Bài
viết của PGS.TS Vũ Dương Huân phân tích bản chất các lập luận của Trung
Quốc về cái gọi là "chủ quyền lịch sử”của họ đối với Hoàng Sa, Trường
Sa và vùng biển nằm trong đường lưỡi bò.
Tóm tắt
Tranh chấp hiện nay ở Biển Đông[1]
giữa các nước/bên có liên quan gần đây trở nên căng thẳng hơn khi mà
các bên tranh chấp gia tăng hoạt động thực hiện quyền kiểm soát, quản lý
của mình đối với các vùng biển, đảo mà họ yêu sách chủ quyền, dẫn đến
nhiều vụ va chạm và đấu khẩu, đặc biệt là giữa Trung Quốc với Việt Nam
và Phi-líp-pin. Đáng chú ý là trong số các nước/bên tranh chấp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì Trung Quốc và Việt Nam đều khẳng định
rằng mình đã khám phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền lâu đời tại các
quần đảo này. Bài viết này tập trung phân tích bản chất các lập luận của
Trung Quốc về cái gọi là "chủ quyền lịch sử”của họ đối với Hoàng Sa,
Trường Sa và vùng biển nằm trong đường lưỡi bò.
Vài nét khái quát về Luật quốc tế liên quan đến thụ đắc lãnh thổ
"Thụ
đắc lãnh thổ" là việc thiết lập ranh giới địa lý chủ quyền của một quốc
gia đối với một vùng lãnh thổ mới theo những phương thức phù hợp với
nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Việc xác lập chủ quyền quốc gia đối
với một vùng lãnh thổ phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định của luật
pháp quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc về thụ đắc lãnh thổ.
Nguyên
tắc thứ nhất là "bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia”. Đó là quyền
tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền tự chủ của
quốc gia trong các quan hệ quốc tế, là thuộc tính chính trị pháp lý
không tách rời của quốc gia.
Nguyên
tắc thứ hai là "cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Nguyên
tắc này hình thành trong đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít và được
khẳng định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ). Tiếp đó Nghị quyết
26/25 năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế đã quy định: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối
tượng của việc thụ đắc bởi một quốc gia khác bằng việc đe dọa hoặc sử
đụng vũ lực. Việc thụ đắc lãnh thổ bằng việc đe đoạ hoặc sử dụng vũ lực
không được thừa nhận là hợp pháp”. Cùng với sự phát triển các mối quan
hệ quốc tế, nội dung của nguyên tắc này cũng được mở rộng, bao quát cả
việc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ phi
vũ trang. Định ước Hen-xin-ki năm 1975 viết: "Các quốc gia tham gia sẽ
khước từ sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với các quốc gia
thành viên khác, khước từ tiến hành hành vi về kinh tế".[2]
Nguyên
tắc thứ ba là giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Nguyên tắc
này được ghi nhận tại Khoản 2, Điều 2 Hiến chương LHQ, Điều 279, Điều
299 Công ước luật Biển năm 1982...
Nguyên
tắc thứ tư là "dân tộc tự quyết”, được thể hiện trong nhiều văn bản
pháp lý quốc tế quan trọng như Hiến chương LHQ, Tuyên bố của Đại hội
đồng LHQ về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia
(1970)... Theo nguyên tắc này thì mọi sự thay
đổi lãnh thổ phải phải dựa trên ý chí dân cư sinh sống trên lãnh thổ đó.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không loại trừ những phương thức xác lập chủ
quyền lãnh thổ khác.
