Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

70.Làm gì để người học tìm đến với nhóm ngành khoa học xã hội



11-09-2011
ThS. Trịnh Văn Anh
Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học - Viện Nghiên cứu Giáo dục
Cùng là những môn khoa học được giảng dạy trong các trường phổ thông, nhưng khoa học xã hội hiện nay đã không còn được học sinh xếp "ngồi cùng chiếu" với khoa học tự nhiên. Khối C "trượt giá", ngày một hẻo người học lẫn người thi và việc lựa khối thi này được thế hệ 9x coi như là "chuột chạy cùng sào". Đó là sự thật! Điều gì đã khiến cho người học và xã hội tất tả chạy theo khối A, quay lưng, xa lánh và bỏ rơi một cách không thương tiếc với khối C? Điều gì đã làm cho các ngành khoa học xã hội vốn dĩ rất hấp dẫn, cuốn hút đối với người học cũng như người nghiên cứu về nó, nay thì hoàn toàn ngược lại: người học chẳng muốn học mà người dạy cũng không toàn tâm và toàn ý với nghề mình theo đuổi? Bài nghiên cứu này, chúng tôi xin được đề cập đến thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề nan giải hiện nay: "Chào đón khối A, ‘Buồn ơi chào mi'... khối C"[1].

1. Vài nét về thực trạng học và thi nhóm ngành khoa học xã hội
"Năm nay, kỳ thi ĐH lại chứng kiến sự giảm sút không phanh của lượng hồ sơ khối C và hồ sơ dự thi vào các ngành khoa học xã hội"[2]. Đến hẹn lại lên, vài năm gần đây, khi cận kề mùa thi đại học, người ta đều đọc được cái "tít" như thế trên các trang báo giấy cũng như báo mạng. Quả thật, các ngành khoa học xã hội đang đứng trước nguy cơ và thách thức ở cả đầu ra lẫn đầu vào khi người học ngày càng "quay lưng" với nó và hướng đến mục tiêu chọn khối ngành kinh tế làm hàng đầu. Số lượng thí sinh dự thi vào nhóm ngành khoa học xã hội ngày càng khiêm tốn, teo tóp dần, chuyển hướng thi sang nhóm ngành kinh tế đang vào độ vàng son.
Bảng : Tỷ lệ hồ sơ đăng kí dự thi vào các trường cao đẳng đại học từ năm 2009 - 2011
 
Năm
Khối A (%)
Khối B (%)
Khối C (%)
Khối D (%)
 2009
 51,0
 18,3
8,2
 14,3
 2010
 53,9
 19,8
 7,6
 15,2
 2011
 55,2
19,4
 6,4
15,5
(Nguồn: tuoitre.com.vn)
 
Người học đã thế, ngay chính các trường THPT thuộc khối công lập cũng có sự đối xử khác biệt với các môn khoa học xã hội. Phần lớn, họ tập trung vào những môn phục vụ khối thi A, B và D, bỏ qua những môn thuộc khối C nên chẳng có gì ngạc nhiên khi "nhiều giáo viên ở Hà Nội và TP.HCM nhận xét: mô hình "lớp chuyên C" hiện đã không còn xuất hiện ở một số trường THPT" [3]. Sự định hình khối thi ngay từ đầu những năm học sinh mới đặt chân vào cấp 3, hầu như các em chỉ quan tâm đến khoa học tự nhiên, ít chú ý tới những môn xã hội.
Hệ thống các trường phổ thông ngoài công lập ngoài mục tiêu đạt con số 100% tốt nghiệp, thời gian còn lại, họ tập trung chủ yếu cho ban A. Do vậy, cũng không có gì là khó hiểu khi ở một số trường ngoài công lập có tiếng chỉ chọn đội ngũ giáo viên quản nhiệm (đặc biệt là giáo viên quản nhiệm nội trú) thuộc khối khoa học tự nhiên, mặc dù trong số những "ông cử, bà cử" ấy cũng có một số người được đào tạo chẳng liên quan gì đến nghề làm thầy.
