20:54' 29/6/2012
“Sức mạnh thông minh” và “Thế kỷ Thái Bình Dương” Một loạt các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương dồn dập, mang tính biểu tượng cao tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma và Ngoại trưởng Mỹ H. Clin-tơn trong 2 tháng cuối năm 2011(1) có thể được xem là “cú ra đòn” quyết định trong nỗ lực chuẩn bị liên tục gần ba năm của chính quyền B. Ô-ba-ma nhằm xây dựng, thử nghiệm và công bố chiến lược đối ngoại được gói gọn trong hai luận điểm cơ bản, nổi bật nhất: sức mạnh thông minh và thế kỷ Thái Bình Dương (hay nói cách khác, là sự chuyển hướng trọng tâm chiến lược của Mỹ sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương). Hai luận điểm này đã được Ngoại trưởng Mỹ H. Clin-tơn và Cố vấn an ninh quốc gia T. Đô-ni-lơn (Tom Donilon) đề cập trực tiếp và giải thích rõ(2). Luận điểm thứ nhất là nền tảng, bao trùm; luận điểm thứ hai là sự cụ thể hóa, mang tính trọng tâm, trọng điểm; hai luận điểm đó bổ sung, đan xen lẫn nhau. Chiến lược đối ngoại này được xây dựng trên ba trụ cột “chân kiềng” là kinh tế, an ninh chiến lược và giá trị dân chủ, nhân quyền, nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược của Mỹ là củng cố, duy trì địa vị siêu cường, lãnh đạo toàn cầu trong thế kỷ XXI. Xuất phát từ mục tiêu xuyên suốt được đặt ra từ giữa thế kỷ XX về địa vị của Mỹ trên thế giới, chính sách đối ngoại có tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình nghị sự của các tổng thống Mỹ nói chung và Tổng thống B. Ô-ba-ma nói riêng. Có thể nói không quá rằng, Tổng thống B. Ô-ba-ma đã “đặt cược” tương lai chính trị của mình vào chiến lược đối ngoại này trước cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ trong năm 2012.
Hình
dung một cách tương đối, quá trình xây dựng, định hình chiến lược đối
ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma diễn ra qua hai giai đoạn chính với sự
đóng góp rất lớn của “công trình sư” H. Clin-tơn. Lộ trình này mang tính
sắp đặt chủ quan, mặc dù cũng bị tác động bởi những nhân tố khách quan
do sự xoay chuyển tình hình ngoài dự đoán của Mỹ. Giai đoạn một bắt đầu
từ nhiệm kỳ của Tổng thống B. Ô-ba-ma đến trước Diễn đàn khu vực ASEAN
17 (ARF 17), khi Ngoại trưởng H. Clin-tơn lần đầu tiên chính thức giới
thiệu tư tưởng “sức mạnh thông minh” và tầm nhìn của Mỹ về cấu trúc khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, từng bước thăm dò, thử nghiệm áp dụng,
triển khai rộng khắp trên toàn thế giới với trọng tâm là những khu vực
Mỹ có lợi ích chiến lược, như Trung Đông, châu Á - Thái Bình Dương (đặc
biệt ở Đông Nam Á). Những diễn biến tại ARF 17 được xem là “thiên thời”
để Mỹ xoay chuyển và củng cố vị thế, hình ảnh của mình ở khu vực, đánh
dấu sự khởi đầu giai đoạn hai đẩy mạnh triển khai, cụ thể hóa hai nội
hàm chủ đạo của học thuyết, tiến tới hoàn thiện và công bố học thuyết
với thế giới trước chiến dịch ngoại giao rầm rộ vào tháng 11 và đầu
tháng 12-2011.
“Sức mạnh thông minh” - cách tiếp cận mới
Tư
tưởng “sức mạnh thông minh” được Mỹ đưa ra trong bối cảnh cả thế và lực
của siêu cường toàn cầu này đang trên đà suy giảm. Năm 2009, nền kinh
tế Mỹ và nền kinh tế thế giới ở vào thời điểm khó khăn nhất trong một
thập niên trở lại đây. Tổng thống B. Ô-ba-ma phải đương đầu với những
thách thức rất lớn khi thừa hưởng một di sản nặng nề của vị tổng thống
tiền nhiệm có uy tín thấp kỷ lục trong lịch sử do “thành tích đối ngoại”
của mình.
