GS-TSKH Nguyễn Mại
Xuất khẩu 8 tháng ước đạt 60,8 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh: C.C
(baodautu.vn) Mặc dù đang đối mặt với
những thách thức rất lớn cả trong và ngoài nước, song với những thành
tựu đã đạt được, tiềm lực kinh tế và vị thế quốc tế ngày càng được củng
cố, kinh tế Việt Nam sẽ sớm vượt qua khó khăn để tiếp tục tăng trưởng
cao.
Khi nghĩ về viễn cảnh kinh tế Việt Nam, tai tôi vang vọng
tiếng nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta,
đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945:
“Một
dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước
tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Dân
tộc Việt Nam đã giành thắng lợi vĩ đại thống nhất đất nước trong cuộc
trường kỳ kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài 30 năm, trải qua những
bước thăng trầm trong công cuộc xây dựng kinh tế, năm 2010 đã đặt chân
vào hàng ngũ các nước thu nhập trung bình (thấp), có vị thế ngày càng
cao trong khu vực và thế giới, đang hướng đến mục tiêu trở thành nước về
cơ bản công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Thế giới: “bóng ma” khủng hoảng kinh tế mới
Chúng
ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa kinh tế thế giới, sự thịnh
vượng của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tình hình quốc tế đang
biến động khó lường trước. Nhận thức đúng và có hành động ứng xử kịp
thời với mọi biến động trên thế giới là vấn đề có tầm quan trọng sống
còn đối với dân tộc.
Khi
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 với hy vọng gắn lợi thế của đất nước
với lợi thế của khu vực để nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và bền
vững, nhưng chỉ 2 năm sau đó, năm 1997, cuộc khủng hoảng tiền tệ trong
khu vực đã tác động tiêu cực, làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế từ
mức trung bình hàng năm 8,2% thời kỳ 1991- 1997, xuống 6% giai đoạn
1998- 2004.
Tiếp
theo, khi kinh tế nước ta được phục hồi, tăng trưởng trung bình gần
8,5%/năm từ năm 2005 đến 2007, thì cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã
làm tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta giảm còn bình quân 6%/năm từ năm
2008 đến nay.
Năm
2010, kinh tế thế giới được phục hồi với nhiều dự báo khá lạc quan, thì
từ đầu năm 2011, “bóng ma” của khủng hoảng kinh tế mới đã xuất hiện,
với những dấu hiệu ngày càng rõ rệt hơn. Trong đó, nợ công nổi lên như
một vấn đề thời sự quốc tế. Mỹ, nền kinh tế đứng đầu thế giới vừa trải
qua nỗi sợ hãi vỡ nợ quốc gia, gây ra phản ứng dây chuyền đến kinh tế
của nhiều nước khác. Vào giờ chót, Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đã tìm
được tiếng nói chung đối với giải pháp nâng trần nợ công của nước này.
Tuy vậy, Mỹ vẫn bị đánh tụt hạng từ AAA xuống AA+, tác động không nhỏ
đến trạng thái nợ công và trái phiếu chính phủ.
Không
chỉ có Mỹ, nợ công còn là vấn nạn của nhiều nước trên thế giới. Tạp chí
Business Week đưa ra danh sách 10 nước có tỷ lệ nợ/GDP ở mức nguy hiểm
trong năm 2010, đó là Iceland (310%), Nhật Bản (227%), Hy Lạp (124%),
Italy (120,1%), Mỹ (99,3%), Ấn Độ (88,9%), Bồ Đào Nha (84,6%), Đức
(84,5%), Ireland (82,9%) và Pháp (82,6%).
Liên
minh châu Âu (EU), với sự đồng hành của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đã
đưa ra 2 gói cứu trợ khẩn cấp dành cho Hy Lạp, tổ chức nhiều hội nghị bộ
trưởng tài chính, thống đốc ngân hàng và nguyên thủ các nước thành
viên... để đưa ra các giải pháp ứng cứu nhằm ngăn ngừa “hiệu ứng đô mi
nô” của cuộc khủng hoảng nợ công.
