nhà nước, đến tổ chức chính quyền các cấp, tức là phụ thuộc
vào Hiến pháp. Vậy theo dự kiến đến giữa nhiệm kỳ mới sửa đổi Hiến pháp
thì đổi mới về thể chế hành chính đã là khó khăn và ảnh hưởng đến tiến
độ.
Liên quan đến khâu đột phá thứ hai -
thực tế là thị trường lao động bất cập trong quan hệ cung - cầu. Nhưng
nếu thay đổi cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng chất lượng cao thì cơ cấu
sản xuất phải được thay đổi tương ứng? Trên thực tế, công nghệ lạc hậu,
công nghiệp chủ yếu là gia công thì nguồn nhân lực chất lượng cao thiếu
động lực phát triển?
Còn về khâu thứ ba là xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung
vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn thì cũng có quá nhiều vấn
đề đặt ra, nhất là sự bất cập về nguồn vốn đầu tư. Đơn cử, tình trạng
đường sắt quá lạc hậu, đường bộ cũng quá tải nghiêm trọng, nguồn vốn thì
có hạn mà kêu gọi theo phương thức BT, BOT hay PPP thì cũng rất hạn
chế. Nếu định lượng hết các vấn đề nêu trên thì trong 5 năm tới nhiệm vụ
của Chính phủ mới thật sự là những thách thức.
Thực tế là 10 năm qua, nền kinh tế
tăng trưởng khá, nhưng cũng tích tụ không ít những khó khăn từ nội tại
của nền kinh tế. Trong những lý do có sự góp mặt của việc thực hiện kế
hoạch một cách không triệt để. Theo phân tích của Chuyên gia kinh tế
Phạm Chi Lan, suốt 4 năm qua, kinh tế Việt Nam luôn trong tình trạng bất
ổn. Ngoại trừ năm 2007, ngay sau khi gia nhập WTO mọi thứ đều thuận
lợi, nhưng những năm sau đó khó khăn chất chồng. Khi kinh tế khó khăn,
Chính phủ đã đưa ra các giải pháp tương đối cơ bản để ổn định vĩ mô,
nhưng quá trình thực hiện chưa triệt để nên hiệu quả chưa cao. Chẳng
hạn, đầu 2008, 8 nhóm giải pháp quyết liệt chống lạm phát, ổn định vĩ mô
được đưa ra, nhưng đến cuối năm khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu
chúng ta lại bắt đầu thiên nhiều hơn về tăng trưởng, để rồi phải đưa ra
các gói kích thích kinh tế hàng tỷ USD, rất lãng phí và hơn nữa đã thủ
tiêu những nỗ lực thắt chặt, bình ổn trước đó.
Năm 2011 cũng vậy, Nghị quyết 11 là ví
dụ điển hình của việc đưa ra giải pháp trúng nhưng chưa được thực hiện
triệt để, hiện mới tập trung nhiều ở lĩnh vực tín dụng. Thực hiện thắt
chặt tín dụng cũng còn méo mó. Lẽ ra cần kiểm soát những lĩnh vực nóng
như bất động sản, chứng khoán. Nhưng chúng ta lại thắt đại trà ở mọi
lĩnh vực, mọi loại hình doanh nghiệp, mọi ngân hàng, cho dù Chính phủ đã
có chủ trương ưu tiên vốn cho nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa
và nhỏ, cho xuất khẩu, để rồi nhiều doanh nghiệp nguy cơ chết oan.
Tự tin nắm bắt cơ hội
Thành tựu đổi mới kết hợp với thực
hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã
mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại
cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Đánh giá về thành công của quá
trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành
tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH
ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới,
về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên
những nét cơ bản”.
Ngoài những thách thức trên, chính phủ
nhiệm kỳ mới còn phải thẳng thắn đối mặt với tham nhũng, bất bình đẳng
xã hội, phân bổ nhóm lợi ích, và đặc biệt là vấn đề chủ quyền quốc gia.
Tuy nhiên, để giải quyết các thách thức của thời cuộc, có lẽ chỉ cần
quay lại những nguyên tắc rất cơ bản của một thể chế tốt. Chúng ta vẫn
nói mong muốn xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong sạch
thì phải minh bạch, thể hiện ở việc mọi quy định đưa ra phải rõ ràng,
không để ai hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai, thực hiện sai. Mong Chính
phủ mới sẽ tăng cường hơn nữa, yêu cầu cao hơn nữa về trách nhiệm của
người đứng đầu trong tất cả các tầng lớp quản lý. Có như vậy mới khôi
phục được lòng tin của dân chúng cũng như cộng đồng nhà đầu tư trong
nước và quốc tế.
Phong Nhi
|