Thực
tế này buộc chính quyền B. Ô-ba-ma phải có cách tiếp cận mới, thực dụng
hơn để tối ưu hóa nguồn lực có hạn, khôi phục thế giảm sút, tăng cường
hợp tác quốc tế để đối phó hiệu quả hơn với các “điểm nóng” và nhiều
nguy cơ an ninh phi truyền thống, khắc phục di sản của nền ngoại giao
nặng về hành động quân sự và đơn phương. Ngay trong diễn văn nhậm chức,
Tổng thống B. Ô-ba-ma nhấn mạnh: “Sức mạnh của chúng ta tăng lên thông
qua việc sử dụng nó một cách thông minh”(3). Cũng ngay trong điều trần bổ nhiệm ngoại trưởng trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện(4),
Ngoại trưởng H. Clin-tơn đã giới thiệu tư tưởng chủ đạo trong chính
sách đối ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma là xây dựng và triển khai nền
ngoại giao mới dựa trên việc sử dụng, kết hợp hiệu quả tất cả các công
cụ, nguồn lực sẵn có của nước Mỹ, như ngoại giao, kinh tế, quân sự,
chính trị, pháp luật, văn hóa... Bà H. Clin-tơn gọi đó là việc sử dụng
“sức mạnh thông minh” theo phương châm linh hoạt, thực tế, có nguyên
tắc, với ngoại giao là công cụ chủ chốt, tiên phong; sức mạnh quân sự là
nền tảng mang tính răn đe và là giải pháp cuối cùng.
Khái
niệm “sức mạnh thông minh”, tuy không mới về mặt học thuật, nhưng trở
nên mới khi được H. Clin-tơn vận dụng để xây dựng cơ sở lý luận cho
chiến lược đối ngoại mà chính quyền B. Ô-ba-ma sẽ theo đuổi. “Sức mạnh
thông minh” thường được giải thích khá linh hoạt theo hai khía cạnh: một là, việc sử dụng, kết hợp sức mạnh một cách thông minh, khôn ngoan nhất; hai là,
một dạng sức mạnh mới được tạo ra từ sự kết hợp hiệu quả giữa “sức mạnh
cứng” và “sức mạnh mềm” của một quốc gia. Cách hiểu thứ nhất chủ yếu
liên quan tới việc hoạch định chính sách nhằm khai thác tối đa sức mạnh
vật chất (cứng) và phi vật chất (mềm) của một quốc gia để đạt mục tiêu
chính sách ở mức tối đa với chi phí tối thiểu. Cách hiểu thứ hai cho
rằng “sức mạnh thông minh” là dạng sức mạnh có được do kết hợp từ “sức
mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. Ngoại trưởng H. Clin-tơn thiên về cách
hiểu này. Khái niệm “sức mạnh thông minh” thường được vận dụng trong bối
cảnh không thuận lợi về thế và lực của quốc gia. Nhìn lại quá trình
hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma
hơn ba năm qua, có thể thấy sự khôn khéo của Mỹ được thể hiện qua một
số phương diện sau:
Thứ nhất,
bản thân việc đầu tư, tập trung xây dựng một chiến lược đối ngoại với
đầy đủ cơ sở lý luận, thực tiễn cùng tầm nhìn dài hạn, đã là một sự lựa
chọn thông minh, khôn ngoan, một mũi tên trúng nhiều đích của chính
quyền B. Ô-ba-ma nhằm “ghi điểm” trước bầu cử, củng cố đồng thuận nội
bộ, phân bổ hợp lý và huy động tối đa nguồn lực bên trong, gửi thông
điệp chính sách nhất quán ra bên ngoài...
Thứ hai,
về mặt thể chế, “sức mạnh thông minh” báo hiệu mối quan hệ cân bằng hơn
giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ nói riêng, và sự phối hợp chặt
chẽ giữa Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành, giữa Chính phủ và Quốc hội Mỹ
nói chung. Đó là lý do, lần đầu tiên, Bộ Ngoại giao Mỹ, 4 năm 1 lần,
công bố Báo cáo về ngoại giao và phát triển (QDDR) vào tháng 12-2010,
trong đó nhấn mạnh vai trò tiên phong của ngành ngoại giao trong chủ
trì, phối hợp liên ngành hướng tới mục tiêu chung là xây dựng sức mạnh
thông minh của Mỹ.
Thứ ba,
“sức mạnh thông minh” còn thể hiện ở sự lựa chọn mục tiêu chiến lược.