Nguyên
tắc thứ năm là “chiếm hữu thật sự”. Vào thế kỷ VIII-XV, Đức Giáo hoàng
có quyền ban quyền chiếm hữu. Vào thế kỷ XVI, nguyên tắc này bị phản đối
và xuất hiện một phương thức mới đó là quyền khám phá. Sau này, người
ta bổ sung một điều kiện nữa, là sự chiếm hữu tượng trưng. Quốc gia
chiếm hữu phải để lại trên lãnh thổ một cái gì tượng trưng cho ý chí
muốn chiếm hữu của mình như bia đá, cờ, cột mốc... Đến thế kỷ XVIII, tại
Hội nghị Berlin 1885 về phân chia đất ở châu Phi, đã hình thành nguyên
tắc chiếm hữu thực sự và thi hành chủ quyền trên lãnh thổ được chiếm
hữu. "Nếu phát hiện mà không có những hành vi xác lập chủ quyền, không
có hành động chứng tỏ vùng đất được quản lý bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì phát hiện chỉ là phôi thai tạo ra danh nghĩa ban đầu mà thôi.
Vì vậy cần có những hành động xác lập, củng cố và thực hiện chủ quyền
quốc gia một cách thực sự trên vùng đất đó bởi cơ quan nhà nước".[3] Định ước Berlin[4]
cũng đề ra quy định: quốc gia chiếm hữu phải thông báo sự chiếm hữu của
mình cho các quốc gia khác. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ
quyền sau này đã trở thành tập quán quốc tế và là cơ sở cho sự chiếm
hữu lãnh thổ vô chủ trong luật quốc tế hiện đại. Đó cũng là một phương
pháp thụ đắc lãnh thổ Tuy nhiên, thông báo không phải là một tập quán
quốc tế, chỉ áp dụng cho trường hợp chiếm hữu thuộc phạm vi của Định ước
Berlin.
Như
vậy, theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu
tố. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hòa
bình, đồng thời thực thi một cách liên tục chủ quyền trên lãnh thổ đó .
Còn yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định thực sự chiếm
hữu vùng lãnh thổ đó. Ngoài ra, trong thực tiễn pháp lý quốc tế còn có
khái niệm từ bỏ lãnh thổ. Sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả hai yếu
tố vật chất và tinh thần.
Tuy
nhiên, xuất phát từ đặc thù riêng của chế định lãnh thổ , không phải
bất kỳ một sự thụ đắc lãnh thổ nào cùng đều phải tuân thủ tất cả các
nguyên tắc của luật pháp quốc tế cũng như điều kiện chiếm hữu. Một sự
chiếm hữu lãnh thổ hợp pháp phải có đủ ba điều kiện như sau:
Một là, đối tượng của sự chiếm hữu lãnh thổ phải là đất vô chủ (res nullius), hoặc là đã bị chủ từ bỏ (res derelicta).
Hai là, người chiếm hữu phải là một quốc gia, chứ không phải là tư nhân
Ba là, phải tuân thủ các phương pháp thụ đắc lãnh thổ sau: chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupation và effectivité), qua chuyển nhượng (cession), do tác động tụ nhiên (acretion), thời hiệu (acquisited prescription), củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử. . . Phương pháp "củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng nếu quốc gia đã sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối của một quốc gia khác.
Những
tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, chẳng
hạn như trong những bản án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo
Minquier và Ecrehous . . .
Trung Quốc có "chủ quyền lịch sử" đối với Hoàng Sa và Trường Sa không?
Trung
Quốc cho rằng họ có "chủ quyền lịch sử” đối với các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Sách Trắng của Trung Quốc về chủ quyền đối với quần đảo
Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa), cũng như một số tài
liệu nghiên cứu (tiêu biểu là cuốn Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải của Trung Quốc của
Hàn Chấn Hoa) đã đưa ra kết luận rằng Trung Quốc là nước đầu tiên phát
hiện, khai thác và cai quản quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ hàng nghìn
năm nay. Để chứng minh họ dựa vào một số sử liệu sau:
Thứ
nhất, là cuốn Dị vật chí, có từ thời Đông Hán (từ năm 25 đến 220 sau
Công nguyên) và nay đã thất truyền. Một số tác giả thuộc các triều đại
Tống, Minh, Thanh đã trích dẫn như sau "Có những đảo nhỏ, cồn cát, đá
ngầm, và băng cát tại Nam Hải, nơi đó nước cạn và đầy đá nam châm…”[5].
