THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ bảy, ngày 2/6/2012
TTXVN (Niu Yoóc 30/5)
Chiến lược trở lại châu Á trong quan hệ Mỹ-Trung
“Tạp chí Chính trị Thế giới” (Mỹ) ngày 24/5 đăng bài của tác giả Mohan Malik, giáo sư về An ninh châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, tại Honolulu, trong đó khẳng định rõ ràng mối quan hệ Mỹ-Trung là mối quan hệ song phương quan trọng nhất của thế giới trong những năm đầu thế kỷ 21. Mối quan hệ đó không những ảnh hưởng đến thực trạng của các mối quan hệ song phương khác mà còn tạo nên những diễn biến trật tự khu vực và đề ra chương trình của các tổ chức quốc tế.
Không như các cường quốc khác, mối quan hệ Mỹ-Trung là mối quan hệ đa chiều, toàn diện, phức tạp và không thể trở thành con tin cho bất cứ vấn đề nào đó. Đây là hai nền kinh tế lớn nhất, hai nước tiêu thụ các nguồn tài nguyên lớn nhất và có lượng khí thải nhà kính CO2 lớn nhất thế giới. Nhưng hai nước cần đến nhau để đạt được thành công trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa. Hai nước chia sẻ trách nhiệm duy trì nền hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương – nơi được coi là có ý nghĩa sống còn của nền kinh tế cũng như chính trị thế giới trong thế kỷ 21.
Là các đối tác thương mại lớn, Mỹ và Trung Quốc đều quan tâm giải quyết nhũng thách thức an ninh xuyên quốc gia phi truyền thống cũng như thách thức địa chính trị truyền thống. Trong hầu hết các vấn đề an ninh và kinh tế toàn cầu, trong đó có chủ nghĩa khủng bố, phổ biến hạt nhân, biến đổi khí hậu và trong hầu hết các tổ chức đa phương như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), Trung Quốc thường hợp tác nhiều hơn chống lại Mỹ. Các lợi ích kinh tế của Mỹ với Trung Quốc chắc chắn lớn hơn nhiều so với ngược lại. Nhiều thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường chú trọng đến các thách thức và khó khăn trong nước. Hiện nay Mỹ cũng đang chú ý đến các vấn đề nội bộ khi Oasinhtơn đối mặt với tình trạng giảm sút kinh tế kéo dài, cơ sở hạ tầng xuống cấp và thâm hụt tài chính khổng lồ.
Không ai phủ nhận một thực tế là mối quan hệ Mỹ-Trung đang tồn tại nhiều căng thẳng về vấn đề Đài Loan, nhân quyền, mất cân bằng thương mại, tiền tệ, không gian mạng, môi trường và hiện đại hóa quân đội. Hai nước cần xóa bỏ khoảng cách giữa những gì mà Oasinhtơn gọi là quản lý “Các vấn đề chung toàn cầu” và Trung Quốc coi đó là các lĩnh vực chiến lược. Nhưng cũng có nhiều nhân tố ổn định đã duy trì mối quan hệ song phương tiếp tục phát triển từ đầu những năm 1970. Trong mối quan hệ của hai nước, cạnh tranh và họp tác là hai mặt của một vấn đề. Đây là thực tế trong mối quan hệ giữa các cường quốc. Mỹ và Trung Quốc là các đối thủ cạnh tranh trên một số lĩnh vực và cũng là đối tác trong một số lĩnh vực khác.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Davos gần đây nhất, ông Diêm Học Thông, Giám đốc Viện quan hệ quốc tế hiện đại thuộc Đại học Thanh Hoa, Tổng Biên tập Báo chính trị thế giới của Trung Quốc, nhận định Mỹ và Trung Quốc là các đối tác kinh doanh chứ không phải bạn bè. Nhưng những người hiểu biết về văn hóa Trung Quốc hoặc quan hệ với các đối tác kinh doanh đều cho rằng Trung Quốc và Mỹ không thể là các đối tác kinh doanh nếu không phải là bạn bè. Từ khi xảy ra cuộc khùng hoàng tài chính toàn cầu năm 2008, nhiều người không tin sức mạnh lâu dài của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương. Nhận thức chung trước sự giảm sút của Mỹ và ngăn chặn Trung Quốc tiếp tục khiến hai nước mất đi sự tin cậy lẫn nhau.