Trong
khi đó, khủng hoảng dầu mỏ cũng đang đe dọa tăng trưởng kinh tế thế
giới. Sự biến động giá dầu năm 2011 có thể coi là cuộc khủng hoảng dầu
mỏ gắn với bất ổn về chính trị tại Trung Đông và Bắc Phi. Giá dầu có lúc
đã vượt ngưỡng 100 USD/thùng. Nhiều dự báo cho rằng, nếu cuộc khủng
hoảng chính trị ở khu vực này kéo dài thì giá dầu có thể tăng thêm 40 -
50 USD/thùng.
Dầu mỏ trở thành vấn đề nhạy cảm về chính trị và kinh tế. Từ 1970 đến nay, thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng dầu mỏ.
Ngày
17/10/1973, Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã quyết định
ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu để phản đối các
nước đó ủng hộ Israel trong cuộc xung đột giữa Israel với Ai Cập và
Syria. Giá dầu mỏ từ 3,01 USD/thùng ngày 16/10/1973 tăng gần 3 lần, lên
12 USD/thùng vào giữa 1974.
Cuộc
cách mạng của Cộng hòa Hồi giáo Iran năm 1979 làm cho ngành công nghiệp
dầu mỏ của nước này bị sụt giảm nghiêm trọng, kéo theo giảm lượng cung
dầu mỏ thế giới, do Iran chiếm 17% tổng sản lượng của OPEC. Trong vòng
12 tháng, giá dầu từ 15,85 USD lên 39,5 USD/thùng.
Từ
năm 1981 đến 1986, do tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công
nghiệp khá thấp, tiêu thụ dầu mỏ của thế giới giảm hơn 13%, giá dầu từ
35 USD/thùng năm 1981 xuống dưới 10 USD/thùng năm 1986.
Cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1990 kéo theo cơn sốt dầu mỏ trong 9 tháng, với giá tăng gấp đôi, từ 17 USD lên 36 USD/thùng.
Năm
2001, kinh tế toàn cầu suy giảm cộng thêm sự kiện khủng bố quốc tế tại
Mỹ ngày 11/9/2001 làm cho mỗi thùng dầu chỉ còn 20 USD, giảm 35% so với
năm trước.
Năm 2007 – 2008, do USD mất giá, giá dầu leo thang lên gần 100 USD/thùng.
Giá
vàng liên tiếp lập những kỷ lục mới do tác động của suy thoái kinh tế
thế giới, có thời điểm vượt quá 1.800 USD/oz, hiện dao động trong khoảng
1.740 - 1.760 USD/oz. Tâm lý lo sợ giá cả leo thang, đồng tiền biến
động, thị trường chứng khoán lên xuống thất thường đã làm vàng trở thành
kênh đầu tư quan trọng. Chiến lược gia Katherine Klingensmith thuộc
Hãng UBS Wealth Management Research khuyến cáo: “Chúng tôi đang thuyết
phục mọi người đưa vàng vào danh mục đầu tư của họ như một phần của
chiến lược đa dạng hóa các mặt hàng”.
Ngày
15/8/2011, nhân dịp 40 năm ngày Tổng thống Mỹ Richard Nixon xóa bỏ chế
độ bản vị vàng (được duy trì từ Thỏa thuận Bretton Woods năm 1944, quy
định tỷ lệ cố định 35 USD/oz), trong khi giá vàng liên tục phá các kỷ
lục, tiền giấy mất giá, nhiều chuyên gia kinh tế lại nghĩ đến việc trở
lại chế độ bản vị vàng như trước năm 1971. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới
(WB) Robert Zoellick cho rằng, các nền kinh tế hàng đầu thế giới nên cân
nhắc áp dụng lại chế độ bản vị vàng trên cơ sở có điều chỉnh, để định
hướng cho tỷ giá giữa các đồng tiền… Đã đến lúc, thế giới cần một hệ
thống tỷ giá mới, thay thế cho hệ thống tỷ giá thả nổi mà ông gọi là
“Bretton Woods II”.
