Tiềm lực và vị thế của EU
Liên
minh châu Âu (EU), gồm 27 nước thành viên với trên 500 triệu dân, là
thực thể chính trị, kinh tế quan trọng hàng đầu trên thế giới, có 2
trong tổng số 5 Ủy viên thường trực Hội Đồng Bảo an Liên hợp quốc, 4
trong Nhóm 8 nước công nghiệp hàng đầu thế giới (G8), 4 trong Nhóm các
nền kinh tế lớn (G20). Từ sau khi Hiệp ước Lisbon có hiệu lực (12-2009),
EU có tư cách pháp nhân và chức vụ Đại diện cấp cao về Chính sách Đối
ngoại và an ninh với mục tiêu tăng cường tiếng nói chung, mạnh mẽ hơn
trong các vấn đề quốc tế. Tại Liên hợp quốc, từ tháng 5-2011, EU có quy
chế “siêu quan sát viên”, được tham gia vào hầu hết các hoạt động của tổ
chức này như một thành viên đầy đủ, thể hiện vai trò ngày càng quan
trọng của EU trên các diễn đàn quốc tế.
EU
hiện là nền kinh tế lớn nhất thế giới với tổng GDP năm 2011 đạt hơn
17,578 nghìn tỉ USD, chiếm khoảng 20% GDP toàn cầu. EU là đối tác thương
mại, nhà đầu tư, nhà tài trợ hợp tác phát triển lớn nhất thế giới và
trung tâm tài chính hàng đầu thế giới. Không tính thương mại nội khối,
EU là nhà xuất nhập khẩu lớn nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu năm
2010 đạt 684 tỉ USD và giá trị nhập khẩu đạt gần 600 tỉ USD tương đương
25% và 22% trao đổi thương mại toàn cầu. EU cũng là nhà đầu tư lớn nhất
trên thế giới với tổng vốn đầu tư trực tiếp ra bên ngoài (FDI) năm 2011
đạt khoảng 463 tỉ USD. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn kinh tế
trong thời gian qua, EU vẫn duy trì vai trò là nhà tài trợ lớn nhất thế
giới với 53 tỉ euro viện trợ phát triển (ODA) dành cho các nước đang
phát triển trong năm 2011, chiếm hơn 50% tổng viện trợ của thế giới. Về
tài chính, 9 trong số 20 trung tâm tài chính lớn nhất thế giới tập trung
tại EU. Đồng tiền chung châu Âu (Euro) ra đời năm 1999 đã trở thành một
trong những đồng tiền dự trữ ngoại hối chủ chốt trên thế giới, thay đổi
cơ bản hệ thống tiền tệ thế giới cũ với vị trí chủ đạo của đồng đô la
Mỹ.
Trải
qua lịch sử hơn 60 năm hình thành và phát triển, EU đã trở thành một
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ… hàng đầu thế
giới. Với tiềm lực và vai trò quan trọng trên nhiều lĩnh vực, EU thực sự
là một đối tác có tầm quan trọng toàn cầu, có vị trí rất quan trọng
trong chính sách đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam - EU hơn 20 năm qua
Việt
Nam luôn coi trọng thúc đẩy quan hệ với EU cũng như với các nước thành
viên EU. Phát triển quan hệ với EU nằm trong chủ trương mở rộng quan hệ
quốc tế của Việt Nam ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới. Việt
Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
tháng 11-1990 và ký Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EC năm 1995. Việc
thiết lập quan hệ với EC đã giúp thúc đẩy quá trình bình thường hóa và
tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng khác như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản và ASEAN. EU luôn tích cực ủng hộ Việt Nam trong
nỗ lực trở thành thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế: EU là đối
tác quan trọng đầu tiên kết thúc đàm phán với Việt Nam về việc gia nhập
WTO; EU tích cực ủng hộ Việt Nam ứng cử chức Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Sự
ủng hộ của EU là nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình phát
triển, mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam, qua đó ngày càng nâng
cao hình ảnh, vai trò và tiếng nói của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới.
Trong hơn 20 năm qua, quan hệ hai bên đã phát triển nhanh chóng và sâu rộng.