Học trò ngày càng xa lánh với khoa học xã hội. Điều này vô hình chung đã làm phá sản mục tiêu "đào tào con người toàn diện". Như vậy, mục tiêu đào tạo con người toàn diện hiện nay chỉ mang tính hình thức. Số lượng học sinh theo ban KHXH và NV trên cả nước  trong năm học 2006 - 2007 đạt 6,41% nhưng chỉ sau 2 năm, tỷ lệ này giảm xuống còn 2%. Có hơi quá khi kết luận "Chào đón khối A, ‘Buồn ơi, chào mi... khối C" như báo Vietnamnet đăng tin hay không? Nhưng cần thừa nhận đó là sự thật! Chúng ta không thể né tránh thực tế này. Học trò theo khối A như một trào lưu, trong tình hình này, những học sinh có khả năng nghiêng về tự nhiên thì chẳng nói làm gì, đằng này có trò thuộc dạng khá ban C và không khá nổi những ban còn lại cũng cố theo ban A để cho ... hợp thời thế. Bởi vậy, mới có câu chuyện cười ra nước mắt là, có thí sinh nọ nộp hồ sơ dự thi vào ngành kinh tế nhưng lại trúng tuyển vào "hàng không" (Toán: 0, Lý: 0; Hóa: 0; Tổng cộng: 0.0 -  5 số không đứng một hàng nên anh ta đậu "hàng không"). Trình độ chỉ bấy nhiêu, nhưng khi chúng tôi hỏi thì tác giả "5 không" đó vẫn hùng hồn tuyên bố rằng, em sẽ tiếp tục ôn thi đại học thêm một năm nữa. Cậu còn cho rằng, đại học là con đường duy nhất để vào đời nhưng phải là ban A???
Khối C thiếu người học trầm trọng, đó là thực trạng cần phải "báo động đỏ". Một số trường đại học đã cho tuyển sinh khối thi thuộc KHTN vào các ngành thuộc KHXH, trường Đại học KHXH & NV Hà Nội và ĐH KHXH &NV TP. Hồ Chí Minh là ví dụ. Lý giải điều này có ý kiến cho rằng thực tế là chuyên môn của một số ngành học gắn liền với đầu vào khối A. Việc tuyển sinh vừa đáp ứng nhu cầu đầu vào của từng chuyên ngành, vừa tạo thêm cơ hội lựa chọn cho thí sinh, điều nay đúng nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là thiếu người học. Nhiều khoa đã cố gắng trong các khâu tuyển sinh nhưng vẫn thiếu sinh viên, chẳng hạn, "Khoa Tâm lý của ĐH Văn Hiến suốt 12 năm qua chưa bao giờ tuyển đủ chỉ tiêu, mặc dù chỉ tiêu hàng năm chỉ có 70 sinh viên [4]. KHXH ngày càng teo nhỏ hơn so với nhóm ngành khác không chỉ ở quy mô đào tạo mà có những ngành đã bị loại ra khỏi danh sách tuyển sinh.
Một thực trạng nữa rất đáng buồn là kết quả kì thi đại học môn Lịch sử năm 2011 như giọt nước tràn ly đã bộc lộ hết những gì âm ỉ cháy trong lòng bấy lâu nay của xã hội thờ ơ, bàng quan với khoa học xã hội. Một vài con số 0 tròn trịa nằm trong các bài thi môn Lịch sử qua các kì thi đại học chẳng nói lên điều gì, chẳng làm người ta ngạc nhiên, nhưng một kì thi có đến hàng ngàn bài bị điểm 0 và "Hầu hết các trường, tỉ lệ thí sinh đạt điểm thi môn Sử từ trung bình trở lên chỉ chiếm từ 0,3-5%"[5] thì đó lại là một điều hoàn toàn không bình thường. Đó là cú "thôi sơn" trực diện gây "choáng toàn tập" đã buộc các nhà chuyên môn, nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội nói chung phải vào cuộc cùng nhau mổ xẻ, tháo gỡ vấn đề, song đến nay vẫn còn rối như tơ vò.
2. Đâu là nguyên nhân chính?
Có nhiều nguyên nhân khiến cho người học quay lưng xa lánh khối C, nhưng theo chúng tôi thì có 4 nguyên nhân chủ yếu.