Thị
trường chứng khoán toàn cầu đã rơi vào trạng thái ảm đạm. Tuần đầu
tháng 8/2011 đã xuất hiện làn sóng bán tháo cổ phiếu của các nhà đầu tư
tài chính để chuyển sang vàng, làm thị trường vốn toàn cầu mất khoảng
2.500 tỷ USD, mức giảm tương đương tháng 8/2008. Các định chế tài chính
thế giới, Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7) đưa ra giải pháp ứng
cứu và trấn an dư luận, nhưng chưa có dấu hiệu tích cực khi lòng tin của
nhà đầu tư đã giảm. Thậm chí, nhiều người đã đưa ra câu hỏi: liệu có
thêm một tháng 8 đen tối nữa không, bởi trong lịch sử kinh tế thế giới,
tháng 8 thường là thời điểm không tốt lành đối với các thị trường tài
chính.
Tổ
chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) kêu gọi các nước cứu
trợ khẩn cấp hàng chục triệu người đang lâm vào cảnh thiếu đói, đã có
cả triệu người chết đói ở nhiều nước Châu Phi do mùa màng thất bát,
không có thu nhập, giá lương thực leo thang.
Những
cuộc bạo loạn gần đây ở Anh thêm một lời cảnh báo về tình trạng bất ổn
xã hội do nạn thất nghiệp gia tăng, khoảng cách về thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư nới rộng thêm, sự phản kháng của người dân đối với chính
phủ ngày càng nhiều.
Nhiều
nhà kinh tế thế giới đã cảnh báo các chính phủ về cuộc khủng hoảng kinh
tế mới, tình trạng kinh doanh ế ẩm của các doanh nghiệp, việc thắt chặt
chi tiêu gia đình, giảm tiêu dùng cá nhân, tâm lý tích trữ tiền và hàng
còn kéo dài, nếu không có giải pháp ứng cứu hữu hiệu. Wall Street
Journal cho rằng, để thoát khỏi trạng thái suy giảm hiện tại thì mỗi
quốc gia phải dựa vào nội lực là chính; chính phủ phải đưa ra các giải
pháp kích thích tăng trưởng kinh tế, chứ không thể trông chờ vào bên
ngoài.
Việt Nam: thách thức và viễn cảnh
Đầu
năm 2011, Đảng ta công bố Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-
2020 và Kế hoạch 5 năm 2011- 2015 với những mục tiêu đầy tham vọng, thì
tình trạng lạm phát cao liên tục trong 8 tháng đầu năm là thách thức
lớn. CPI tháng 8 tăng 0,93% so với tháng 7 làm cho chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) của 8 tháng tăng 15,68% so với tháng 12/2010 và tăng 23,2% so với
cùng kỳ năm trước, kéo theo cơn sốt lãi suất, đồng tiền mất giá, nhiều
doanh nghiệp lao đao khi giá đầu vào tăng.
Lạm
phát cao nếu chỉ là của năm nay đã là nguy hiểm, nhưng còn nguy hiểm
hơn khi những năm gần đây cứ lặp đi lặp lại với tần số có vẻ nhanh dần.
Năm 2008, lạm phát cao có nguyên nhân chủ yếu do bơm ra thị trường một
lượng tiền đồng lớn để mua hơn 9 tỷ USD. Lạm phát năm nay còn cao hơn,
có nguyên nhân giá cả thế giới, nhưng chủ yếu là sự lúng túng trong việc
đối phó với thị trường, là việc bảo vệ bằng mọi giá cho Vinashin, đầu
tư công dàn trải, hoạt động kém hiệu quả của các tập đoàn kinh tế nhà
nước...