Một số nhà phân tích có ảnh hưởng tại Trung Quốc mô tả Mỹ như một người khổng lồ mệt mỏi và già nua, trong khi Trung Quốc được coi là một thanh niên sung sức. Chuyên gia quân sự và bình luận viên trên vô tuyến truyền hình trung ương Trung Quốc Tống Hiểu Quân bác bổ việc họp tác quan trọng với Mỹ trong tương lai gần. Nhiều nhà nghiên cứu khác có xu hướng coi sự hiện diện lâu dài của quân đội Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương chủ yếu nhằm ngăn chặn sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng từ quan điểm của Mỹ, đây là sự hiện diện quân sự phía trước đã từng đem lại nhiều lợi ích cho cả Trung Quốc cũng như khu vực và tạo thuận lợi cho việc tăng trưởng kinh tế không gián đoạn trong vài thập kỷ qua.
Nhiều người Mỹ cho rằng sức mạnh quân sự và kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc sẽ thổi bùng các mâu thuẫn Mỹ-Trung trong những năm tới. Ví dụ, ông Aaion Friedberg, cựu Phó Trợ lý các vấn đề an ninh quốc gia và Giám đốc hoạch định chính sách của Văn phòng Phó Tổng thống Mỹ năm 2003- 2005, khẳng định hiện nay một số vấn đề đang khiến Mỹ và Trung Quốc mất lòng tin và cạnh tranh với nhau, nếu không nói là hướng tới một cuộc xung đột công khai. Một số nhà phân tích khác ở Trung Quốc thậm chí cho rằng từ quan điểm của Trung Quốc, kịch bản tốt nhất là Mỹ nên chấm dứt vị thế vượt trội trong các vấn đề của châu Á và hiểu Trung Quốc đúng như Anh đã làm với Mỹ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Điều này có nghĩa các nước bạn bè và đồng minh của Mỹ sẽ bị đưa xuống vị thế thấp hơn còn Mỹ và Trung Quốc sẽ cùng nhau chia sẻ sức mạnh và quản lý các vấn đề toàn cầu. Nhưng quan điểm này được dựa trên cơ sở nhận thức sai tình hình chính trị của châu Á và lịch sử thế giới. Thực tế cho thấy hiểu biết nông cạn rất nguy hiểm. Chẳng hạn, do hiểu biết ít, một số bác sĩ hoặc các chuyên gia quân sự chẩn đoán bệnh sai hoặc đưa ra các chính sách sai lầm từ đó có thể phải trả giá bằng nhiều sinh mạng quý báu. Vì vậy thế giới đánh giá quá thấp sức mạnh và mục tiêu của Trung Quốc và việc Trung Quốc đánh giá quá cao sức mạnh của họ có thể dẫn đến nguy cơ tính toán sai lầm.
Nhận thấy các lợi ích an ninh và kinh tế sống còn ở châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ đang thúc đẩy chiến lược sang châu Á, do đó khả năng Trung Quốc phát triển thành nước lãnh đạo toàn cầu hoặc một bá quyền dường như vẫn còn xa vời. Nhưng bất chấp tất cả các tuyên bố “trở lại châu Á”, thực tế Mỹ chưa bao giờ rời khỏi khu vực này. Là một cường quốc kinh tế và quân sự ở Thái Bình Dương, Mỹ không thể giảm bớt sự hiện diện của họ ở châu Á-Thái Bình Dương. Do tăng trưởng kinh tế sau Chiến tranh Lạnh diễn ra ở bên ngoài mạng lưới đồng minh truyền thống của Mỹ ở châu Á lục địa như Trung Quốc, Việt Nam và Ấn Độ, nên Mỹ đang nỗ lực xây dựng các mối quan hệ đối tác khu vực để duy trì hòa bình, ổn định và góp phần bảo đảm mức tăng trưởng kinh tế bền vững. Hiện nay không nước nào trên thế giới đe dọa an ninh của Trung Quốc như Bắc Kinh tuyên bố.