Nội dung này rất mơ hồ vì không nói rõ tên đảo. Học giả Hàn Chấn Hoa
đã dựa vào đó cho là Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).
Thứ
hai, là cuốn Nam châu Dị Vật Chí (thời Tam Quốc 220-265) mô tả về các
đảo đá và cát ở Biển Đông, trong đó có đoạn nói đến chỗ nước nông và có
đá nam châm nguy hiểm cho tầu bè qua lại.[6]
Thứ
ba, là cuốn Zuo Zhuan (thời Xuân Thu), có đoạn viết: "Triều đại vẻ vang
của nhà Chu trấn an dân man di để viễn chinh vùng Nam Hải để làm sở hữu
của Trung Hoa…”[7] Ờ đây chỉ nói Nam Hải chung chung, không nhắc đến đảo nào.
Thứ
tư là cuốn Chư Phiên Chí (thế kỷ XIII), có đoạn mô tả vị trí địa lý đảo
Hải Nam như sau: "Nam đối diện với Chiêm Thành, phía Tây nhìn sang Chân
Lạp, Đông thì Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường xa xôi không bờ
đại dương vô tận…”[8]. Với đoạn mô tả này không thể khẳng định Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường thuộc Trung Quốc.
Thứ
năm, là cuốn Hải Lục (On the Sea) của tác giả Hoàng Chung thuộc đời
Minh có đoạn chép như sau: "Vạn Lý Trường Sa nằm Ở Đông Nam của Vạn Lý
Thạch Đường…”[9].
Ở đây cũng không nói lên điều gì liên quan đến chủ quyền của Trung
Quốc. Hơn thế nữa, có tài liệu còn thừa nhận có sự liên quan giữa các
quần đảo đó với Việt Nam. Thứ sáu, là cuốn Hải Lục của Vương Bình Nam
(1820-1842), có đoạn viết: "Lộ trình phía ngoài được nối liền với lộ
trình phía trong bởi Vạn Lý Trường Sa nằm giữa biển. Chiều dài của quân
đảo khoảng vài ngàn dặm. Nó là bức màn phòng thủ phía ngoài của An Nam”[10].
Dựa
vào các tài liệu nói trên, Trung Quốc khẳng định rằng họ đã khám phá ra
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đời nhà Hán (năm 206 trước Công
nguyên). Trong khi đó, cũng lại có một số tác giả người Hoa khác xác
định là những tài liệu sớm nhất nói về sinh sống của người Trung Quốc
trên những đảo này, thuộc đời nhà Tống (thế kỷ XIII)[11].
Các trích đoạn sử liệu mà Trung Quốc đã đưa ra mô tả không rõ ràng một
số vị trí trong lộ trình đi ngang qua Biển Đông của các tầu thuyền Trung
Hoa mà thôi. Mặt khác, các trích dẫn trước thế kỷ XIII cũng chỉ nói đến
biển mà họ gọi là Nam Hải, không có bất kỳ tên đảo nào. Các tài liệu từ
thế kỷ XIII mới bắt đầu nêu tên đảo, nhưng không có tài liệu nàn nói
đến Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha). Nhiều chỗ cho thấy rõ ràng
Wanlishitang (Vạn Lý Thạch Đường) mà Trung Quốc nói là Nansha (Nam Sa)
thực tế không phải là Nansha mà là đảo khác. Không có một tài liệu nào
nói đến tên Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa) và chủ quyền của Trung
Quốc trên hai quần đảo này.[12]
Những sách lịch sử và địa lý của Trung Quốc nhắc đến rất nhiều tên như
Qizhou yang, Quianlishitang, Qianli Chang sha, . Wanlishitang,
Jiuruluozhou, Zizhousan Có không ít mâu thuẫn trong lập luận của các học
giả Trung Quốc. Dựa vào câu trích dẫn trong sách Hải Lục, nếu chấp nhận
hai cái tên Qizhou Yang và Wanlishitang lần lượt ám chỉ Trường Sa
(Nansha) và Hoàng Sa (Xisha), thì Vạn Lý Trường Sa phải là Nansha, còn
Vạn Lý Thạch Đường phải là Xisha. Song, cuốn Nguyên Sử thì lại giải
thích Vạn Lý Thạch Đường (Wanlishitang) là Trường Sa (Nansha) và Qizhou
Yang là Hoàng Sa (Xisha). Nếu đối chiếu với đoạn trích sau của cuốn sách
Chư Phiên Chí “ phía Đông Hải Nam là Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch
Đường", thì có thể xác định Vạn Lý Thạch Đường là Macclesfield Bank.[13]
Một đoạn trích khác trong cuốn Nguyên Sử: " . . . thuyền đi qua Qizhou
Yang và Wanlishitang, ngang Jiaozhi (Giao Chỉ) và Zhangcheng (Quy
Nhơn),…” cho phép khẳng định Wanlishitang thực ra là Macclesfield Bank.