Về dài hạn, mục tiêu xuyên suốt của Mỹ không thay đổi, vẫn là duy trì
địa vị siêu cường toàn cầu và ngăn không cho một quốc gia nào có khả
năng cản trở Mỹ đạt mục tiêu này. Tuy nhiên, trên thực tế, thế và lực
của Mỹ không phải lúc nào cũng thuận lợi cho thực hiện mục tiêu đó.
Nguồn lực hiện tại không cho phép Mỹ căng trải sức và cam kết quá mức ở
tất cả các khu vực trên toàn cầu. Bên cạnh việc cơ cấu lại quân đội và
hiện đại hóa quốc phòng, sự lựa chọn mang tính thực tế của chính quyền
B. Ô-ba-ma là sắp xếp lại ưu tiên khu vực chiến lược, giảm bớt cam kết,
chi phí nguồn lực ở Trung Đông (nơi từ lâu đã trở thành con “át chủ bài”
và “thể diện” đối ngoại của nhiều đời tổng thống Mỹ), thay đổi cách
tiếp cận đối với nguy cơ chủ nghĩa khủng bố để dần thoát khỏi “vũng lầy”
di sản của người tiền nhiệm, chuyển hướng trọng tâm sang châu Á - Thái
Bình Dương, quay trở lại Đông Nam Á và tăng cường vai trò lãnh đạo, dẫn
dắt xây dựng cấu trúc khu vực, tận dụng cơ hội và hóa giải một cách hiệu
quả và thông minh nhất nguy cơ từ sự trỗi dậy mạnh mẽ, toàn diện của
Trung Quốc.
Thứ tư,
việc xác định đúng ưu tiên/trụ cột đối ngoại cũng tạo nên “sức mạnh
thông minh”, hay nói cách khác, đó là sự phân bổ nguồn lực hợp lý nhất,
phục vụ lợi ích của Mỹ hiệu quả nhất trong bối cảnh mới. Ba chân kiềng
truyền thống trong chính sách đối ngoại của Mỹ có quan hệ biện chứng với
nhau và thứ tự ưu tiên giữa chúng có thể thay đổi tùy thuộc vào hoàn
cảnh lịch sử, trong đó, hai trụ cột đầu tiên là nền tảng, thường trực,
trụ cột thứ ba thường mang tính bổ trợ, xúc tác, điều tiết quan hệ, làm
giảm áp lực nội bộ.
Đối
với chính quyền B. Ô-ba-ma, có thể khẳng định, chương trình nghị sự
kinh tế đối nội và đối ngoại là ưu tiên, trụ cột số một trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính từ Mỹ lan ra toàn cầu vẫn đang diễn
biến hết sức phức tạp, chưa có hồi kết. Trong báo cáo QDDR, Bộ Ngoại
giao Mỹ xác định trọng tâm công tác của Bộ và các cơ quan đại diện ở
nước ngoài là kinh tế đối ngoại và ngoại giao kinh tế (5).
Thứ năm,
nguồn lực hạn chế và ngân sách bị thu hẹp đòi hỏi Mỹ phải “thông minh”
trên hai phương diện trong việc chọn lựa, sử dụng các công cụ triển
khai. Một là, sử dụng hiệu quả, thông minh nhất những công cụ sẵn
có, từ ngoại giao, kinh tế, thương mại, văn hóa, đến quân sự, pháp lý,
viện trợ..., trong đó, nhóm công cụ “mềm” với hạt nhân là ngoại giao
được ưu tiên hơn nhóm công cụ “cứng”. Công cụ quân sự chỉ được sử dụng
khi các biện pháp “mềm” không còn tác dụng. Hai là, san sẻ trách
nhiệm, huy động thêm nguồn lực từ bên ngoài qua kênh song phương, đa
phương để tối đa hóa hiệu quả của các công cụ, biện pháp trong việc giải
quyết các điểm nóng an ninh, các vấn đề an ninh phi truyền thống đang
nổi lên ngày càng gay gắt. Việc quyết định chọn lựa loại hình và mức độ
sử dụng công cụ được xuất phát từ những lợi ích quốc gia cụ thể của Mỹ
và tính toán cân đối lợi hại, hơn là kiên trì, quyết tâm theo đuổi những
giá trị, lý tưởng một cách phiến diện, thậm chí mù quáng. Tư duy thực
dụng, linh hoạt này được phản ánh qua tính chất hai mặt trong
triển khai chính sách đối ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma, như chính
sách tự do hóa thương mại pha trộn yếu tố bảo hộ; bảo vệ đồng minh trong
chính sách dân chủ, nhân quyền; và vai trò xúc tác, điều tiết quan hệ
của nhóm biện pháp về dân chủ, nhân quyền để bổ trợ phục vụ cho các lợi
ích về kinh tế, thương mại và an ninh.
