Sự
gia tăng nạn di cư khu vực và liên lục địa làm gia tăng nguy cơ xung
đột xuyên biên giới; làm suy thoái bản sắc cá nhân và tập thể; đặt vấn
đề quy chế của người di cư trở nên gay gắt hơn. Những tiến triển trên sẽ
trở thành cơ hội cho một số nước (lợi ích dân số), trở thành thách thức
(kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh) mà các nước khác phải vượt qua,
làm cho việc quản lý các vùng lãnh thổ (sức ép lên nguồn tài nguyên, đô
thị hóa gia tăng, xu hướng lấn biển…).
Những
thách thức trên có nguy cơ làm gia tăng căng thẳng, nguy cơ đối đầu
giữa các Nhà nước. Theo các chuyên gia, có bốn xu hướng chính của
sự phát triển dân số thế giới:
1. Dân số thế giới tăng, làm mất cân bằng giữa các khu vực
Từ
nay đến năm 2040, dân số thế giới sẽ tăng gần 29%, đạt 8,9 tỉ dân so
với 7 tỉ ngày nay. Tốc độ tăng này sẽ gây mất cân bằng giữa các khu vực,
phản ánh mức độ gia tăng dân số tự nhiên của các nước đang phát triển
(sẽ đạt 7,5 tỉ dân so với 5,6 tỉ dân hiện nay). Bức tranh tổng quan tăng
trưởng dân số sẽ bao quát một khu vực rộng lớn trải dài từ châu Phi Nam
Sahara đến bán đảo Arập, Afghanistan, Pakistan và Bắc Ấn Độ.
Theo
đó, khu vực châu Phi Nam Sahara sẽ ghi nhận mức tăng dân số nhanh nhất
(tăng 90% từ nay đến năm 2040) trong khi châu Á vẫn sẽ là khu vực đóng
góp mức dân số bổ sung hàng đầu (hơn 1,1 tỉ người). Châu Mỹ Latinh và
Caribe sẽ đạt mức tăng trưởng thấp hơn, đóng góp thêm 145 triệu dân.
Ngược lại tại đa số các nước phát triển ghi nhận tỷ lệ sinh thấp, sẽ tác
động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng tự nhiên.
Tại
châu Âu (gồm cả Nga) ghi nhận tỷ lệ sinh đạt 1,74 trẻ em/phụ nữ. Chỉ số
này thấp hơn mức ngưỡng đổi mới dân số đề ra là 2,1 trẻ em/phụ nữ. Tuy
nhiên xu hướng này phản ánh những bối cảnh khác nhau. Pháp và Anh vẫn
tiếp tục hưởng mức tăng trưởng dân số năng động nhất. Mỹ vẫn tiếp tục
đạt mức tăng trưởng dân số tương đối nhờ tỷ lệ sinh cao và nguồn nhập cư
quan trọng (1,5 triệu người nhập cư mới trong năm 2010 và sẽ đạt mức 2
triệu người nhập cư/năm trong 30 năm tới).
Ngay
nay, ¼ trẻ em trên thế giới sinh ra đều ở châu Phi Nam Sahara trong khi
lục địa này chỉ chiếm 12% dân số thế giới. Từ nay đến 2050, dân số của
tiểu lục địa này có thể tăng gấp đôi, đạt 2 tỉ dân. Sự hoàn thành giai
đoạn chuyển tiếp dân số, được bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 và kết thúc vào
năm 2040, là thách thức chính cho sự ổn định và phát triển của lục địa
này. Tăng trưởng dân số tại châu Phi tăng cao trong bối cảnh dân số lịch
sử thấp và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Xu hướng tăng dân số này là
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế với điều kiện các xã hội liên
quan có khả năng tận dụng nguồn vốn nhân lực và đầu tư vào các cơ sở hạ
tầng (giáo dục, y tế, giao thông…) và giảm thiếu các cuộc xung đột liên
quan (căng thẳng cộng đồng về các loại hình nông nghiệp/chăn nuôi, phân
chia nguồn nước, môi trường sinh thái suy thoái…).
2. Năm 2040, nhân loại sống nhiều ở các nước đang phát triển
Dân
số đông lên từ các nước mới nổi và đang phát triển sẽ được khẳng định
vào năm 2040. Châu Á và châu Phi tập trung 78% dân số thế giới (so với
75% hiện nay). Ngược lại, dân số các nước phát triển sẽ tiếp tục suy
giảm (14,5% trong 30 năm tới so với 19% hiện nay). Cấu trúc sức mạnh dân
số sẽ được thay đổi do sự chênh lệch tốc độ tăng trưởng tự nhiên giữa
các nước mới nổi và phát triển một phần cũng như riêng trong số các nước
mới nổi phần khác.
