MỸ - NGA : Sự lợi hại của NATO | ||||
Sự khởi đầu sai lầm
Đầu năm 1992, Tổng thống Yeltsin thăm
trại David và gặp Tổng thống George H.W. Bush. Yeltsin đặt nhiều hy vọng
vào tương lai quan hệ Mỹ-Nga. Trước đó, Gorbachev đã từng gây được cảm
tình với phương Tây nhờ các chương trình Perestroika và glasnost (chủ
trương công khai và minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước,
đồng thời khuyến khích tự do thông tin), mở cửa đất nước, tạo cơ hội cho
phát triển dân chủ và kinh tế thị trường. Yeltsin muốn "trội" hơn
Gorbachev, quyết định ủng hộ dân chủ, kinh tế thị trường, ủng hộ phương
Tây mạnh mẽ hơn nhằm lôi kéo sự ủng hộ của Mỹ.
Lúc đó Yeltsin đề nghị Bush tuyên bố
Mỹ và Nga là đồng minh chứ không chỉ là quan hệ "hữu nghị và đối tác".
Bush bác bỏ đề nghị này và giải thích rằng "chúng tôi sử dụng cụm từ này
nhằm tránh hiểu lầm rằng mọi vấn đề giữa hai nước đã được giải quyết".
Mặc dù Bush để lỡ mất cơ hội xích lại gần hơn với Yeltsin, người mà ông
chưa bao giờ tỏ ra thân thiện như với Gorbachev. Nhưng tâm lý thời chiến
tranh Lạnh (CTL) không tồn tại quá lâu trong những năm 1990 kể cả ở Đồi
Capital và Điện Kremlin và đương nhiên không tồn tại trong quan hệ giữa
Clinton và Yeltsin. Clinton không theo đuổi chính sách CTL mới. Trong
khi về phía Nga, nếu duy trì tâm lý thời CTL thì họ đã xây dựng một hệ
thống các nhà nước trung gian nhằm làm đối trọng với phương Tây và hủy
hoại trật tự thế giới do Mỹ chi phối; trên thực tế Yeltsin lại ủng hộ
độc lập của các nước thuộc Liên Xô cũ và không phản đối các nước này có
quan hệ gần gũi với Mỹ và phương Tây.
Cách tiếp cận của Mỹ
Chính sách đầu tiên của Mỹ đối với các
nước thuộc Liên Xô cũ được Bush đưa ra vào tháng 5/1989, khi đó Tổng
thống Bush kêu gọi nỗ lực xây dựng "Một châu Âu thống nhất và tự do".
Thời điểm đó, không có chiến lược cụ thể nào được đưa ra để thực hiện
nhiệm vụ này, nhưng trong suốt những năm 1990, chính sách của Mỹ gồm 3
yếu tố chính: 1. Hội nhập Trung và Đông Âu vào các thể chế phương Tây;
2. Chấm dứt nạn diệt chủng tại Balkan; 3. Bắt tay với Nga.
Chính sách hướng Đông của NATO hầu như
không có tiến triển gì thêm cho đến khi Clinton nhậm chức năm 1993.
Liên minh quân sự này đã nhanh chóng thúc đẩy các nỗ lực xây dựng quan
hệ với Trung và Đông Âu. Tại Hội nghị thượng đỉnh NATO ở Brussels tháng
1/1994, Clinton và lãnh đạo các nước khác thuộc NATO đã tuyên bố chương
trình "Đổi quan hệ đối tác lấy hòa bình" (PfP), áp dụng với tất cả các
nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ, kể cả Nga. PfP được thực thi
nhằm xây dựng quan hệ quân sự vững mạnh với niềm tin rằng cơ quan quân
sự là thể chế có nhiều khả năng nhất ngăn công cuộc cải cách tại các
nước này trong quá trình chuyển đổi.
Khi lần đầu được nghe nói về chương
trình này, trong cuộc gặp với Ngoại trưởng Mỹ Christopher (10/1993),
Yeltsin yêu cầu Mỹ đảm bảo rằng quan hệ đối tác không có nghĩa là kết
nạp các nước thuộc Liên Xô cũ vào NATO. Christopher đáp: "Đương nhiên là
không! Thậm chí quy chế quan sát viên cũng không." Yeltsin phấn khởi
nói rằng "Đây là một ý tưởng tuyệt vời, một ý tưởng thiên tài". Hầu như
ông không lo ngại gì khi Christopher nói thêm "Vào thời điểm thích hợp
chúng tôi sẽ xem xét yêu cầu quy chế thành viên này, nhưng đó là chuyện
sau này".
Vì thế, Yeltsin đã bị sốc khi Mỹ bắt
đầu thúc đẩy chiến lược mở rộng NATO (mùa thu năm 1994), mặc dù Clinton
biết rõ rằng ông không làm gì có hại cho Yeltsin trước thềm cuộc bầu cử
tháng 7/1996. Khi Yeltsin tái đắc cử thì cũng là lúc chiến lược của Mỹ
bắt đầu tăng tốc. Năm 1997, NATO mời Ba Lan, Hungary và Czech tham gia
tổ chức này và sau đó 2 năm, ba nước này chính thức tham gia Liên minh
đúng dịp kỷ niệm 50 năm thành lập...