Thứ sáu,
việc chọn lựa sử dụng công cụ phải gắn liền với phương thức triển khai
để tạo nên “sức mạnh thông minh”. Các phương thức được chính quyền B.
Ô-ba-ma sử dụng trong nhiệm kỳ vừa qua thể hiện tinh thần ôn hòa, thực
tế, hợp tác nhưng vẫn giữ được những giá trị, nguyên tắc căn bản của
chính sách đối ngoại Mỹ. Có hai đặc điểm đáng chú ý là: đề cao phương
thức đa phương hơn đơn phương, phối hợp nhịp nhàng giữa song phương và
đa phương; đề cao vai trò nền tảng của giá trị, quy tắc, luật lệ (trong
đó có cả luật pháp quốc tế) trong triển khai các trụ cột đối ngoại là
kinh tế, an ninh chiến lược và dân chủ, nhân quyền.
Thông điệp “Thế kỷ Thái Bình Dương”
Bài
phát biểu về chính sách “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ” của Ngoại
trưởng H. Clin-tơn vào tháng 11-2011, ngay trước thềm chiến dịch ngoại
giao cao điểm nhất và quyết định nhất trong lộ trình xây dựng, định hình
chiến lược đối ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma suốt thời gian qua(6),
có thể được xem là thông điệp chính sách đối ngoại quan trọng cuối cùng
của chính quyền B. Ô-ba-ma trước năm bầu cử 2012 đầy bận rộn; là tuyên
bố rõ ràng về sự vận dụng nhất quán luận điểm “sức mạnh thông minh” ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong con mắt của chính quyền B.
Ô-ba-ma, châu Á - Thái Bình Dương có tầm quan trọng hàng đầu đối với
tương lai thịnh vượng và an ninh của nước Mỹ vì hai lý do chính: vai trò
đầu tàu kinh tế năng động, đầy tiềm năng của khu vực đối với thế giới;
nhân tố Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, toàn diện với ảnh hưởng dần
vươn ra ngoài khu vực. Nhiều nhà phân tích đánh giá đây không chỉ đơn
thuần là sự chuyển hướng chiến lược từ Trung Đông sang châu Á - Thái
Bình Dương mà còn là sự điều chỉnh lớn, sâu rộng và dài hạn về chính
sách an ninh quốc gia, góp phần hình thành nên học thuyết Ô-ba-ma. Tham
vọng này được Ngoại trưởng H. Clin-tơn khẳng định rõ trong phát biểu
“Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”: Mỹ đã gắn kết với khu vực trong 60 năm
qua và sẽ tiếp tục gắn kết với khu vực trong 60 năm tới.
Chính
quyền B. Ô-ba-ma đã vạch ra lộ trình, từ đưa ra ý tưởng, thử nghiệm
thăm dò với từng loại đối tượng và vấn đề, đến hoàn thiện chiến lược
chuyển hướng. Lấy tư tưởng “sức mạnh thông minh” làm chủ đạo, xuyên
suốt, Ngoại trưởng H. Clin-tơn đã khởi động quá trình triển khai học
thuyết bằng chuyến công du đến Đông Nam Á tháng 7-2009 với một loạt phát
biểu phác thảo tầm nhìn của Mỹ về cấu trúc khu vực tháng 1-2010: về vấn
đề dân chủ, nhân quyền (trong thông điệp chính sách chung về tự do
in-tơ-nét nhân sự kiện Trung Đông - Bắc Phi, tháng 1-2010); về vai trò
của Mỹ trong liên kết kinh tế khu vực tháng 7-2011 (chuẩn bị cho Hội
nghị cấp cao APEC 19); về quan hệ Mỹ - Trung Quốc (tháng 1-2011) trước
thềm chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, và cuối cùng là
bài phát biểu mang tính tổng kết, định hướng chiến lược khu vực tổng thể
(tháng 11-2011). Cam kết mạnh mẽ của Mỹ ở khu vực được tăng thêm đáng
kể qua phương thức ngoại giao nguyên thủ với các chuyến công du đều đặn
mỗi năm một lần của Tổng thống B. Ô-ba-ma đến các nhóm đối tác trong khu
vực.
