16:12' 10/7/2012
Tiến hành chiến tranh bên ngoài lãnh thổ các thành viên
Ra
đời năm 1949, NATO là một liên minh quân sự giữa các nước Bắc Mỹ và Tây
Âu để đối phó với sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu. Nhằm chống lại khối quân sự này, năm 1955 khối Hiệp ước
Vác-sa-va ra đời với 8 nước thành viên là các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, đến năm 1991, Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu sụp đổ, khối Hiệp ước Vác-sa-va không còn, thế nhưng NATO vẫn liên
tục kết nạp thêm những thành viên mới, chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô
trước đây và khối Vác-sa-va. Tháng 4-2009, Hội nghị Thượng đỉnh NATO
họp tại Bu-ca-rét (Ru-ma-ni) đã thông qua Học thuyết an ninh mới,
theo đó, NATO không chỉ là một tổ chức khu vực, mà sẽ trở thành một tổ
chức toàn cầu. Từ một tổ chức với chức năng phòng thủ, NATO đã trở thành
một tổ chức quân sự tiến công trong bối cảnh trên thế giới không còn
một thế lực quân sự nào đủ sức làm đối trọng.
Cuộc
chiến chống Nam Tư (trước đây) - một quốc gia có chủ quyền - cho thấy,
NATO do Mỹ đứng đầu, đã trở thành một tổ chức có ảnh hưởng trên toàn
cầu, thực thi cái gọi là “sứ mạng an ninh” trên thế giới. Cuộc chiến
này, một mặt, ghi nhận, lần đầu tiên Mỹ công khai “vượt qua” Liên
hợp quốc, để đơn phương giải quyết những cuộc khủng hoảng trên thế giới
mà không cần có sự tham gia của tổ chức này; mặt khác, cho thấy
rõ hơn học thuyết chính trị mới của phương Tây thiên về sử dụng sức mạnh
để giải quyết mọi vấn đề. Đồng thời, thông qua cuộc chiến tranh này, Mỹ
khẳng định “vai trò lãnh đạo” đối với châu Âu, nhất là trong bối cảnh
sau khi Liên Xô tan rã, các đồng minh tại “lục địa già” bên kia bờ Đại
Tây Dương bắt đầu tính đến việc thoát khỏi bóng “chiếc ô an ninh của
Mỹ”, triển khai những chính sách độc lập hơn với Mỹ.
Thực
tế cho thấy, Nam Tư chỉ là điểm khởi đầu cho hàng loạt chiến dịch quân
sự với quy mô và tính chất khác nhau do NATO triển khai tại Địa Trung
Hải, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, châu Phi v.v.., những khu vực mà trước đó
hoàn toàn nằm cách xa “phạm vi trách nhiệm” ban đầu của tổ chức này. Nếu
“tinh thần trách nhiệm” đó cứ được tăng cường, người ta dự đoán rằng,
NATO sẽ không ngần ngại tiến hành chiến tranh ở các khu vực khác trên
thế giới mà họ cho là cần thiết, nhằm xác lập vị thế, vai trò số một của
Mỹ và một số đồng minh NATO trong một “trật tự thế giới mới” đang được
hình thành sau Chiến tranh lạnh.
Với
mục đích và tham vọng như vậy, Học thuyết an ninh mới của NATO khuyến
khích các nước gia nhập liên minh quân sự này, dựa vào NATO để tìm kiếm
an ninh cho mình, và, cũng để “trục lợi” từ việc tham gia các hoạt động
quân sự của NATO.
Dẫn dắt và tạo “cơ sở pháp lý” quốc tế cho các cuộc chiến tranh
Qua
4 cuộc chiến tranh, kể từ cuộc chiến chống Nam Tư, có thể thấy một số
thay đổi trong cách thức và quy trình tiến hành chiến tranh của NATO.