Câu thần chú "Một châu Âu thống nhất
và tự do" của Bush được Clinton lặp lại bằng điệp khúc "Một châu Âu hòa
bình, không chia rẽ và dân chủ". Cuối cùng khẩu hiệu này phát triển
thành một phần của chiến lược tổng thể: nỗ lực đem lại hòa bình cho
Balkan. Tháng 11/1995, các cuộc không kích của NATO, cuộc tấn công quân
sự của Croatia cùng nỗ lực đàm phán của đặc phái viên Mỹ Holbrooke dẫn
tới sự ra đời của Thỏa ước Dayton, chấm dứt cuộc chiến tại Balkan.
Ba năm sau, Chính quyền Clinton bắt
đầu chuẩn bị cho một cuộc xung đột khác, lần này là với S.Milosevic nhằm
ngăn chặn nạn diệt chủng tại Kosovo. Sau khi đàm phán không đem lại kết
quả, tháng 3/1999, lần đầu tiên trong lịch sử, NATO tham chiến và 78
ngày sau họ đã thành công với việc buộc nhà lãnh đạo Serbia phải đầu
hàng.
Tuy nhiên, những nỗ lực đó đã để lại
những hậu quả khá nặng nề trong việc đạt được mục tiêu thứ 3 của chiến
lược - Nỗ lực bắt tay với Nga và hòa nhập nước này vào thế giới phương
Tây.
Bắt tay với Nga
George H.W. Bush không mặn mà với
Yeltsin nhưng Clinton thì ngược lại. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với
Yeltsin tại Vancouver tháng 4/1993, Clinton đã đưa ra một gói trợ giúp
lớn dành cho Nga. Khi Yeltsin tiến hành cuộc tấn công quân sự đối với
các lực lượng chống đối trong Quốc hội Nga cuối năm 1993, Clinton đã
toàn tâm ủng hộ. Đối với Clinton, cải cách của Nga không chỉ là ưu tiên
về an ninh quốc gia mà đây còn là một phương tiện để giảm ngân sách quốc
phòng của Mỹ, tăng cường tài chính cho các chương trình trong nước.
Một châu Âu hòa bình, không chia rẽ và
dân chủ trong suy nghĩ của Clinton bao gồm cả Nga. Tháng 1/1994, sau
khi dự Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Brussels và dừng chân tại Prague,
Clinton thăm Mátxcơva nhằm chứng minh rằng ông không loại Mátxcơva ra
khỏi chính sách đối ngoại của mình.
Thật không may, thời gian đã cho thấy
chính sách của Mỹ đối với châu Âu có sự chồng chéo về mục đích. Clinton
biết rằng việc mở rộng NATO là liều thuốc đắng đối với Yeltsin. Điều đó
không chỉ giải thích vì sao quá trình mở rộng NATO lại chậm lại cho tới
sau khi cuộc bầu cử Tổng thống Nga diễn ra tháng 7/1996 mà còn còn giải
thích vì sao Mỹ lại mời Nga tham gia G8. Clinton nghĩ rằng việc dành cho
Yeltsin một vị trí ngang hàng với lãnh đạo các nước lớn khác sẽ giúp
làm dịu cú đấm của việc mở rộng NATO. Ông cũng hiểu rằng người Nga rất
tức giận với chính sách của Mỹ tại Balkan, vì thế ông ủng hộ Bộ trưởng
Quốc phòng Perry giúp Nga tham gia Lực lượng Hành động do NATO dẫn đầu
(IFOR) - Lực lượng được thành lập để gìn giữ hòa bình sau khi Thỏa ước
Dayton được ký tháng 11/1995.
Clinton cố gắng thuyết phục Yeltsin
rằng cả chính sách mở rộng NATO và chính sách của ông tại Balkan đều
không nhằm chống lại Nga. Thậm chí ông còn nói với Yeltsin rằng NATO có
thể mở rộng cửa chào đón Nga. Trước khi NATO chính thức mời Ba Lan,
Hungary và Czech tham gia, Clinton và các cộng sự của đã thành lập Hội
đồng Thường trực chung (tiền thân của Hội đồng Nga-NATO) tháng 5/1997,
nhằm chứng minh rằng Mỹ có xem xét tới lợi ích của Nga.
Bất chấp việc Yeltsin có xem NATO là
mối đe dọa với Nga hay không, dù Clinton có nói gì về chính sách của
mình thì việc mở rộng NATO cũng có tác động tiêu cực tới quan hệ Mỹ-Nga.
Người Nga cho rằng họ bị phản bội bởi vì tháng 2/1991, Ngoại trưởng Mỹ
Baker đã nói với Gorbachev rằng NATO sẽ không mở rộng về phía Đông dù
chỉ một inch; sau đó, tháng 10/1993, Ngoại trưởng Mỹ Christopher đã
thuyết phục Yeltsin tin rằng Nga hoàn toàn có thể triệt tiêu ý tưởng mở
rộng NATO. Tuy nhiên, việc người Nga có cảm thấy bị phản bội hay không
không quan trọng bằng một sự thật hiển nhiên: Mỹ quá mạnh so với Nga nên
Mỹ không thể ngừng chiến lược mở rộng NATO của mình. Lợi ích chính trị
của Mỹ sẽ bị đe dọa nếu các nước Trung Âu không tham gia NATO - Một biểu
tượng của tình đoàn kết xuyên Đại Tây Dương.
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/HoSo/2010/9/4938D3B3654617C8/
|