Thông
điệp “Thế kỷ Thái Bình Dương” được chính quyền B. Ô-ba-ma tính toán
công bố vào thời điểm tương đối thuận lợi về đối ngoại, nhất là khi Mỹ
đã gặt hái được một số thành quả đối ngoại quan trọng trên cả ba trụ
cột, góp thêm đà thuận lợi cho chiến dịch tái cử của Tổng thống B.
Ô-ba-ma vào năm 2012. Đó là: bắt đầu lộ trình rút quân khỏi
Áp-ga-ni-xtan từ cuối năm 2011 đến năm 2014, và rút quân hoàn toàn khỏi
I-rắc vào ngày 18-12-2011; tham gia tích cực vào quá trình định hình cấu
trúc khu vực thông qua mạng lưới quan hệ song phương (nổi bật là chính
sách “quay trở lại Đông Nam Á”) và các cơ chế đa phương với vai trò
trung tâm của ASEAN (với việc Tổng thống B. Ô-ba-ma lần đầu tiên dự Cấp
cao Đông Á tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a); xác lập và đưa vào ổn định khuôn
khổ quan hệ mới với Trung Quốc (nguyên thủ hai nước thăm nhau và giữa
hai nước duy trì hơn 400 cơ chế đối thoại); khẳng định vai trò lãnh đạo
kinh tế khu vực thông qua chủ trì thành công Hội nghị cấp cao APEC 19
tại Ha-oai và thúc đẩy các vòng đàm phán TPP; đẩy mạnh chính sách dân
chủ, nhân quyền qua chuyến thăm lịch sử đến Mi-an-ma của Ngoại trưởng
H.Clin-tơn.
Trong
thông điệp “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”, Ngoại trưởng H. Clin-tơn
khẳng định tầm quan trọng chiến lược, lâu dài của khu vực này đối với
kinh tế và an ninh của Mỹ. Trong xu thế chuyển dịch quyền lực từ Tây
sang Đông, Mỹ nói không với chủ nghĩa biệt lập; cam kết tiếp tục đầu tư
cho vai trò lãnh đạo ở Thái Bình Dương như đã từng làm ở Đại Tây Dương,
bất chấp khó khăn kinh tế và thắt chặt ngân sách trong nước. Ngoại
trưởng Mỹ nhấn mạnh sự chuyển hướng chiến lược này không có nghĩa là Mỹ
lơ là nhiệm vụ, lợi ích ở các khu vực khác, mà từ nay Mỹ sẽ can dự có
chọn lọc hơn dựa trên những tính toán lợi ích cụ thể.
Trên
tinh thần “sức mạnh thông minh” lấy ngoại giao làm mũi nhọn đột phá,
hướng tới mục tiêu xây dựng một trật tự khu vực, chiến lược khu vực của
Mỹ được triển khai xoay quanh sáu trọng tâm: củng cố các liên minh an
ninh song phương; tăng cường quan hệ hợp tác với các cường quốc mới nổi,
bao gồm cả Trung Quốc; tham gia các cơ chế đa phương khu vực; mở rộng
thương mại và đầu tư; mở rộng sự hiện diện quân sự; thúc đẩy dân chủ,
nhân quyền(7). Có thể thấy cách tiếp cận đa tầng nấc, đa lớp
này khá linh hoạt, thực dụng, chú trọng hiệu quả hợp tác hơn là quy mô;
xây dựng quan hệ đối tác, chia sẻ trách nhiệm hơn là nắm ngọn cờ lãnh
đạo hay cung cấp “ô an ninh”.
“Sức mạnh thông minh”: sản phẩm mang tính ngắn hạn hay dài hạn?