Nếu theo thứ tự trước sau trong lộ trình thì Wanlishitang không thể là
Trường Sa (Nansha), mà là Macclesfield Bank vì thuyền không thể đi ngang
qua Nansha trước khi đi qua Giao Chỉ được. Vậy mà, giờ đây, Trung Quốc
nói rằng tất cả những tên đó đều ám chỉ Xisha và Nansha? Nhận định đó
quả thực rất khó thuyết phục. Một bộ chính sử lớn của Trung Quốc là Minh
sử khẳng định dưới thời nhà Minh các đảo lớn như Đài Loan, Bành Hồ liên
quan trực tiếp đến an ninh của đất nước vẫn chưa thuộc lãnh thổ Trung
Quốc và tuyên bố duyên hải là phía Đông lục địa Trung Quốc và đảo Hải
Nam. Những đảo nhỏ xa xôi, heo hút như quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
không thuộc Trung Quốc là điều dễ hiểu.[14]
Xét
ở góc độ thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc
đưa ra những dẫn chứng bao gồm các cuộc tuần tra, cuộc viễn chinh và
những di vật đào bới được từ các đảo. Đoạn trích sau đã được phía Trung
Quốc sủ dụng “Chính quyền nhà Chu thuộc thời Xuân Thu không những chinh
phục những “dân man rợ” ở phía Nam, mà cũng tổ chức những cuộc viễn
chinh trên những đảo của biển Nam Hải để chiếm làm đất Trung Hoa…”.[15]
Đây không đoạn trích từ tài liệu lịch sử , mà là kết luận của giáo sư
Wang Hengjie thuộc Trung tâm nghiên cứu các sắc tộc thiểu số, vào năm
1991. Kết luận của nhà nghiên cứu được rút ra dựa trên việc khảo cổ trên
quần đảo Hoàng Sa. Nhận định thiếu cơ sở khoa học. Một đoạn trích khác
của tác giả Shen trong Hậu Hán thư có ghi: “Chen Mao được bổ nhiệm làm
quan Thái thú ở tỉnh Giao Chỉ (Jiaozchi) đã có những cuộc tuần tiễu và
thám thính trên (các đảo của) biển Nam Hải”.[16]
Đoạn trích này cũng không có chỗ nào nói đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà
chỉ là thám thính Nam Hải mà thôi. Trong cuốn Nam châu dị vật chí
(Nanzhou Yiwu Zhi), Shen kể về những lính thủy nhà Hán đi viễn chinh từ
bán đảo Ma-lai-xi-a trở về Trung Hoa: “đi thuyền về phía Đông Bắc,
người ta gặp rất nhiều đảo nhỏ, đã ngầm, bãi cát ngầm, trở nên rõ rệt
tại biển Nam Hải, nơi đây nước cạn và có nhiều đã nam châm”.[17]
Ở đây cũng không hề có chỗ nào nói đến viễn chinh hay đi tuần quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ nói chung chung là viễn chinh tại các vùng
như Ma-lai-xi-a, Bornéo hoặc đi thuyền qua Biển Đông mà thôi. Ở một chỗ
khác, dựa vào sách Quảng Đông tổng chí (General Record of Quangdong)
của Hao Yu-lin, quan trông coi các vấn đề biển Nam Hải thời đó, có đi
tuần tiễu và thám thính tại biển Nam Hải (xing bu ra hai), Shen kết
luận: chính quyền địa phương thời nhà Tấn đã gửi tàu đi tuần tiễu trên