Về chính trị,
lãnh đạo cấp cao hai bên luôn khẳng định coi trọng tăng cường hợp tác
nhiều mặt, tương xứng với tiềm năng và vị thế của hai bên. Lãnh đạo Đảng
và Nhà nước ta đã có những chuyến thăm rất thành công tới EU và các
nước thành viên. Nguyên thủ nhiều nước thành viên EU, Chủ tịch Ủy ban
châu Âu (EC) và nhiều Ủy viên EC phụ trách Đối ngoại, Thương mại, Môi
trường và Hợp tác phát triển đã thăm Việt Nam. Nhiều cơ chế, khuôn khổ
hợp tác, đối thoại được triển khai hiệu quả. Tham vấn chính trị cấp Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Nam - EU lần đầu tiên đã được tổ chức thành công
tại Hà Nội tháng 2-2012.
Về quan hệ song phương,
với các nước thành viên, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Anh, Đức, Tây Ban Nha, quan hệ đối tác chiến lược trên một số lĩnh vực
với Hà Lan và Đan Mạch trong tổng số 10 nước mà ta có khuôn khổ quan hệ
đối tác chiến lược hiện nay.
EU
là đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam, là thị trường
xuất khẩu quan trọng thứ 2 của Việt Nam sau thị trường Mỹ. Trong những
năm gần đây, kim ngạch thương mại hai chiều tăng trung bình 15-20% năm,
từ 1,5 tỉ USD năm 1995 lên hơn 24 tỉ USD năm 2011. EU là thị trường lớn
cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như giày dép, may
mặc, thủy sản, đồ gỗ, điện tử, một số mặt hàng tiêu dùng khác. Việt Nam
nhập từ EU máy móc thiết bị, tân dược, máy bay. Đặc điểm nổi bật trong
thương mại hai chiều Việt Nam - EU là tính bổ sung cao, ít cạnh tranh.
Việt Nam liên tục xuất siêu sang EU, đặc biệt trong 10 năm gần đây với
mức xuất siêu trung bình từ 3-5 tỉ USD, tương đương 50% kim ngạch xuất
khẩu. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU đã chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng hàng hóa chất lượng cao, thực phẩm sạch, thủ công mỹ
nghệ, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình, hàng nông sản thô.
Về đầu tư,
hầu hết các nước thành viên và các tập đoàn lớn của EU đã đầu tư vào
Việt Nam. Tính đến hết năm 2011, các nước EU có 1.687 dự án tại Việt Nam
với tổng vốn đăng ký là 32 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 13 tỉ
USD. Các dự án của EU được triển khai trong các lĩnh vực kinh tế quan
trọng của Việt Nam và EU có thế mạnh như công nghiệp, chế biến, khách
sạn, nhà hàng, du lịch và tài chính ngân hàng, đặc biệt lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng chiếm tới hơn 50% số dự án và khoảng 59% tổng vốn đầu
tư.
Về hợp tác phát triển,
EU là nhà tài trợ song phương lớn thứ hai về ODA và là nhà cung cấp
viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam với tổng ODA cam kết trong
giai đoạn 1996 - 2011 là hơn 12 tỉ USD, chủ yếu trong các lĩnh vực ưu
tiên của Việt Nam như phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, phát
triển nguồn nhân lực, y tế, giáo dục, hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực
quản lý, hỗ trợ cải cách hành chính, tư pháp, ngân hàng, tài chính và
hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, EU sẽ tiếp tục ưu tiên các dự án
hợp tác và hỗ trợ vốn ưu đãi để Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, xóa đói giảm nghèo, đối phó với hậu quả biến đổi khí hậu toàn
cầu, bảo đảm an ninh lương thực, ngăn ngừa dịch bệnh, bảo vệ môi trường
và nguồn tài nguyên thiên nhiên… Sự hỗ trợ của EU đã đóng góp tích cực
vào thành tích xóa đói giảm nghèo, cũng như những thành công trong tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững của Việt Nam.