Trong
tương lai 2040, Ấn Độ (1,65 tỉ dân ) sẽ dẫn đầu về cường quốc dân số,
sẽ vượt Trung Quốc (1,36 tỉ dân ). Brasil và Nga sẽ ghi nhận những xu
hướng khác nhau. Brasil sẽ có dân số tăng đạt 224 triệu người so với 195
triệu hiện nay. Nga sẽ đối mặt với một sự suy giảm dân số gia tăng, từ
143 triệu dân hiện nay giảm xuống chỉ còn 130 triệu dân. Về phần mình,
Mỹ (383 triệu dân năm 2040 so với 315 triệu dân hiện nay) sẽ phải theo
đuổi chính sách để trách kịch bản của châu Âu (537 triệu dân năm 2040 so
với 541 triệu dân hiện nay).
3. Dân số già tác động tới tất cả các lục địa
Một
hiện tượng chưa từng có trong lịch sử, đó là loài người đang già đi. Do
có cùng xu hướng kéo dài tuổi thọ và đẻ ít, độ tuổi trung bình sẽ ở mức
36,3 tuổi vào năm 2040 so với 29 hiện nay. Độ tuổi dân số già hơn 60
tuổi sẽ tăng từ 11% hiện nay lên 19% vào năm 2040. Tốc độ dân số cấp
toàn cầu này do ý thức sinh đẻ và giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Hiện
tượng này sẽ tác động tới toàn bộ các khu vực, song diễn ra nhanh hơn
tại các nước đang phát triển hơn là các nước phát triển.
Trong
khi đó, giai đoạn 2005-2040, số lượng những người độ tuổi thứ 4 (hơn 80
tuổi) đã tăng gấp đôi quy mô quốc tế và sẽ tăng gấp ba tại các nước
đang phát triển, nơi dân số già đang trở thành một thách thức tại các
nước thiếu hệ thống an sinh như Ấn Độ và Trung Quốc. Trung Quốc, nơi tỷ
lệ dân số dân số hoạt động/dân số già có nguy cơ giảm từ 10 năm 1993
xuống 2 năm 2040 và có khả năng dân số sẽ “già trước khi trở nên giàu
có”. Với một độ tuổi trung bình từ 30 năm 1950 lên 40 ngày nay, các xã
hội châu Âu đã ngay lập tức phải đối mặt với một dân số già đi nhanh
chóng.
Trong
30 năm tới, hiện tượng này có thể sẽ nhiều hơn và kéo dài hơn dự báo
của 20 năm qua. Nếu tỷ lệ sinh thấp như hiện nay tiếp tục kéo dài, dẫn
đến dân số tiếp tục giảm. Sự đảo ngược tháp tuổi về bản chất sẽ gây thâm
hụt dân số gia tăng, tăng sức ép lên ngân sách công và thay đổi những
thói quen kinh tế (ít chấp nhận rủi ro, tham gia nhiều hơn vào các lĩnh
vực an sinh…). Thách thức này có thể kìm hãm sự phát triển của một số
nước mới nổi, nhất là Trung Quốc, nước có nguy cơ chứng kiến tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm dưới 6% vào năm 2040.
4. Mất cân bằng nam, nữ
Trong
một hệ thống bình đẳng hoàn hảo giữa nam và nữ, nhất là trong tiếp cận y
tế, những năm qua chứng kiến số lượng nữ giới giảm trong dân số thế
giới khoảng 100 triệu người, đặc biệt tại một số nước châu Á (Trung
Quốc, Pakistan, Ấn Độ, Bangladesh, Hàn Quốc, Đài Loan) và vùng
Capcado (Gruzia, Armenia, Azerbaijan).
Châu
Á là lục địa duy nhất có lượng nam giới đông (51%) do các vụ phá thai
có chủ đích nhằm lựa chọn giới tính và tỷ lệ nữ chết cao do thiếu chăm
sóc y tế và chết non. Sự tăng dân số bất thường này sẽ từng bước suy
giảm vào năm 2040; tuy nhiên gây không ít hậu quả cho xã hội, nhất là
với số dân ở lứa tuổi trưởng thành.
Ngoài
ra, vấn đề cân bằng giới tính (quyền tiếp cận giáo dục, chăm sóc y tế,
quy chế xã hội, nghề nghiệp…) sẽ là một thách thức cấu trúc trong những
thập kỷ tới, nhất là tại các nước đang phát triển, nơi thiếu vắng những
tiến bộ trong cải thiện điều kiện cho phụ nữ. Đây cũng sẽ có thể là một
sự kìm hãm phát triển và tái thiết cho các các nước đang phát triển và
phát triển./.