Thị
trường bất động sản khá ảm đạm, đến cuối tháng 6/2011, dư nợ của các
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trên 222.000 tỷ đồng, tương đương
11 tỷ USD, trong đó có nhiều khoản nợ quá hạn với lãi suất 24 - 25%/năm,
cộng thêm lãi quá hạn đã làm cho không ít doanh nghiệp rơi vào trạng
thái “khóc dở, mếu dở”; 70% doanh nghiệp bất động sản buộc phải “ bán
tháo” bằng nhiều cách như khuyến mãi, hạ giá, nhưng chưa có tín hiệu
tích cực.
Thị
trường chứng khoán diễn biến theo chiều hướng tiêu cực, với 5 phiên
liên tục giảm điểm trong tuần thứ hai của tháng 8, VN-Index mất thêm
16,96 điểm (4,2%), HNX- Index giảm hơn 2,5 điểm (3,68%), chỉ số của cả
hai sàn giao dịch ở Hà Nội và TP.HCM đang có xu hướng giảm, chưa có dấu
hiệu hồi phục; không ít công ty đầu tư chứng khoán đóng cửa hoặc giảm
nhân công; nhiều nhà đầu tư chuyển sang thị trường vàng để bảo toàn vốn.
Chưa bao giờ ở nước ta lại có hiện tượng dòng người xếp hàng mua bán
vàng ở các cửa hiệu tư nhân dài như những ngày đầu tháng 8/2011, với tâm
lý lo sợ đồng tiền mất giá thêm, giá vàng thế giới tiếp tục tăng, nên
cất trữ vàng là kênh an toàn nhất.
Mặc
dù nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn trong mức độ an toàn, nhưng cũng cần
cảnh báo về xu hướng tăng dần và đã ở mức khá cao, khi vào cuối năm 2010
là 32,5 tỷ USD, bằng 42,2% GDP, tăng 4,6 tỷ USD so với 2009. Năm 2010,
ngân sách nhà nước phải trả nợ nước ngoài 1,67 tỷ USD, trong đó lãi và
phí trên 616 triệu USD, tăng gần 30% so với mức 1,29 tỷ USD năm 2009.
Mặc
dù từ tháng 7 năm 2010 đến nay, Hãng đánh giá tín nhiệm Fitch Ratings
vẫn xếp hạng B+ đối với nước ta về khả năng trả nợ nước ngoài, đánh giá
cao nỗ lực của Chính phủ thể hiện qua Nghị quyết 11/NQ-CP với chủ trương
thắt chặt tiền tệ - tài khóa để giảm lạm phát, nhưng cũng cảnh báo sẽ
xem lại mức tín nhiệm của Việt Nam, nếu tình trạng lạm phát cao kéo dài,
những bất ổn trong hệ thống ngân hàng vượt qua tầm kiểm soát.
Liên
quan đến tín nhiệm của Việt Nam là tình trạng cấp tín dụng so với GDP
đến mức 125% và nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam cuối năm 2010 là
2,5% (nếu áp dụng tiêu chuẩn quốc tế còn cao hơn nhiều), gây ra mối quan
ngại về năng lực quản lý nợ khi các ngân hàng phải chạy đua huy động
vốn bằng cách nâng lãi suất.
Hoạt
động của các tập đoàn kinh tế nhà nước từ lâu đã trở thành vấn đề cần
giải quyết, nhưng xem ra vẫn chưa có giải pháp thích hợp. Tại Kỳ hợp thứ
8, Quốc hội khóa XII, nhiều đại biểu Quốc hội yêu cầu thanh tra toàn bộ
hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước để tránh vết xe đổ
Vinashin, trong đó điển hình là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Thanh
tra Chính phủ đã phát hiện EVN có nhiều sai phạm trong việc cổ phần
hóa, yêu cầu EVN báo cáo Thủ tướng về việc xử lý số tiền hơn 756 tỷ đồng
thu được từ việc cổ phần hóa các đơn vị thành viên mà tập đoàn này đã
tạm ứng cho các dự án đầu tư. Việc đầu tư ngoài ngành của EVN chiếm
7,22% vốn đầu tư và 4,82% tổng vốn chủ sở hữu. EVN đang có các khoản nợ
rất lớn, trong đó của PetroVietnam và Vinacomin là 6.600 tỷ đồng, của
Điện lực Hiệp Phước là 36 triệu USD (khoảng 756 tỷ đồng). EVN còn chịu
lỗ tính đến 31/12/2010 là 17.000 tỷ đồng.