PCA: khuôn khổ hợp tác mới cho quan hệ Việt Nam - EU
Sự
phát triển nhanh chóng của quan hệ Việt Nam - EU đã đặt ra nhu cầu phải
xây dựng khuôn khổ hợp tác mới, phản ánh được mối quan hệ đối tác đang
phát triển mạnh mẽ và tạo khung pháp lý mới thay thế Hiệp định khung
Việt Nam - EC năm 1995. Tháng 6-2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Đề án tổng thể quan hệ Việt Nam - EU đến năm 2010, định hướng đến năm
2015, chủ trương xây dựng “quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện,
lâu dài giữa Việt Nam và EU vì hoà bình và phát triển", tạo cơ sở cho
việc đàm phán và ký kết PCA với EU.
Về
phía EU, trong Chiến lược quan hệ với các nước Đông Nam Á (2003), EU
nhấn mạnh ưu tiên thúc đẩy quan hệ đối tác với ASEAN và chủ trương đàm
phán các hiệp định hợp tác thế hệ mới với từng nước thay thế cho Hiệp
định EC - ASEAN (ký năm 1980) nay không còn phù hợp. Từ năm 2007, EU đã
lần lượt tiếp cận các nước ASEAN đề nghị đàm phán PCA, nhằm xây dựng
khuôn khổ hợp tác mới giữa EU với các nước trong khu vực. Trong bối cảnh
đó, ngày 10-10-2007, Ủy viên đối ngoại Ủy ban châu Âu Benita đã chính
thức đề nghị đàm phán PCA giữa Việt Nam và EU với mục tiêu thay thế Hiệp
định hợp tác khung Việt Nam - Cộng đồng châu Âu 1995.
Tháng
10-2007, EU chính thức đề nghị Việt Nam đàm phán Hiệp định PCA thay thế
Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EC với mục đích chính là mở rộng vai
trò của EU tại khu vực; tranh thủ hợp tác với Việt Nam trong việc giải
quyết các vấn đề toàn cầu cũng như khai thác các lợi thế của EU trong
hợp tác với Việt Nam. Về phía ta, mục đích chính trong đàm phán PCA là
mở rộng, đưa quan hệ với EU thành quan hệ đối tác toàn diện, lâu dài; ưu
tiên hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển với EU;
khai thác hiệu quả lợi ích trong hợp tác, tận dụng tốt hỗ trợ của EU để
phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tháng
11-2007, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của Chủ tịch
Ủy ban châu Âu (EC), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch EC Ba-rô-xô
đã nhất trí khởi động đàm phán PCA. Sau hơn 2 năm với 9 vòng đàm phán
(từ tháng 6-2008 đến tháng 10-2010), hai bên đã thỏa thuận được toàn bộ
nội dung Hiệp định. Ngày 4-10-2010, Trưởng đoàn đàm phán của hai Bên đã
ký tắt PCA với sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch
Ủy ban châu Âu Ba-rô-xô .
Hiệp định PCA là hiệp định khung điều chỉnh quan hệ Việt Nam - EU thay thế Hiệp định khung Việt Nam - EC năm 1995. Hiệp định gồm 8 chương (Bản chất và Phạm vi; Hợp tác phát triển; Hòa bình và An ninh; Thương mại và Đầu tư; Hợp tác pháp luật; Hợp tác trong phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác; Thể chế; Các điều khoản cuối cùng), 65 điều và các phụ lục đính kèm, quy định các nguyên tắc cơ bản của quan hệ Việt Nam - EU, xác định nội dung, phạm vi và hình thức hợp tác, tạo khuôn khổ hợp tác toàn diện giữa hai bên trong tất cả các lĩnh vực, từ hợp tác phát triển, thương mại - đầu tư, đến hợp tác tư pháp, bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế, hợp tác chuyên ngành... So với Hiệp định khung Việt Nam - EC năm 1995, Hiệp định PCA bổ sung nhiều lĩnh vực hợp tác mới mà Việt Nam có nhu cầu và EU có thế mạnh, trong đó có khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, nông nghiệp, năng lượng, giao thông, quy hoạch đô thị, du lịch, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Hiệp định PCA là hiệp định khung điều chỉnh quan hệ Việt Nam - EU thay thế Hiệp định khung Việt Nam - EC năm 1995. Hiệp định gồm 8 chương (Bản chất và Phạm vi; Hợp tác phát triển; Hòa bình và An ninh; Thương mại và Đầu tư; Hợp tác pháp luật; Hợp tác trong phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác; Thể chế; Các điều khoản cuối cùng), 65 điều và các phụ lục đính kèm, quy định các nguyên tắc cơ bản của quan hệ Việt Nam - EU, xác định nội dung, phạm vi và hình thức hợp tác, tạo khuôn khổ hợp tác toàn diện giữa hai bên trong tất cả các lĩnh vực, từ hợp tác phát triển, thương mại - đầu tư, đến hợp tác tư pháp, bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế, hợp tác chuyên ngành... So với Hiệp định khung Việt Nam - EC năm 1995, Hiệp định PCA bổ sung nhiều lĩnh vực hợp tác mới mà Việt Nam có nhu cầu và EU có thế mạnh, trong đó có khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, nông nghiệp, năng lượng, giao thông, quy hoạch đô thị, du lịch, khắc phục hậu quả chiến tranh.