Trước hết, đó là vấn đề đầu ra. Những người thi khối C không có nhiều lựa chọn trường thi, ngành thi, nguyện vọng 2, 3 càng xa vời hơn so với các khối thi khác. Đầu vào như thế, đầu ra lại càng gian nan hơn. Thực tế, nhiều cử nhân khoa học xã hội không tìm ra công ăn việc làm, cực chẳng đã họ tự buộc mình vào nghề chẳng giống ai để giải quyết cái ăn, cái mặc sống lây lất tồn tại qua ngày. Xa hơn nữa, cơ hội thu nhập, thăng tiến của họ không nhiều như những người theo khối thi khác.
Xã hội chưa thực sự coi trọng khoa học xã hội nếu không muốn nói là đánh giá quá thấp nó và những người gắn bó với nó. Khi phần hồn của con người bị bỏ đói nhường chỗ cho đồng tiền, vật chất thì khó có thể nói đến sự phát triển bền vững trước mắt cũng như lâu dài. Và, một xã hội văn minh đến đâu nhưng không có sự phát triển hài hòa về văn hóa thì cũng là một xã hội phát triển khập khiễng. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào về mối liên quan giữa khoa học xã hội, bạo lực học đường và tội ác xã hội, nhưng vài năm nay thì có chiều hướng tăng và tăng rất mạnh đến nỗi nhiều bậc cao niên phải thốt lên rằng "xã hội loạn mất rồi (!?)" .
Cách dạy học và chương trình của những môn ban C lại quá khô khan, cứng nhắc, thậm chí nhiều người đi học cứ ngỡ như là học môn chính trị. Khi khoa học XH không còn như bản chất vốn có của nó thì khó có thể hấp dẫn người học cũng như người nghiên cứu về nó. Đánh giá về môn Lịch sử hiện nay, chúng ta hãy nghe vị giáo sư đầu ngành Sử học Đinh Xuân Lâm nhận xét:"Đó không phải là một môn giáo dục, tuyên truyền chính trị thông qua các sự kiện và con số, mà là một môn khoa học với tất cả sự hấp dẫn và khó khăn của nó. Lịch sử cần được nghiên cứu và trình bày một cách khách quan, không thiên kiến thì mới tạo ra sức hấp dẫn được (...). Cần phải viết một bộ SGK Lịch sử theo yêu cầu của thời đại, với tinh thần hòa nhập và đổi mới. Chương trình cũ chỉ thích hợp với một giai đoạn lịch sử nhất định, trong thời chiến tranh mà thôi."[6].
Chương trình vốn dĩ đã khô khan, nặng nề, cộng thêm cấu trúc chương trình có dạng vòng tròn đồng tâm, không gây được hứng thú ở người học. Nhìn lại tổng thể chương trình, chúng ta thấy có sự lặp đi lặp lại theo cấp bậc đào tạo. Đơn cử như, chương trình Địa lý lớp 6 dạy về Địa lý tự nhiên đại cương, lên lớp 10 lại học thêm một lần nữa tuy có sâu hơn, hoặc chương trình lớp 9 cung cấp cho học sinh kiến thức về Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam, lớp 12 học sinh học thêm một lần nữa (có sâu hơn). Món ăn dù có ngon, có lạ, có hấp dẫn mức nào, nhưng ngày nào cũng thưởng thức nó thì điều gì sẽ xảy ra? Tri thức cũng vậy, khi đã biết nhất định về nó rồi thì sẽ vơi đi sự hứng thú, hấp dẫn đối với nó, nhất là với lứa tuổi ô mai hiếu động, thích khám phá những điều mới lạ thì trường học lại càng tránh tình trạng "bội thực  tri thức" ở học sinh.
