"Tấm gương" xấu
Đây là năm thứ 35 liên tiếp chính
quyền Washington đưa ra "phán xét" việc thực thi quyền con người của các
chính phủ trên toàn cầu bất chấp sự phản đối của nhiều quốc gia trên
thế giới. Nếu bản Báo cáo nhân quyền thường niên của Washington có cả
phần đánh giá về nước Mỹ, không rõ những ngôn từ nào sẽ được họ sử dụng
để mô tả tình hình nhân quyền của mình. Nhưng những tin tức xuất hiện
hàng ngày ngay trên báo chí Mỹ về tình hình tội phạm, giết nguời tràn
lan trong xã hội; việc Chính phủ Mỹ giám sát hoạt động mạng Internet,
ban hành luật mới về nghe trộm điện thoại hồi tháng 7/2008; các vụ cảnh
sát Mỹ lạm quyền và không tôn trọng những quyền cơ bản của 2,3 triệu tù
nhân; những vấn đề về xã hội với con số người vô gia cư ngày càng tăng;…
đã góp phần vẽ nên bức tranh không mấy tươi đẹp về thực trạng nhân
quyền của nước này. Các nước châu Âu cũng thường bị rung động bởi các vụ
việc vi phạm nhân quyền: Từ việc phân biệt đối xử với các nhóm thiểu số
trong xã hội, việc cấm sử dụng khăn trùm đầu đối với phụ nữ Hồi giáo
tại một số nơi cho đến việc thực hiện các chính sách cải tổ bất hợp lý
dẫn đến các cuộc biểu tình rầm rộ của giới công nhân viên chức, gây rối
loạn xã hội,…
Không chỉ vi phạm nhân quyền trong
nước, các nước phương Tây còn đem đến những bất ổn, đau khổ cho người
dân nhiều nước khác. Sau khi Mỹ và Đồng minh gây chiến tại Iraq, hiện
nay, số lượng người chịu thương vong vì bạo lực tại quốc gia này đã vượt
xa giai đoạn những năm cuối cầm quyền của chế độ Saddam Hussein đồng
thời gây nên những tác động tâm lý nặng nề, gây hoảng sợ cho người dân
Iraq. Hàng vạn dân thường Iraq đã thiệt mạng, hầu hết trong số họ chết
do hỏa lực của quân đội Mỹ. Các loại vũ khí bị bày bán tràn lan trong
khi số lượng người tham gia các lực lượng dân quân tự do gia tăng nhanh
chóng. Các loại tội phạm hình sự như bắt cóc, hiếp dâm, trộm cắp lên đến
mức kỷ lục. Số người bị quân Mỹ bắt giam kể từ khi chiến trận nổ ra là
hơn 50.000, vượt xa số lượng tù nhân thời Saddam, nhưng chỉ 1,5% trong
số đó bị kết tội. Tổ chức Ân xá Quốc tế cùng nhiều tổ chức nhân quyền
khác cũng liên tục cáo buộc quân đội Mỹ vi phạm luật nhân đạo quốc tế
một cách tràn lan, bao gồm cả việc thực hiện các hình thức tra tấn và
ngược đãi tù nhân.
Như vậy, nếu Mỹ và phương Tây tự coi
mình là tấm gương về nhân quyền thì có lẽ tấm gương này cần được “lau
rửa” lại kỹ càng hơn nữa.
Tiêu chuẩn kép
Mức độ chú ý của phương Tây đối với
thành tích dân chủ, nhân quyền của một nước thường liên quan mật thiết
đến tầm quan trọng chiến lược của nước đó: Một chế độ đồng minh với
phương Tây với tầm quan trọng chiến lược càng lớn thì càng ít bị phương
Tây chỉ trích về mặt nhân quyền.
Tổ chức Ân xá Quốc tế đã nhiều lần lên
tiếng cáo buộc Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển cố tình phớt
lờ tình trạng vi phạm nhân quyền tạị một số nước Ả-rập đồng minh vì tầm
quan trọng về mặt kinh tế của các vương quốc dầu mỏ này. Theo Tổ chức Ân
xá Quốc tế, bất chấp một loạt các hành động vi phạm nhân quyền như: bắt
giữ tùy tiện, tra tấn, xét xử không công bằng và sử dụng các biện pháp
trừng phạt tàn bạo, các nước Ả-rập trên vẫn chưa hề bị Washington cùng
các Đồng minh áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá về nhân quyền như họ đã áp
dụng với Trung Quốc, Myanmar, Sudan hay nhiều nước khác. Và cho dù có
lên tiếng chỉ trích những nước trên về nhân quyền, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn
luôn sử dụng những lời lẽ hết sức ôn hòa, đồng thời những chính sách
ngoại giao mà Washington áp dụng trên thực tế với các nước đó cũng không
bị ảnh hưởng mấy bởi các nhận xét về nhân quyền nói trên.