Đối với các nước khu vực, Trung Quốc là mối lo ngại, bởi vì diện tích, lịch sử, sự gần gũi, sức mạnh tiềm tàng của Trung Quốc và quan trọng hơn, do những bằng chứng của chế độ tàn bạo ở Trung Quốc vẫn chưa hoàn toàn biến mất. Bên cạnh đó, sự tồn tại của các bất đồng lãnh thổ trên bộ và trên biển cũng làm tăng thêm mối lo ngại của khu vực. Các mối quan hệ kinh tế ngày càng tăng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng châu Á đã tạo nên tư tưởng thất vọng và lệ thuộc. Mặc dù các nước láng giềng của Trung Quốc không lên tiếng phản đối sức mạnh và sự thịnh vượng của Trung Quốc, nhưng họ không hài lòng trước những gì đang xảy ra. Các nước không coi khuất phục như một sự lựa chọn chính sách trong quan hệ với Trung Quốc. Do đó, hiện nay các nước châu Á chi phí cho quân sự nhiều hơn các nước châu Âu để cố gắng cân bằng và tự vệ trước những sự phát triển và hành động ngày càng tỏ ra quyết đoán của Bắc Kinh. Thực tế, chi phí quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 12-15% gần hai thập kỷ qua – một tỷ lệ cao hơn mức tăng trưởng kinh tế 10-12% của nước này.
Cũng như Trung Quốc, các nước láng giềng châu Á sẽ áp dụng tất cả các biện pháp có thể để bảo vệ lợi ích của họ. Trong bối cảnh này, Mỹ sẽ tiếp tục là lựa chọn của nhiều nước. Điều này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng bất chấp sự suy giảm tường đối, Mỹ đang trở thành nguồn sức mạnh trong khu vực. Chừng nào các bất đồng lãnh thổ và trên biển của Trung Quốc chưa được giải quyết, việc thay đổi sức mạnh theo hướng có lợi cho Bắc Kinh không thể xảy ra. Rõ ràng, hội nhập kinh tế không thể thành công trong việc khắc phục những lo ngại địa chính trị.
Do tương lai các mối quan hệ của Trung Quốc với Mỹ sẽ được xác định bằng những hành động và thái độ của các nước đối với Trung Quốc trong khu vực then chốt này, những câu hỏi quan trọng đặt ra cho tương lai gồm:
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương muốn gì từ Trung Quốc và Mỹ? Các nước châu Á muốn sống trong kiểu trật tự khu vực nào trong những năm tới và những thập kỷ tiếp theo? Quan điểm trật tự khu vực của Trung Quốc là gì trong những năm và các thập kỷ tới? Quan trọng hơn, liệu quan điểm của Mỹ và Trung Quốc có phù hợp với các quan điểm của khu vực? Sự tương đồng và khác biệt là gì trong các quan điểm đó? .
Rõ ràng, nền hòa bình và ổn định sẽ phát triển nếu Mỹ, Trung Quốc và các cường quốc khác ủng hộ và nỗ lực tạo nên một châu Á đa cực, trong đó có các tổ chức đa phương vững mạnh. Nhưng cạnh tranh và kình địch sẽ lại gây nên đơn cực hoặc lưỡng cực. Thực tế, khu vực châu Á-Thái Bình Dương lớn đến mức bất cứ một nước nào cũng không đủ sức thống trị nó nếu sự thống trị đó không có tác động trở lại ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Xây dựng các mối quan hệ song phương dựa trên cơ sở an ninh để từ bỏ ý đồ thúc đẩy cân bằng sức mạnh có thể là một biện pháp tránh được tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Thực tế, chú trọng tăng trưởng kinh tế bền vững, tất cả các bên sẽ cùng quan tâm tránh cạnh tranh thù địch, đối đầu và xung đột. Tôn trọng “các lợi ích cơ bản” của mỗi bên là bước đi đầu tiên.
Thực tế, nền hòa bình lâu dài và ổn định có thể đạt được nếu Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Nga liên kết lực lượng trong một tổ chức an ninh và kinh tế của các cường quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chủ nghĩa đa phương và đa cực nổi lên ở châu Á sẽ tạo ra các sáng kiến cho các cường quốc khu vực để thực hiện một chính sách đối ngoại hợp tác và ôn hòa, từ đó thúc đẩy ổn định và tăng trưởng kinh tế. Hy vọng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và hội nhập khu vực nổi lên trong các tổ chức đa phương sẽ làm thay đổi giọng điệu và tiến trình của các mối quan hệ giữa hai nước từ cạnh tranh và các trò chơi được mất ngang nhau sang hợp tác và cùng thắng.
***
TTXVN (Angiê 31/5)
Nhất thời hay bền vững?