PCA
dành ưu tiên cao cho hợp tác phát triển và thương mại - đầu tư khi có 2
chương riêng cho những lĩnh vực này. Về thương mại - đầu tư, hai bên
đạt được các thỏa thuận quan trọng cho phép Việt Nam có thể tiếp cận
thuận lợi hơn thị trường và các nguồn vốn của EU. Hai bên cũng thỏa
thuận nhiều nội dung hợp tác mới trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, nông lâm ngư nghiệp, ngăn ngừa và giảm nhẹ thiên
tai... Đồng thời, PCA khẳng định hai bên sẽ đẩy mạnh hợp tác trên các
diễn đàn quốc tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu để bảo vệ hòa bình và
an ninh quốc tế như chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống
khủng bố, tội phạm có tổ chức và rửa tiền, ứng phó với biến đổi khí
hậu... Ngoài ra, PCA còn có 3 tuyên bố chung (về vấn đề Quy chế Kinh tế
thị trường cho Việt Nam; Cơ quan tiếp nhận thông tin ngân hàng về chống
rửa tiền và tài trợ khủng bố; Thực thi nghĩa vụ) và 1 tuyên bố đơn
phương của EU về cam kết giúp Việt Nam tận dụng ưu đãi của Hệ thống ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP).
Nhìn
chung, các thỏa thuận trong PCA đã phản ánh hài hòa lợi ích và ưu tiên
của hai bên. Các nguyên tắc căn bản quy định tại PCA như tính tới sự
khác biệt về trình độ phát triển và luật pháp mỗi bên là phù hợp với khả
năng của Việt Nam.
Triển vọng quan hệ Việt Nam - EU sau khi ký chính thức PCA
PCA
tạo khuôn khổ mới, dài hạn và toàn diện cho quan hệ Việt Nam - EU, phù
hợp với ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của hai bên
cũng như xu thế chung hợp tác và phát triển trên thế giới. Các thỏa
thuận trong PCA là tiền đề quan trọng để hai bên thiết lập các cơ chế
hợp tác cụ thể, góp phần tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác và hợp tác
song phương trong những năm tới.
Về chính trị, Hiệp
định PCA sẽ góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ chính trị tốt đẹp giữa
Việt Nam và EU. Các thỏa thuận đạt được trong PCA về chính trị, an ninh
hòa bình là cơ sở để hai bên tăng cường đối thoại và hợp tác trong việc
giải quyết các vấn đề cùng quan tâm, cả trên bình diện song phương và
các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, ASEM và đặc biệt là ASEAN - EU
khi Việt Nam sẽ là nước điều phối quan hệ ASEAN - EU vào tháng 7-2012.
Với định hướng đối ngoại là “thành viên tích cực và có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế”, Việt Nam sẽ tăng cường tham gia, hợp tác giải quyết
các vấn đề toàn cầu với các đối tác, trong đó EU trong việc giải quyết
các vấn đề khu vực và quốc tế như ứng phó với biến đổi khí hậu, chống
tội phạm xuyên quốc gia và khủng bố, bảo đảm an toàn hạt nhân, quản lý
tài nguyên thiên nhiên, môi trường, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng
loạt và an ninh hàng hải.