Trước hết,
đó là sự thay đổi trong cách thể hiện vai trò của Mỹ. Điểm nổi bật
trong cơ chế hoạt động của NATO là sự khống chế của Mỹ thể hiện qua việc
nắm giữ các vị trí lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt; gây sức ép đối với chính
phủ các nước thành viên để ủng hộ Mỹ có tiếng nói quyết định trong các
vấn đề quan trọng. Trong giai đoạn đầu thế kỷ, Mỹ trực tiếp đưa quân
tham chiến, nhưng sau đó giữ vai trò tổ chức, chỉ đạo, hậu thuẫn tiến
hành chiến tranh thông qua các đồng minh NATO, lực lượng đối lập tại nơi
có xung đột; sử dụng sức mạnh tài chính, kinh tế để hỗ trợ và trang bị
vũ khí cho lực lượng đối lập của chính phủ khi cần thiết. Để thực hiện
chiến lược không trực tiếp tham chiến, nhưng “dẫn dắt” các cuộc chiến
tranh, Mỹ tăng cường củng cố quan hệ với các đồng minh chiến lược trong
NATO, hỗ trợ và khuyến khích các đồng minh đảm nhiệm vai trò chính trong
các cuộc xung đột, khủng hoảng hoặc chiến tranh, nhằm tranh thủ tối đa
dư luận tại các nước thành viên NATO, cũng như buộc chính phủ các nước
thành viên chia sẻ trách nhiệm với Mỹ, kể cả trách nhiệm tài chính.
Trong các cuộc chiến tranh tại Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, Mỹ đóng vai trò
tiên phong, tập hợp được lực lượng từ 36 quốc gia, trong đó có nhiều
nước không thuộc khối NATO so với 19 quốc gia tham gia cuộc chiến tranh
chống Nam Tư. Trong cuộc chiến tranh tại Li-bi, Mỹ đã “ủy quyền” tiến
hành chiến tranh cho các đồng minh.
Hai là,
tận dụng tối đa danh nghĩa Liên hợp quốc, tạo “cơ sở pháp lý” quốc tế
cho các cuộc chiến tranh. Lấy lý do “can thiệp nhân đạo”, “bảo vệ dân
thường” v.v.. Mỹ, Pháp và Anh - những ủy viên thường trực của Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc - đã ra sức vận động để Hội đồng Bảo an thông qua
những nghị quyết mang tính trừng phạt, cưỡng chế theo nội dung được ghi
trong chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc. Nghị quyết của Hội đồng
Bảo an khi được thông qua sẽ là “vỏ bọc” tốt nhất để gây chiến, tránh bị
dư luận trong nước và quốc tế lên án và là cơ sở để huy động lực lượng
tham chiến.
Ba là,
lôi kéo các tổ chức khu vực cùng “vào cuộc”, chú trọng phát triển các
đồng minh chiến lược tại khu vực. Mỹ và NATO coi đây là lực lượng trực
tiếp thực hiện ý đồ chiến lược của mình, thông qua việc lợi dụng vai trò
của các tổ chức này được nêu tại chương VIII của Hiến chương Liên hợp
quốc, để bao vây, cô lập, gây sức ép, cuối cùng là lật đổ những chính
quyền “không được lòng” Mỹ và NATO. Vai trò của Liên minh châu Phi (AU)
đối với Li-bi, vai trò của Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) trong việc
gây sức ép với một số nước Vùng Vịnh Péc-xích, hoặc vai trò của Liên
đoàn A-rập (AL) hiện nay đối với Xy-ri nhằm thực hiện “kịch bản Li-bi”
tại quốc gia này... là những thí dụ minh họa.
Bốn là,
không ngừng mở rộng NATO. Không phải ngẫu nhiên, tại Hội nghị Thượng
đỉnh của NATO (năm 2006), Mỹ đề xuất mở rộng cơ cấu liên minh này bằng
cách kết nạp thêm các quốc gia, như Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a và Hàn Quốc -
những nước hoàn toàn cách xa và không nằm trong khu vực địa lý của khối
Bắc Đại Tây Dương. Hành động vượt ra ngoài phạm vi biên giới các nước
thành viên NATO kéo theo nguy cơ mở rộng chiến tranh, tạo vỏ bọc hợp
pháp cho những toan tính của các thế lực mưu toan áp đặt ý đồ của mình
đối với các dân tộc khác.
Thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, phối hợp giữa kích động bạo loạn, lật đổ với tiến công hỏa lực đường không
Ý
đồ và biện pháp này được thể hiện rõ nhất ở một số nước Bắc Phi, Trung
Đông và được thực hiện bằng những hình thức cụ thể sau:
Thứ nhất,
thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” bên
trong các quốc gia. Nhiều biện pháp được áp dụng để chia rẽ chính quyền,
hỗ trợ lực lượng đối lập trong nước (bao gồm các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức tôn giáo, dân tộc...), dựng ngọn cờ, công nhận lực lượng
đối lập là “đại diện” cho nhân dân; hỗ trợ tài chính, cung cấp vũ khí
trang bị, thậm chí đưa cố vấn tới giúp lực lượng đối lập tổ chức, xây
dựng “quân đội ngầm”, biến các lực lượng này thành lực lượng xung kích
trực tiếp gây bạo loạn, nội chiến.
Sức
mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là của các mạng xã
hội, được triệt để sử dụng nhằm kích động các vấn đề nội bộ, khoét sâu
những yếu kém của chính quyền; đánh lạc hướng dư luận, tạo cớ để tranh
thủ sự ủng hộ trong nước, quốc tế, khu vực; lôi kéo những nước láng
giềng và tập hợp đồng minh... để chuẩn bị cho chiến tranh; lôi kéo, kích
động thanh niên, sinh viên gây bạo loạn hoặc thông qua bầu cử, trưng
cầu dân ý để lật đổ chính quyền hợp pháp, dựng nên chính quyền thân Mỹ
và phương Tây.
Thứ hai, giành
quyền làm chủ tuyệt đối trên không, kết hợp hỏa lực đường không với
tiến công trên bộ và nổi dậy bên trong. Để tiến công hỏa lực đường không
có hiệu quả, trước tiên cần đưa ra lý lẽ, những “chứng cớ” và vận động
ráo riết Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ra nghị quyết lập “vùng cấm bay”
nhằm giành quyền làm chủ tuyệt đối trên không; tiếp đó, không quân NATO
khai thác tác dụng của các phương tiện vũ trụ, sử dụng vũ khí điều khiển
chính xác, phóng từ xa. Tùy theo mục đích chiến lược và khả năng chống
trả của đối phương, Mỹ và đồng minh NATO có thể tiến công hỏa lực đường
không, hoặc kết hợp tiến công đường không với tiến công trên bộ, hỗ trợ
lực lượng nổi dậy bên trong nhằm tiêu diệt, lật đổ chính quyền, lập
chính quyền mới theo sự “dàn xếp” của Mỹ và đồng minh.
Thứ ba, xu
hướng hạn chế tối đa sử dụng bộ binh. Trong chiến tranh Áp-ga-ni-xtan
(năm 2001), Mỹ đã sử dụng lực lượng Liên minh phương Bắc nhanh chóng bao
vây và tiến công lực lượng Ta-li-ban ở các thành phố chiến lược phía
bắc nước này. Chỉ sau hơn hai tuần (từ ngày 28-10 đến 12-11-2001), Liên
minh phương Bắc đã giành quyền kiểm soát nửa phần phía bắc lãnh thổ
Áp-ga-ni-xtan, và một ngày sau đó, đã chiếm được Thủ đô Ca-bun. Mỹ sử
dụng số lượng hạn chế lực lượng tác chiến đặc biệt đánh thăm dò, làm
chuyên gia huấn luyện và hướng dẫn lực lượng này trực tiếp tấn công lật
đổ chính quyền Ta-li-ban, thành lập chính quyền thân Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan.