Trước việc Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á, các nước trong vùng phản ứng như thế nào? Thái độ của Trung Quốc ra sao? Theo đánh giá của nhà phân tích Francois Danjou trên tạp chí “Tin Trung Hoa”, châu Á nhìn chung tìm kiếm sự cân bằng ảnh hưởng giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Còn Bắc Kinh, vốn được nhiều nhà quan sát cho là muốn bác bỏ kế hoạch của Mỹ, từ năm 2009 có lập trường ít đối kháng hơn.
Nhìn chung, có sự khác biệt về lập trường và thái độ giữa một bên là các nước Đông Bắc Á cộng với Ấn Độ và, bên kia, là các nước ASEAN. Ngoài những khác biệt đáng kể đó giữa các nước, tùy theo từng vùng, còn có sự khác nhau giữa phản ứng của giới lãnh đạo và xã hội dân sự hay giới truyền thông độc lập, nếu có.
về mặt này, câu trả lời của châu Á đối với việc Mỹ thông báo thiết lập căn cứ lính thủy đánh bộ tại Darwin (Ôxtrâylia) là bằng chứng cho thấy những khác biệt nói trên. Các đồng minh gần gũi, như Nhật Bản, hoàn toàn ủng hộ quyết định này. Ấn Độ, nước đang xích lại gần phương Tây, cũng hoan nghênh kế hoạch của Mỹ. Nhưng ở các nước khác, nhiều người lên tiếng kêu gọi thận trọng trước phản ứng mà Trung Quốc có thế đưa ra. Thông qua Ngoại trưởng của mình, Inđônêxia nhắc đến “cái vòng luẩn quẩn căng thẳng và bầu không khí nghi ngại”. Thủ tướng Malaixia cũng có lập trường tương tự khi tỏ ý lo ngại tình hình sẽ xấu đi. Kể cả ở Xinhgapo, nước có đường lối tổng thể nhìn chung thiên về sức mạnh của quân đội Mỹ được đánh giá là yếu tố giữ ổn định, Ngoại trưởng cũng tỏ ý lo ngại ASEAN sẽ bị kẹt trong gọng kìm cạnh tranh lợi ích giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn.
Lịch sử của châu Á và tác động của tình hình hiện tại giải thích tương đối rõ tại sao lại có những thái độ khác biệt như trên. Ở hai cực của vấn đề là hai nước: Một bên là Nhật Bản, nước có chiến lược phòng thủ hoàn toàn dựa vào sức mạnh răn đe của Mỹ khi phải đối mặt với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, và bên kia là Campuchia, nước duy nhất ở châu Á có lẽ ủng hộ mạnh mẽ nhất lợi ích của Trung Quốc. Lịch sử của Campuchia đã cho thấy rõ điều đó.
Quyết định của Mỹ chuyển trọng tâm sang châu Á không cho phép nói trước liệu mối quan hệ giữa Oasinhtơn và tất cả các đối tác châu Á sẽ tốt hay không. Chẳng hạn tại Nhật Bản là vụ tranh cãi liên quan đến căn cứ Futenma trong khi ở một số nước khác, tình hình có thể khiến Mỹ sa vào các cuộc tranh cãi nguy hiểm. Đó là trường hợp Philippin, một trong những nước chịu nhục nhã nhất trước phản ứng của Trung Quốc vào năm 2011, đòi Lầu Năm Góc chấp nhận đưa một số hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Spratly (Trường Sa) mà nước này đòi chủ quyền, vào khu vực được quy định trong hiệp định phòng thủ song phương.
Thực tế là tất cả các nước châu Á đều muốn duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc, thường vì lý do kinh tế, đồng thời hy vọng có thể trông cậy vào bảo đảm an ninh của Mỹ trong trường họp xảy ra căng thẳng với Bắc Kinh. Do đó, khi Mỹ vừa tái khẳng định can dự vào châu Á, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda, và Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak liền sang thăm chính thức Trung Quốc. Trong khi đó, vào tháng 11/2011, Hà Nội và Băngcốc tiếp đón Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Cũng gần như đồng thời vào lúc đó, Mianma đón tiếp Đới Bỉnh Quốc, nhân vật phụ trách công tác đối ngoại chiến lược của Trung Quốc.
Ví dụ Mianma mang tính biểu tượng về ý định của chính phủ các nước châu Á muốn tái cân bằng sức mạnh của Trung Quốc bằng cách xích lại gần Oasinhtơn. Nhưng ở các nước khác, phản ứng của xã hội dân sự và giới truyền thông lại xác định giới hạn của cuộc chơi theo hướng đôi khi định sử dụng sức mạnh quân sự của Mỹ như một công cụ.