Hiệu
quả thấp của việc sử dụng vốn đầu tư, nhất là đầu tư công, cũng là căn
bệnh chưa có bài thuốc hữu hiệu, mặc dù Nghị quyết 11/NQ-CP coi cắt giảm
đầu tư công là giải pháp quan trọng chống lạm phát, nhưng có lẽ, cái
khó là khi đã có chủ trương đúng đắn thì thái độ “thông cảm, nhân
nhượng” của lãnh đạo các bộ đã làm cho việc thực hiện không đưa lại kết
quả như mong đợi.
Tình hình kinh tế nước ta trong 8 tháng đầu năm 2011 đã xuất hiện những tín hiệu tích cực.
-
Nông nghiệp được mùa, xuất khẩu nông – lâm - thủy sản tăng khá cao so
với cùng kỳ năm trước, đã có những chuyển động theo hướng tích cực trong
tổ chức sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp. Trong nông nghiệp
là kết hợp giữa doanh nghiệp với nông dân trong cung ứng giống mới,
canh tác theo quy trình khoa học (lúa, vải thiều, cây ăn trái khác), nên
nông dân bán được giá cao, xuất khẩu với chất lượng sản phẩm ổn định.
Trong đánh bắt xa bờ là lập các nhóm hỗ trợ nên đưa lại hiệu quả cao do
đi biển dài ngày. Trong lâm nghiệp là khoán hộ chăm sóc và bảo vệ rừng
với diện tích lớn hơn và mức kinh phí được nâng lên hợp lý.
-
Kim ngạch xuất khẩu 8 tháng ước đạt 60,8 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng
kỳ năm trước, mức tăng cao nhất từ trước tới nay. Nhập siêu là 6,2 tỷ
USD, bằng 10,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.
-
Du lịch quốc tế tiếp tục phát triển, lượng khách nước ngoài đến Việt
Nam trong 8 tháng hơn 3,96 triệu lượt người, tăng 14,8% so với cùng kỳ
năm trước, dự báo cả năm đạt trên 5,8 triệu lượt khách, doanh thu khoảng
5,2 tỷ USD.
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy vốn đăng ký thấp, chỉ bằng 74%, nhưng
vốn thực hiện đạt trên 7,25 tỷ USD, xấp xỉ mức cùng kỳ năm trước, trong
điều kiện vốn đầu tư trong nước sụt giảm, nhiều công trình bị tạm dừng
hoặc giãn tiến độ.
-
Lĩnh vực tài chính - tiền tệ có dấu hiệu tích cực, như tỷ giá hối đoái
tương đối ổn định trong vài tháng gần đây sau khi chủ động phá giá tiền
đồng, tăng thêm dự trữ ngoại hối, thu ngân sách vượt dự kiến.
Cần
nhấn mạnh rằng, để đối phó với những thách thức và hướng tới mục tiêu
của chiến lược phát triển mới, hiện tại, nước ta có điều kiện trong nước
và quốc tế tốt hơn nhiều so với đầu thế kỷ XXI.
Tiềm
lực kinh tế của đất nước đã tăng lên rõ rệt. Năm 2010, GDP theo giá
thực tế là 1.980.000 tỷ đồng, tăng 4,4 lần so với năm 2000 (441.000 tỷ
đồng). Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2000 là 30,1 tỷ USD, trong
đó xuất khẩu là 14,5 tỷ USD; các con số tương ứng của năm 2010 là 156,9
tỷ USD (gấp 5,21 lần) và 72,2 tỷ USD (gấp 4,97 lần). Tổng vốn đầu tư xã
hội theo giá thực tế tăng từ 151.180 tỷ đồng năm 2000 lên 830.270 tỷ
đồng năm 2010, bằng 5,5 lần (theo Niên giám Thống kê 2010).