Một số nhà phân tích, một mặt,
đánh giá cao các nguyên tắc, sự nỗ lực để đạt tham vọng lãnh đạo toàn
cầu của Mỹ trong chiến lược đối ngoại của chính quyền B. Ô-ba-ma; mặt khác, cũng chỉ ra những rào cản, trở ngại mà chính quyền này có thể gặp phải trong thời gian tới(8). Thứ nhất, khả năng tái cử của Tổng thống B. Ô-ba-ma năm 2012 là chưa thực sự rõ ràng. Thứ hai,
Mỹ sẽ không có đủ nguồn lực và khả năng để thực hiện các cam kết đối
ngoại nếu các vấn đề khó khăn về kinh tế, cắt giảm ngân sách, chia rẽ
chính trị nội bộ không được xử lý hiệu quả. Mỹ cần chứng minh những
tuyên bố, cam kết bằng hành động cụ thể, hiệu quả để xây dựng, củng cố
lòng tin của các nước trong khu vực. Thứ ba, sự thành công của
học thuyết còn phụ thuộc vào chiều hướng chính sách và thái độ phản ứng
của Trung Quốc. Sự năng động, phát triển của kinh tế khu vực phụ thuộc
nhiều vào Trung Quốc, và hầu hết các nước trong khu vực đều mong muốn
quan hệ Trung Quốc - Mỹ cân bằng, ổn định, đóng góp vào hòa bình, thịnh
vượng khu vực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nước thực hiện chính
sách đa dạng hóa, đa phương hóa. Thứ tư, sự can dự quá sâu (nhất là về quân sự) của Mỹ tại các điểm nóng khu vực.
Việc
đưa ra ý tưởng, xây dựng cơ sở lý luận và thử nghiệm triển khai tạo
đồng thuận nội bộ và ủng hộ quốc tế cho một chiến lược đối ngoại đã là
một việc khó, nhưng làm thế nào để duy trì nguồn lực, giữ vững cam kết
và triển khai hiệu quả, lâu dài học thuyết đó lại càng khó hơn, nhất là
trong bối cảnh khó khăn kinh tế chung hiện nay. Chiến lược đối ngoại B.
Ô-ba-ma dù là “sản phẩm” của một siêu cường cũng không phải là ngoại lệ.
Đặc biệt, chiến lược đối ngoại của Mỹ thường mang nhiều tính chất nhiệm
kỳ, dấu ấn cá nhân, được sử dụng như “con bài” ngắn hạn nhằm ghi điểm
với cử tri. Bản thân các học thuyết có những sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất
quán, tuy nhiên sự thay đổi tổng thống và chính quyền sau mỗi kỳ bầu cử
sẽ có tác động không nhỏ đến sắc thái, định hướng của học thuyết. Tuy
rất lạc quan, tự tin nhưng Ngoại trưởng H. Clin-tơn vẫn thận trọng khi
nói về tương lai của học thuyết này: “Kiểu chuyển hướng này không dễ
dàng, nhưng chúng tôi đã chuẩn bị cho nó hơn hai năm rưỡi qua, và chúng
tôi cam kết theo đuổi đến cùng nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất này của
thời đại chúng ta” (9)./.
-------------------------------------------------
-------------------------------------------------
(1)
Trong tháng 11-2011, Tổng thống B. Ô-ba-ma chủ trì Hội nghị cấp cao
APEC 19 tại Ha-oai, thực hiện chuyến công du châu Á lần thứ 3, thăm
Ô-xtrây-li-a và In-đô-nê-xi-a, dự Cấp cao Đông Á 6 (EAS) tại Ba-li.
Ngoại trưởng H. Clin-tơn tiếp tục hoạt động ngoại giao “con thoi” ở châu
Á - Thái Bình Dương và có chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên sau nửa thế
kỷ đến Mi-an-ma vào đầu tháng 12-2011
(2) Hillary Clinton: “America’s Pacific Century”, phát biểu tại Trung tâm Đông Tây, Ha-oai (10-11-2011), www.state.gov/secretary/rm/2011/11/176999.htm; Tom Donilon: “America is back in the Pacific and will uphold the rules”, Financial Times (27-11-2011), www.ft.com
(3) Barack Obama: “President Barack Obama’s Inaugural Address”, Phát biểu nhậm chức tổng thống (21-1-2009), www.whitehouse.gov/blog/inaugural-address
(4) Hillary Clinton: “Nomination hearing to be Secretary of State”, Điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ (13-1-2009), www.state.gov/secretary/rm/2009a/01/115196.htm
(5) Xem Hillary Clinton: “Economic Statecraft”, www.state.gov/secretary/rm/2011/10/175552.htm
(6) Xem Hillary Clinton: “America’s Pacific Century”
(7) Hillary Clinton: “America’s Pacific Century”
(8) Kenneth Lieberthal: “The American Pivot to Asia: Why President Obama’s turn to the East is easier said than done”, Foreign Policy (12-2011), www.foreignpolicy.com
(9) Hillary Clinton: “America’s Pacific Century”