Trong
chiến tranh I-rắc (năm 2003), Mỹ tập trung hỏa lực đường không đánh phá
ác liệt các mục tiêu trọng yếu ngay ở thủ đô Bát-đa bằng chiến dịch
“Cơn sốc và nỗi kinh hoàng”, phát huy khả năng cơ động cao của lục quân
bằng bộ binh cơ giới và máy bay trực thăng thọc sâu, áp sát Bát-đa, sau
đó tận dụng kết quả đánh phá của không quân, tận dụng thời cơ nhiều
tướng lĩnh, quân lính I-rắc đầu hàng, đột phá nhanh, đánh chiếm các mục
tiêu có ý nghĩa quyết định trong thành phố, kết thúc cơ bản chiến tranh,
sau đó mới tổ chức mở rộng ra các khu vực khác.
Thực
hành tiến công trên bộ bằng lực lượng cơ động nhanh, đột kích mạnh,
“đánh lướt” qua các mục tiêu vòng ngoài, tiến thẳng vào mục tiêu chủ
yếu, quyết định; sử dụng lực lượng chống đối bên trong phối hợp trong -
ngoài cùng đánh, hoặc tiến hành bạo loạn phối hợp với quân Mỹ đánh chiếm
một số khu vực tác chiến, tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu của Mỹ
tập trung đánh chiếm mục tiêu quyết định.
Nếu
trong chiến tranh Vùng Vịnh (năm 1991), Mỹ tiến hành chiến dịch tập
kích đường không dài ngày trước khi tiến hành chiến dịch trên bộ; trong
chiến tranh I-rắc (năm 2003), Mỹ và đồng minh tập kích đường không gần
như đồng thời với tiến công trên bộ, thì đến cuộc chiến tại Li-bi (năm
2011), NATO chỉ tiến công đường không mà không mở chiến dịch trên bộ.
Đây là điểm mới đáng chú ý, bởi Mỹ và các đồng minh NATO muốn hạn chế
tối đa thương vong binh sĩ, tránh bị dư luận trong nước đòi rút quân về
nước, hoặc kêu gọi chấm dứt chiến tranh.
Thứ tư, tận
dụng ưu thế của vũ khí công nghệ cao. Sử dụng vũ khí công nghệ cao, chủ
yếu dựa vào tập kích hỏa lực đường không và tên lửa từ tàu hải quân
nhằm vô hiệu hoá khả năng và làm tê liệt ý chí đề kháng của đối phương
là một trong những đặc trưng trong tác chiến của NATO.
Trong
chiến tranh chống Nam Tư, Mỹ và NATO sử dụng hỏa lực đường không hiện
đại nhất đánh vào các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế của đất nước
này. Tại Áp-ga-ni-xtan, Mỹ và đồng minh thực hành tiến
công hỏa lực đường không tập trung vào một số thành phố trọng điểm và
căn cứ huấn luyện, ẩn náu của Ta-li-ban và An Kê-đa, kết hợp vũ khí
thông minh có hàm lượng công nghệ cao với vũ khí truyền thống. Trong
chiến tranh I-rắc, Mỹ đã thực hiện phương pháp tiến công mới “cơn
sốc kinh hoàng” để tiêu diệt lãnh đạo cấp cao I-rắc bằng vũ khí, trang
bị kỹ thuật công nghệ cao, có độ chính xác lớn, sức công phá mạnh, kể cả
một số loại bị Liên hợp quốc cấm.