Quan
hệ quốc tế của nước ta với các nước trong khu vực đã được cải thiện rõ
rệt, ASEAN đang hướng tới một cộng đồng vào năm 2015 với sự đóng góp
ngày càng có hiệu quả của Việt Nam. Nước ta là thành viên của các định
chế tài chính quốc tế như IMF, WB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO); có quan hệ thương mại, đầu tư với hầu
khắp các nước; quan hệ chính trị với các cường quốc và nhiều nước ở các
châu lục được nâng cấp, một số nước đã trở thành đối tác chiến lược.
Viễn
cảnh kinh tế Việt Nam tùy thuộc vào kết quả chống lạm phát trong những
tháng còn lại của năm 2011. Trên cơ sở các giải pháp định hướng của Nghị
định 11/NQ-CP, cần đề ra chủ trương và giải pháp cụ thể đối với từng
ngành, từng lĩnh vực, dựa vào kiến nghị của các loại hình doanh nghiệp,
hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, giao cho từng nhóm chuyên gia lựa
chọn từ những kiến nghị đó trình Chính phủ để ban hành kịp thời chủ
trương thích hợp.
Các
giải pháp kiềm chế lạm phát gắn với chính sách thắt chặt tiền tệ, tài
khóa phải từ định hướng chung, nhưng không cào bằng; phải ứng xử đối với
từng ngành, từng lĩnh vực bằng giải pháp riêng để giải quyết khó khăn;
kích thích sản xuất và mở rộng kinh doanh. Đối với sản xuất công nghiệp,
cần có chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp, bởi chỉ cần có
thêm vốn là tăng được giá trị sản lượng và kim ngạch xuất khẩu vì đã có
thị trường và đơn đặt hàng. Đối với đầu tư bất động sản, cần xem xét
từng loại dự án để có thêm những công trình được hoàn thành, đưa vào sử
dụng, góp phần giải quyết khó khăn chung. Đối với các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu là các khoản tín dụng để xây dựng công nghiệp phụ trợ như
ngành may mặc, dày dép đang thực hiện và tín dụng xuất khẩu để giải
quyết nhu cầu vốn trước mắt và các vấn đề cơ bản đối với từng ngành kinh
tế.
Lịch
sử Việt Nam từ khi chuyển sang kinh tế thị trường đã minh chứng rằng,
việc đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8% mà không có
lạm phát cao là một thực tế, do vậy sau khi giải quyết được bài toán lạm
phát, thì các giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng vào mục
tiêu tăng trưởng với tốc độ cao, chất lượng, hiệu quả và bền vững, nhanh
chóng khắc phục các nhược điểm gắn với cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư,
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và điều hành của bộ máy nhà
nước.
Nhân
dân đặt niềm tin và hy vọng Quốc hội và Chính phủ mới tập trung vào
việc thúc đẩy nhanh hơn cải cách thể chế, cải cách nền hành chính quốc
gia; thay đổi cơ bản phương thức xây dựng luật pháp, chính sách, không
để các bộ làm thay cơ quan lập pháp; thay đổi cơ bản phương thức điều
hành kinh tế vĩ mô phù hợp với vai trò và chức năng nhà nước trong kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế; đổi mới quản lý nhà nước, hình thành
cơ cấu bộ máy hành chính có hiệu năng với đội ngũ công chức đủ đạo đức
và năng lực quản lý nhà nước.
Không
đánh giá thấp những khó khăn và thách thức, nhưng cũng cần nhận thức
đúng thành tựu to lớn, tiềm lực kinh tế, vị thế quốc tế của dân tộc Việt
Nam thì mới vững tin vào viễn cảnh của đất nước trong một thế giới đầy
biến động.
http://baodautu.vn/portal/public/vir/baivietkinhtedautu/repository/collaboration/sites%20content/live/vir/web%20contents/chude/kinhtedautu/chinhsachvimo/2606215e7f00000101c224c309f4b3a3