Đời sống của thầy cô những năm gần đây đã cải thiện đáng kể, nhưng cuộc chạy đua giữa lương và giá vẫn chưa làm họ an tâm cho sự nghiệp trồng người. Cho đến tận bây giờ, mặc dù sắp bước sang quý 4 của năm 2011, song giáo viên vẫn chưa có thể sống được bằng lương! "Có thực mới vực được đạo"- chân lý muôn đời - người thầy cũng là một cơ thể sống nên họ cũng có nhu cầu như bao con người khác. Để đưa hồn vào bài giảng, truyền lửa cho học trò đòi hỏi người thầy phải đầu tư rất nhiều công sức, song họ còn phải "sống", đồng lương chưa thể giúp gia đình thầy cô đủ ăn đủ mặc, đó là chưa kể đến thời "bão giá" như hiện nay. Tuổi trẻ nhiệt huyết, theo thời gian, tuổi đời thêm chồng chất, tuổi nghề ngày một nhiều, kinh nghiệm ngày một dày dặn, nhưng tình yêu dành cho nghề sẽ vơi dần theo sự tụt dốc của đời sống vật chất. Đặc tính của những người học, nghiên cứu, giảng dạy các ngành thuộc KHXH thì "gừng càng già càng cay", song gừng không thể cay hơn khi vấn đề cơm áo gạo tiền đeo bám họ, ghì cuộc đời họ xuống hàng thấp nhất của xã hội. Thực tế, nếu muốn cuộc sống dễ thở hơn thì ông thầy dạy ban C phải giỏi cả hai nghề, nghề tay trái cũng như là tay mặt (nghề phụ, nếu có thể). Kết cục, những bài giảng trở nên nhạt nhẽo, vì thiếu sự đầu tư, hoặc nếu có thì cũng chỉ để đối phó với bệnh thành tích hơn là truyền thụ vì kiến thức cho đám học trò. Và, cuộc sống cơ hàn của những người thầy đã đập vào mắt học trò đó chính là "người thật, việc thật", là "người đương thời" khiến lớp trẻ bám víu vào ban A mong thoát "kiếp nghèo" bỏ rơi khối C. Chúng ta hãy nghe tâm sự của em Nguyễn Thị Thùy, lớp 12 chuyên sử, Trường THPT Chuyên Nguyễn Trãi, giải nhất quốc gia môn Lịch sử, tân sinh viên Trường ĐH Luật Hà Nội[7]: "Thích sử là một chuyện, nhưng khi chọn ngành, em phải chọn nghề mà sau này em có thể nuôi sống bản thân để bố mẹ không phải vất vả xin việc. Em không dám thi vào một ngành mà mình không nhìn thấy đầu ra"
Khối C ngày một hẻo người học lẫn người thi!
3. Làm gì để người học đến với khoa học xã hội?
Một là,  đã vào khối C là có việc làm, điều này có nghĩa là tất cả những người theo học KHXH khi tốt nghiệp đều được bố trí công ăn việc làm.
Sở dĩ người học ngày càng "quay lưng" với KHXH đó là không có đầu ra. Muốn thu hút người học đến với khối C, nhất là những người giỏi thì nhà nước cần tính toán thật kĩ nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của các địa phương, các ngành từ đó định mức đầu vào và đầu ra cho từng ngành đào tạo. Khi chưa thể giải quyết đầu ra cho họ thì sự kêu gọi, tuyên truyền, cổ vũ... cũng chỉ  là vô nghĩa và làm sự việc thêm rối ren trở thành "hề" trong mắt người học, xã hội.
 Về điều kiện để được bố trí việc làm, theo chúng tôi, tất cả những sinh viên tốt nghiệp đạt loại khá trở lên, tất nhiên đó phải là các trường công lập, các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, tốt nghiệp hạng trung bình khá trở xuống thì tự tìm việc, xuất sắc được toàn quyền lựa chọn nơi công tác. Mục đích này nhằm kích thích sinh viên cố gắng học tập, đó cũng là một trong những cách tạo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, học bổng dành cho sinh viên khoa học xã hội phải cao hơn sinh viên theo học ngành khác, đồng thời cách tính thâm niên cho thầy cô dạy những bộ môn khoa học xã hội cũng cần được như thế.
Hai là,phải quan trọng hoá KHXH lên bằng cách:
Theo chúng tôi, thiết thực nhất là thi tốt nghiệp THPT phải 7 môn: Toán, Lý, Hoá, Văn, Sử, Địa, Sinh. Sở dĩ không nên đưa ngoại ngữ là môn bắt buộc vì hiện nay muốn có việc làm, muốn có cuộc sống tốt hơn thì bắt buộc cá nhân đó phải có ngoại ngữ. Khi môn học trở thành nhu cầu cuộc sống có quan hệ mật thiết với sự nghiệp, đường tiến thân thì bắt buộc người ta phải học, phải tự học và đương nhiên ngoại ngữ là môn học suốt đời dưới nhiều hình thức. Thực tiễn cho thấy, các trung tâm ngoại ngữ mọc lên như nấm sau mưa đâu có ai ép buộc phải mở ra để nâng cao dân trí, để buộc học sinh phải vào đó học thêm đối phó với thi cử mà ở đây là vì nhu cầu, người học tự tìm đến. Giả sử, bên cạnh trung tâm Anh ngữ, nếu ai đó mở thêm Trung tâm Lịch sử, Địa lý hay Văn học cạnh tranh với trung tâm kia thì điều gì xảy ra?