Tại Hàn Quốc, Tổng thống Lee Myung-bak bị phê phán, kể cả bởi giới báo chí bảo thủ, do ông ủng hộ Nhà Trắng quá mức, trong khi phe đối lập gây sức ép để buộc ông phải tái khẳng định mối quan hệ với Bắc Kinh. Nhưng, cũng chính giới truyền thông lại nhấn mạnh đến tính chất phức tạp của trò giữ thăng bằng – trong đó lẫn lộn cả niềm kiêu hãnh dân tộc, nỗi lo sợ xảy ra khủng hoảng với Bình Nhưỡng và mối quan tâm đến ngân sách – và lo Xơun sẽ phải chịu thêm gánh nặng do hệ thống quân sự của Mỹ trên bán đảo Triều Tiên giảm nhẹ đi.
Vùng châu Á-Thái Bình Dương có tầm quan trọng cốt tử đối với sự năng động của toàn cầu, song trong tương lai, việc thừa nhận sức mạnh của Trung Quốc sẽ phức tạp hơn trong quá khứ. Cơ hội là có về trung hạn, song không có gì chắc chắn về dài hạn. Mọi thứ lúc đó sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn chiến lược của các nước châu Á. Các nước này sẽ tham gia cuộc chơi do Trung Quốc bày ra hay định cân bằng cuộc chơi đó một cách có hệ thống thông qua mối quan hệ chặt chẽ hơn với Oasinhtơn?
Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào việc nước này hay nước khác, kể cả Mỹ, đánh giá thái độ của Trung Quốc là như thế nào. vấn đề ở đây là trái với sự chờ đợi của giới phân tích, Trung Quốc thay đổi cơ bản chiến lược của mình từ năm 2009 và nay có thể sẽ trực tiếp nhằm vào Mỹ. Trung Quốc đúng là có thái độ chống Mỹ hung hăng hơn trước, song sự thay đổi đó có thể còn có nguyên nhân khác chứ không phải chỉ là bác bỏ vai trò của Oasinhtơn.
Chẳng hạn đối với Bình Nhưỡng, những thay đổi diễn ra từ năm 2009 xuất phát từ quyết tâm cứu chế độ đó khỏi sụp đổ hơn là nhằm chống lại Mỹ. Ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông), kết cục của các vụ đụng độ xảy ra trong hai năm 2010 và 2011 cho thấy đây là một chiến lược nhằm trì hoãn tối đa việc giải quyết các bất đồng về lãnh thổ, có thể vì lý do chủ nghĩa dân tộc ở trong nước.
Các dấu hiệu về thái độ hung hăng của Bắc Kinh cũng do sự đồng thuận trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc suy giảm, từ đó tạo cơ hội cho một số phát biểu mang tính dân tộc chủ nghĩa cực đoan, kể cả chống Mỹ, làm cho tất cả các nước Đông Nam Á đều cảm thấy lo ngại và, dĩ nhiên, khiến Nhà Trắng phải phản ứng.
Nhà Trắng có hai mối lo ngại lớn. Thứ nhất là nguy cơ căng thẳng kéo dài trong quan hệ với Trung Quốc, nước có thể đặt toàn bộ mối quan hệ với châu Á dưới sức nặng của cạnh tranh đối đầu Mỹ-Trung, với hệ quả xấu là nguy cơ xảy ra những lệch lạc quân sự không kiểm soát được. Thứ hai, trong bối cảnh ngân sách giảm sút, là các câu hỏi về khả năng trụ lâu của Mỹ.
Tuy nhiên, nhãn quan đó thể hiện sự hòa giải lý tưởng. Những năm 2010 và 2011 rõ ràng cho thấy xuất hiện chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa chống lại Mỹ, nước nhiều lần bị một số nhân vật cấp cao ở Bắc Kinh coi là không được hoan nghênh trong vùng, đồng thời bị phê phán vì bán vũ khí cho Đài Loan. Tháng 7/2010, tại một diễn đàn ở Hà Nội, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì coi đề nghị của Mỹ được can dự với tư cách trung gian hòa giải vào việc giải quyết bất đồng ở biển Nam Trung Hoa, là một sự “xâm phạm” đối với Bắc Kinh. Tháng 11/2010, một người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhắc lại rằng Bắc Kinh phản đối “sự có mặt không được phép của tàu chiến nước ngoài trong vùng kinh tế đặc quyền của Trung Quốc”. Qua tuyên bố đó, người phát ngôn nói trên phê phán việc các tàu sân bay của Hải quân Mỹ liên tiếp xuất hiện ở ngoài vịnh Bột Hải.