Tại Trung Đông cũng như nhiều nơi khác
trên thế giới, chính quyền các nước phương Tây có xu hướng giảm nhẹ
những lời lẽ chỉ trích các nước đồng minh trong lĩnh vực nhân quyền và
thổi phồng các vụ việc vi phạm nhân quyền của các nước đối thủ. Việc áp
dụng tiêu chuẩn kép như trên một lần nữa cho thấy tính chất thiếu khách
quan của các báo cáo, đánh giá về nhân quyền do các nước phương Tây thực
hiện.
Nhân quyền mở cửa cho cái gì?
Theo tính toán của Chính quyền Mỹ,
lượng dầu tiêu thụ của nước này dự kiến sẽ tăng 1/3 trong vòng hai thập
niên đầu của thế kỷ 21. Nhà Trắng đang huy động mọi nguồn lực để tìm
kiếm thêm các mỏ dầu trong nước, thậm chí còn lên kế hoạch mở cửa Khu
bảo tồn Thiên nhiên hoang dã Quốc gia tại vùng Bắc Cực cho ngành công
nghiệp Dầu khí nước mình vào khai thác. Tuy vậy, theo tính toán của
Chính quyền trong bản Báo cáo của Tổ chức Phát triển chính sách Năng
lượng quốc gia (tổ chức do cựu Phó Tổng thống Dick Cheney đứng đầu) vào
tháng 5/2001, mức sản xuất dầu của Mỹ sẽ giảm 12% trong vòng 20 năm đầu
thế kỷ 21. Như vậy, mức độ phụ thuộc của Mỹ vào nguồn dầu nhập khẩu sẽ
tăng lên nhanh chóng, từ mức 1/3 vào năm 1985 đến hơn một nửa hiện nay
và sẽ lên đến mức 2/3 vào năm 2020.
Kể từ thập niên 1970, Hoa Kỳ đã có
những nỗ lực đáng kể nhằm đa dạng hóa các nguồn cung cấp năng lượng cho
họ, sự quan tâm của Washington đã vượt ra ngoài phạm vị các nước OPEC và
Trung Đông và hướng đến các khu vực khác trên thế giới như vùng biển
Caspi, các nước châu Phi như Nigieria, Chad, Angola, các nước tại Tây
Bán Cầu như Canada, Mexico, Venezuela hay các khu vực ngoài khơi Đại Tây
Dương,…
Nhưng có một sự thật không thể phủ
nhận là Trung Đông - mà đặc biệt là khu vực vùng Vịnh - vẫn sẽ là nguồn
cung dầu khí hàng đầu của Hoa Kỳ cũng như của nhiều nước khác trên thế
giới trong tương lai. Bản Báo cáo của Tổ chức Phát triển chính sách Năng
lượng quốc gia Mỹ năm 2001 đã thừa nhận rằng "Dù có tính toán thế nào,
khu vực Trung Đông vẫn là trọng tâm của nền an ninh dầu mỏ thế giới."
Khu vực này hiện chiếm 30% sản lượng và hơn 40% lượng dầu xuất khẩu toàn
cầu. Với nguồn tài nguyên dầu mỏ chiếm khoảng 65% tổng trữ lượng được
biết đến nay trên toàn thế giới, đây là khu vực duy nhất có thể thỏa mãn
được mức độ tiêu thụ đang tăng nhanh trên toàn cầu. Cũng theo bản báo
cáo của Tổ chức Phát triển chính sách Năng lượng quốc gia Mỹ, các nước
xuất khẩu dầu tại vùng Vịnh sẽ cung cấp 54 - 67% lượng dầu xuất khẩu của
thế giới vào năm 2020.
Với cơn khát dầu lửa đang lên đến cao
trào như vậy và vị trí quan trọng chiến lược về mặt năng lượng của vùng
Trung Đông, dĩ nhiên, Mỹ và phương Tây sẽ chẳng ngại ngần chớp lấy mọi
thời cơ và lý do có được để thu phục các chính quyền bất quy phục họ
trong khu vực này, một trong những lý do mà họ có được là nhân quyền.
Sau khi cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 kết thúc, khi những lý do mà Hoa
Kỳ đưa ra trước đó làm căn cứ để tấn công Iraq - gồm những cáo buộc về
mối quan hệ giữa Saddam Hussein với Al Qaeda và việc sở hữu vũ khí hủy
diệt hàng loạt của chính quyền Baghdad - bị cộng đồng quốc tế bác bỏ,
Washington bắt đầu chuyển hướng sang việc nhấn mạnh đến bản chất tàn bạo
của chế độ Saddam Hussein và sự cần thiết phải "xuất khẩu" nền dân chủ
sang đất nước Trung Đông này.