Với cách thi tốt nghiệp như hiên nay, những môn khoa học xã hội thực sự chỉ có thể cảm thấy được gọi là cần thiết, được coi trọng khi những môn đó được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào danh sách thi tốt nghiệp THPT. Có thể khắc phục tình trạng trên bằng cách, nội dung thi tốt nghiệp các môn KHXH phải bao gồm kiến thức của lớp 11 và 12 và học đâu thi đó không giới hạn chương trình. Điều này cũng nhằm mục đích tạo điều kiện cho giáo viên đào sâu kiến thức, có thời gian giảng giải để học sinh hiểu sâu hơn, hấp dẫn hơn.
Ba là,đổi mới chương trình và phương pháp dạy học
Đưa KHXH về đúng vị trí xưa nay là yêu cầu bước thiết hiện nay. Điều này có nghĩa là cần biên soạn lại chương trình sao cho đó là một môn khoa học thực sự phục vụ cho học tập và cho nghiên cứu chứ không thể là môn tuyên truyền cho mục đích khác. Học sinh sẽ rất chán và rất ngán khi biết trước kết cục trận đánh kiểu "ta thắng địch thua" và nhiệm vụ còn lại là nhớ xem bao nhiêu xe tăng cháy, máy bay rơi, quân địch bị tiêu diệt... KHXH là môn rất hấp dẫn không hề khô cứng, nếu nó được trả lại vị trí đúng nghĩa.
KHXH không còn nhận được sự mặn mà từ học sinh, sinh viên nữa là vì cấu trúc chương trình theo vòng tròn đồng tâm đã tạo ra sự nhàm chán trong cách dạy học của giáo viên. Vì vậy, biên soạn cấu trúc chương trình nên tránh sự lặp lại như thế để tạo sự hấp dẫn cho người học. Người học cần được học những mảng kiến thức cơ bản nhất, quan trọng nhất và luôn cảm thấy thú vị với những điều mới lạ, hấp dẫn trong mỗi bài học để từ đó có khả năng tự nghiên cứu kiếm tìm tri thức trên cơ sở kiến thức đã có. Kiểu học máy móc "thuộc lòng" buộc phải nhớ không còn phù hợp với thời hội nhập, toàn cầu hoá, với thời công nghệ thông tin phát triển như vũ bảo hiện nay vì chỉ một cái "lick" chuột và hỏi ông "google" là có tất cả các thông tin cần thiết và đa chiều.
Bốn là, hiền tài là nguyên khí quốc gia, ở đây hiền tài chính là những người thầy giỏi, tâm huyết. Và xã hội cũng khó có thể đòi hỏi, kì vọng gì hơn ở người thầy mà ở đó thiếu sự chăm lo về vật chất cũng như tinh thần. Muốn có nhà tư tưởng lớn, nhà hiền triết thì ngay từ bây giờ, Nhà nước cần bù đắp sự thiếu hụt trên cho người thầy, để người thầy chuyên tâm vào bài giảng, hướng đến học trò, để người thầy không phải tất tả cắp cặp chạy sau khi tan trường! Do vậy, chúng tôi thiết nghĩ, Nhà nước cần nâng lương cho giáo viên đến mức họ tự sống bằng nghề là việc làm vô cùng ý nghĩa hiện nay!
KHXH đang đứng trước khó khăn thách thức về chỗ đứng trong lòng người dân Việt. Đây là dấu hiệu của sự phát triển thiếu ổn định cho kinh tế xã hội nước nhà. Chúng ta cần nhìn thẳng vào thực trạng để từ đó tháo gỡ vướng mắc. Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân, chúng tôi đưa ra bốn giải pháp với mong muốn đưa người học tìm đến với KHXH.
Tài liệu tham khảo
[7].http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/34203/-con-do-chuyen-su--em-xau-ho-voi-co-quan--.html