Trong
các cuộc chiến tranh có “hàm lượng” vũ khí công nghệ cao được Mỹ và
NATO sử dụng, mức độ hủy diệt của cuộc chiến tranh sau bao giờ cũng cao
hơn cuộc chiến tranh trước. Nếu trong chiến tranh Vùng Vịnh (năm 1991),
Mỹ và Liên quân mới sử dụng 8% số vũ khí công nghệ cao trong tổng số vũ
khí sử dụng, thì trong những cuộc chiến sau đó, tỷ lệ này ngày càng tăng
lên: trong chiến dịch “Con cáo sa mạc”
năm 1998, tỷ lệ đó là trên 70%; trong chiến tranh Nam Tư,
Áp-ga-ni-xtan, I-rắc: trên 90%. Trong cuộc chiến tranh tại Li-bi vừa
qua, Mỹ và NATO đã sử dụng đòn tiến công hỏa lực đường không cường độ
cao, uy lực lớn nhằm nhanh chóng làm suy yếu cục bộ hoặc làm quân đội
của chính quyền của ông M.Ca-đa-phi tê liệt hoàn toàn, không thể khôi
phục hệ thống hỏa lực, chỉ huy, thông tin liên lạc; đồng thời, NATO chi
viện hỏa lực, trực tiếp hỗ trợ các lực lượng của Hội đồng chuyển tiếp
quyền lực (NTC) tác chiến trên bộ, kết thúc chiến tranh mà không phải
dùng đến lực lượng bộ binh.
Những
gì Mỹ và NATO tiến hành trong các cuộc chiến tranh trong hơn một thập
niên đầu thế kỷ XXI cho thấy, Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược toàn cầu,
răn đe các nước không đi theo quỹ đạo của mình, kiềm chế, ngăn chặn ảnh
hưởng của Trung Quốc, sự lớn mạnh của Nga; tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở
khu vực và trên thế giới. Chiến lược quốc phòng của Mỹ được công bố
tháng 1-2012 cho thấy, mục tiêu duy trì ưu thế quân sự vượt trội cũng
như vai trò duy nhất lãnh đạo thế giới của Oa-sinh-tơn trong thế kỷ XXI
là bất di bất dịch. Trong một vài thập niên tới, sức mạnh quân sự vẫn sẽ
là công cụ mà Mỹ và NATO sẵn sàng sử dụng khi có thời cơ và điều kiện
bảo đảm chắc thắng để duy trì vị thế, ảnh hưởng và quyền lực của mình.
Những điều suy ngẫm
Trong
những năm tới, tuy ít có khả năng xảy ra chiến tranh lớn; hòa bình, hợp
tác và phát triển vẫn giữ xu thế chủ đạo; song về cục bộ, thế giới vẫn
chưa ổn định, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố...
vẫn tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển,
đảo; xung đột sắc tộc làm tăng thêm những điểm nóng ở khu vực, có khả
năng xảy ra xung đột.
Đánh
giá về tình hình thế giới, Đảng ta nhận định: “Tuy hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang,... vẫn diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp”(1).
Chính vì vậy, chúng ta cần tăng cường sức mạnh quốc phòng sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc, trong đó tập trung giữ vững ổn định chính trị - xã hội, coi
trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, củng cố vững chắc lòng tin của nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào chế độ; tăng cường đấu
tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng; tăng cường tập hợp, giáo dục
thanh niên; khắc phục bất bình đẳng và tiêu cực trong xã hội, không để
các thế lực thù địch lôi kéo, kích động gây biểu tình, bạo loạn; không
để “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” từ trong nội bộ ta. Tập trung phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường nội lực
là những điều kiện có tính quyết định để chúng ta có thể chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế.
Bên
cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc
phòng, nhằm góp phần ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; đặc biệt
chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; không vì quan
hệ với một nước lớn này mà làm tổn hại quan hệ với các nước lớn khác;
lại càng không ảo tưởng và không để hiểu lầm là chúng ta đi với nước này
để làm “đối trọng”, chống lại nước khác; cần tạo thế đan xen lợi ích
giữa các nước lớn trong quan hệ với Việt Nam. Tăng cường vai trò của
Việt Nam trong ASEAN, tránh tình trạng tổ chức này bị một số nước lớn
lợi dụng, lôi kéo. Tiếp tục tăng cường quốc phòng - an ninh, tăng cường
khả năng phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc, thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; ngăn chặn kịp thời, không để
hình thành lực lượng đối lập, nhanh chóng vô hiệu hóa các lực lượng này
trước khi thế lực thù địch bên ngoài kịp trợ giúp và cấu kết hành động
hòng chống phá ta./.
-------------------------------------------
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 149 - 150