Việc Nhà Trắng lo ngại bị lôi cuốn vào tiến trình dễ dẫn đến thảm họa được minh chứng bằng tình hình đang diễn ra ở Philippin, thuộc địa cũ của Mỹ được giải phóng vào năm 1946 và hiện là đồng minh của Mỹ trong vùng, sau khi Mỹ chấm dứt sự có mặt về quân sự ở đây vào năm 1992. Cách đây một năm, ở vùng phụ cận Bãi cỏ Rong, cách Palawan khoảng 130 hải lý về phía Tây Bắc, hai tàu tuần tiễu Trung Quốc xua đuổi một tàu nghiên cứu được công ty Forum Energy PLC (thuộc hai cổ đông là công ty hàng hải Philex Mining Corp của Philíppin và First Pacific Group của Hồng Công) thuê và làm việc cho Chính phủ Philippin. Được khích lệ bởi viễn cảnh tốt đẹp về mỏ khí đốt lớn trong vùng, Forum Energy năm nay định trở lại vùng này và bắt đầu tiến hành khoan. Đồng thời, Hải quân Mỹ có kế hoạch tiến hành tập trận hải quân chung, cách không xa Bãi cỏ Rong.
Manila cho rằng Bãi cỏ Rong nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong khi Bắc Kinh giải thích chúng thuộc về quần đảo Spratly, có diện tích hơn 400.000 km2, mà Bắc Kinh đòi chủ quyền toàn bộ, cũng như Đài Loan, Việt Nam, Philippin, Malaixia và Brunây. Manila tiến hành nghiên cứu ở vùng này từ năm 1970, và năm 2011 cho biết Hải quân Trung Quốc đã 12 lần thâm nhập hải phận của mình. Các cuộc thâm nhập và các vụ gây rối do phía Trung Quốc gây ra gia tăng vào năm 2011 buộc Chính phủ Philíppin phải tỏ thái độ cứng rắn hơn.
Nguy cơ đối đầu nảy sinh từ hai lôgích và tính hợp pháp đối nghịch nhau, đồng thời được kích lên do tiềm năng dầu lửa và khí đốt ở vùng biển này. Đối với Bắc Kinh, tính hợp pháp của họ xuất phát từ khái niệm đế quốc và văn hóa không gian Trung Hoa liên quan đến ranh giới lãnh thổ được xác lập dưới thời nhà Thanh nhưng nay bị phá rối ở vùng ngoại biên – như Đài Loan, Tân Cương, Tây Tạng và biển Nam Trung Hoa – do các vụ tranh cãi triền miên. Đối với các nước khác, tính hợp pháp của họ xuất phát từ lịch sử gần đây trong vùng, với thắng lợi quân sự của Mỹ và đồng minh trong cuộc chiến chống Nhật Bản và Bắc Triều Tiên. Đó cũng là cơ sở tạo nên tính hợp pháp của Lầu Năm Góc, người bảo đảm an ninh trong vùng, dựa trên Luật biển.
Lợi ích của Mỹ không những nằm ở việc cạnh tranh, với ván cá cược là mối quan hệ với các nước châu Á, mà cả ở việc hợp tác sâu rộng hơn thông qua các sáng kiến ngoại giao mạnh mẽ. Các sáng kiến này có thể khích lệ Bắc Kinh tăng cường ảnh hưởng thông qua quan hệ ngoại giao và thương mại hơn là bằng hành động trả đũa. Nhưng về dài hạn, bầu không khí đối đầu xấu đi sẽ không mang lại tác dụng tốt và khó có thể kiềm chế được.
Cam kết của Mỹ, về dài hạn, cũng gây ra mối lo ngại. Thủ tướng Xinhgapo Lý Hiển Long cho rằng sự can dự của Mỹ vào châu Á mang tính lịch sử và không hung hãn. Cho dù Trung Quốc tỏ ra lo ngại về ý định của Mỹ, song các nước châu Á hoan nghênh việc Oasinhtơn tái khẳng định lợi ích của mình ở vùng này. Theo ông, tất cả các nước đều hy vọng sự can dự của Mỹ sẽ bền vững./.