Có một điểm đáng chú ý là khi Hoa Kỳ
đưa quân tới Iraq vào năm 2003, mức độ hà khắc của chế độ Saddam chẳng
là gì so với hồi thập niên 1980, trớ trêu thay, khi đó, chính Mỹ đã
không chỉ từ chối kêu gọi lật đổ Saddam Hussein mà còn cung cấp cho
chính quyền này các khoản hỗ trợ về kinh tế và quân sự để phục vụ cho bộ
máy hà khắc đó. Khi Saddam Hussein sử dụng vũ khí hóa học thảm sát sắc
dân thiểu số người Kurd ở Halabja, chính quyền Washington thậm chí còn
giúp Baghdad che đậy hành động trên bằng cách đổ lỗi cho chính quyền
Iran - kẻ thù của Mỹ trong khu vực.
Việc Washington thay đổi 180o lập
trường của mình về vấn đề nhân quyền của chính quyền Baghdad cốt yếu chỉ
để nhằm phục vụ mục tiêu chính là loại bỏ được Saddam Hussein và thay
thế vào đó là một chính quyền thân Mỹ, giúp Mỹ có lợi thế trong việc
khai thác các nguồn tài nguyên của đất nước này, đặc biệt là dầu mỏ -
dòng máu của nền kinh tế Hoa Kỳ. Nhân quyền, dân chủ lúc đó chính là
cánh cửa giúp nước Mỹ giải thoát khỏi nhiều sự bế tắc, một trong số đó
là bế tắc về năng lượng.
Tất nhiên, về mặt chính thức, chính
quyền Mỹ luôn một mực bác bỏ lý do tấn công Iraq của họ là vì nguồn tài
nguyên dầu mỏ phong phú của nước này. Nhưng trên thực tế, ngay từ trước
khi Chiến tranh Iraq nổ ra, các công ty dầu khí của Mỹ đã tiến hành các
cuộc họp kín với các nhà lãnh đạo đối lập Iraq được Hoa Kỳ hậu thuẫn.
Vào thời điểm đó, Ahmed Chalabi - lãnh đạo Tổ chức Đại hội Quốc gia Iraq
đã phát biểu: "Chính phủ dân chủ tương lai của Iraq sẽ rất vui mừng
trước việc Hoa Kỳ đã giúp đỡ nhân dân Iraq thoát khỏi chế độ Saddam
Hussein" và "Chúng tôi cho rằng các công ty Mỹ sẽ đóng một vai trò quan
trọng hàng đầu đối với nền công nghiệp dầu mỏ của Iraq trong tương lai."
Và cái tương lai mà ông Chalabi nói
đến khi đó có lẽ đã thực sự hiện hữu: Tháng 2/2007, nội các chính phủ
của Thủ tướng Iraq Nuri al-Maliki đã thông qua bản dự thảo Đạo luật dầu
mỏ mới của Iraq. Chính phủ Baghdad mô tả đạo luật này như một "kế hoạch
quốc gia chính yếu" nhưng sự thực là đạo luật đó đã được soạn thảo bởi
một công ty tư vấn của Mỹ do chính quyền của Cựu Tổng thống Bush thuê,
sau đó được chỉnh sửa nội dung bởi Tập đoàn Dầu khí Big Oil - Hoa Kỳ,
Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới do cựu Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ
Paul Wolfowitz đứng đầu và Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ. Như vậy, rõ
ràng đây là một đạo luật của Mỹ chứ không phải của Iraq. Trớ trêu hơn
nữa, công luận Iraq chưa hề được biết đến sự thực này trong khi những
thay đổi quan trọng về mặt luật pháp liên quan đến việc sử dụng nguồn
tài nguyên dầu mỏ của nước này phải được dân chúng thông qua qua các
cuộc trưng cầu dân ý. Chủ quyền của Iraq, ít nhất là về mặt năng lượng
đang nằm trong tay người Mỹ, chiêu bài nhân quyền của Hoa Kỳ trong
trường hợp này đã phát huy tác dụng khá tốt.
Giáo sư Noam Chomsky, một nhà hoạt
động xã hội nổi tiếng của Mỹ, đã từng nhận xét: "Chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ bị chi phối bởi ước vọng tàn nhẫn là kiểm soát được nguồn dầu
lửa tại Trung Đông, bảo vệ những lợi ích chiến lược của họ và bảo đảm
cho những dòng vốn đầu tư của họ được tự do lưu thông". Với Chomsky,
việc quảng bá dân chủ chỉ là câu chuyện "của các nhà tư tưởng và tuyên
truyền" chứ chẳng phải là việc của các chính trị gia, nền dân chủ và
thành tích nhân quyền chỉ được ủng hộ chỉ khi nào nó phù hợp với lợi ích
chiến lược của Mỹ mà thôi.
Trung Nguyên
|