Về thương mại - đầu tư,
PCA tạo điều kiện thuận lợi, cho phép khai thác tốt hơn lợi thế so sánh
và tính bổ sung cao về cơ cấu kinh tế của hai bên. EU có trình độ phát
triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ cao, những mặt hàng mà các nước
EU có thế mạnh thuộc các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, hóa chất,
giao thông vận tải, hàng không, dược phẩm và dịch vụ có hàm lượng chất
xám và giá trị gia tăng lớn. Đây là những sản phẩm Việt Nam có nhu cầu
ngày càng tăng theo đà phát triển của nền kinh tế, nhưng khả năng sản
xuất trong nước còn hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu của EU phần
lớn là cao su nguyên nhiên liệu, hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, may
mặc, thủy sản, cà phê, chè, hạt tiêu… là những mặt hàng Việt Nam có lợi
thế so sánh. Tiềm năng mở rộng thị phần xuất khẩu của ta vào EU còn lớn
vì thương mại Việt Nam - EU chỉ chiếm khoảng 0,6% tổng kim ngạch của EU.
Việc PCA dành một chương riêng về thương mại - đầu tư cho thấy sự quan
tâm của hai bên đối với tiềm năng phát triển của lĩnh vực này.
PCA
cho phép ta tiếp cận thị trường EU thuận lợi hơn. Cụ thể, EU cam kết
tăng cường tham vấn nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi ích mà quy chế
ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) có thể mang lại cho Việt Nam, cam kết
dành cho Việt Nam đối xử đặc biệt và khác biệt trong quan hệ kinh tế
thương mại, hợp tác với Việt Nam hướng tới sớm công nhận nền kinh tế thị
trường của Việt Nam.
Ngoài
ra, PCA đã tạo tiền đề quan trọng để hai bên bước vào đàm phán hiệp
định FTA. Việc đàm phán và ký kết FTA Việt Nam - EU sẽ mở ra nhiều cơ
hội, xóa bỏ các rào cản thương mại quan thuế và phi quan thuế, tạo thuận
lợi cho tăng trưởng xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói
chung. Hiện nay, chỉ có khoảng 42% xuất khẩu của ta sang EU được hưởng
thuế suất 0% (so với 80 - 85% của Malaysia và Philippines). Nếu FTA được
thực hiện, tỷ lệ này có thể tăng lên 90%, giúp tăng xuất khẩu của Việt
Nam sang EU thêm 35%. Bên cạnh đó, cùng với quá trình đàm phán FTA, EU
sẽ đẩy nhanh việc công nhận Quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam,
tạo thuận lợi cho ta trong đấu tranh với các hình thức bảo hộ thương
mại như thuế chống bán phá giá.
Về hợp tác phát triển,
EU cam kết về nguyên tắc trong PCA (với một chương riêng) tiếp tục viện
trợ phát triển cho ta trong giai đoạn mới sau năm 2013, phù hợp với các
chiến lược và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
EU
cam kết tăng cường hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển
được quốc tế thừa nhận, trong đó có các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên
hợp quốc (MDGs). Đây là cơ sở để ta tiếp tục tranh thủ các hỗ trợ cần
thiết của EU và các nước thành viên EU trong tương lai, phục vụ các mục
tiêu phát triển quốc gia.
PCA
cũng mở rộng các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành mà EU có thế mạnh và ta
có nhu cầu với những cam kết cụ thể của EU về hỗ trợ kỹ thuật và nâng
cao năng lực trong mỗi lĩnh vực; tạo cơ sở cho ta khai thác các thế mạnh
khoa học, công nghệ của EU, tận dụng tốt hỗ trợ của EU để triển khai
hiệu quả đổi mới và tái cấu trúc nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
Tóm
lại, với sự phát triển mạnh mẽ và tích cực của quan hệ giữa Việt Nam
với EU và các nước thành viên trong suốt hơn 20 năm qua, việc ký chính
thức PCA và khởi động đàm phán FTA Việt Nam - EU sẽ mở ra triển vọng
quan hệ Việt Nam và EU hết sức lạc quan. Quan hệ hai bên đang bước sang
một giai đoạn phát triển mới, với phạm vi và mức độ hợp tác rộng lớn và
sâu sắc hơn, góp phần phục vụ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới./.