vùng biển, thực hiện chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.[18]
Cũng như trên, tác giả không trích trực tiếp đoạn nào từ Quảng Đông
tổng chí ghi lại sự kiện trên, chỉ trích bốn chữ tiếng Trung được ghi
trong dấu ngoặc là “xing bu ra hai”. Trung Quốc nêu rằng thế kỷ XV thời
Minh, nhà thám hiểm Cheng Ho (Trịnh Hòa) đã đi quan Biển Đông 7 lần và
khi trở về đã đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ.[19] Tuy nhiên, những chuyến đi này hoàn toàn không hề có sự chiếm hữu hai quần đảo nói trên.[20]
Mục đích các chuyến đi của Trịnh Hòa là để biết địa hải, tìm mối giao
thương và phô trương lực lượng với các quốc gia trong vùng, chư hầu của
Trung Hoa.[21] Tác giả Samuels kết luận rằng ngay trong thời ấy các đảo vẫn không được Trung Hoa chú ý tới.[22]
Rõ
ràng những trích đoạn sử liệu ở trên chỉ nói đến những chuyến đi thám
thính biển Nam Hải chứ không phải là những chuyến đi thực hiện chủ quyền
ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Như
vậy, có thể kết luận rằng những trích dẫn sử liệu trước thế kỷ XIII của
Trung Quốc cho thấy các thuyền của Trung Quốc có đi lại trên biển Nam
Hải, song không nói đến một tên đảo nào trong hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Những tài liệu đầu tiên nêu tên đảo là những tài liệu cuối
đời nhà Nguyên và dưới đời nhà Tống (thế kỷ XIII). Tuy nhữngtài liệu này
nói đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường, song không cho biết rõ
được có phải là là Xisha và Nansha hay không, nhất là Vạn Lý Thạch
Đường, được tả nằm ở phía Đông đảo Hải Nam, đương nhiên không phải là
Nansha, mà có thể là Macclesfield Banh. Các sử liệu nói trên cũng chỉ
cho thấy Trung Quốc đã thực hiện các cuộc thám thính và viễn chinh trên
Biển Nam Hải, đặc biệt là tới vùng Borneo của Ma-lai-xi-a, không chứng
minh được rằng họ đã thực sự tiến hành tuần tiễu và thực hiện chủ quyền
tại các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa. Các lập luận dựa vào một số di chỉ
khảo cổ trên đảo Hoàng Sa (gồm một số hiện vật đồ gốm . . . có tuổi
khoảng từ năm 420 cho đến thời nhà Thanh) để kết luận chủ quyền của
Trung Quốc trên các đảo đó cúng không đủ cơ sở chắc chắn cả về khoa học
lẫn pháp lý. Những hiện vật đó nếu quả thật là có chỉ nói lên rằng đã có
những cá nhân hoặc nhóm người có mặt trên đảo. Họ có thể là người Trung
Quốc, nhưng cũng có thể là người từ Việt Nam tới đó để sinh sống hoặc
chỉ ghé qua trên đường đi biển làm ăn mà thôi. Mặt khác, về mặt pháp lý
chưa đủ cơ sở để khẳng định được đó là sự chiếm hữu lãnh thổ do một quốc
gia thực hiện. Những gì họ đã làm là chỉ đi ngang, tình cờ thấy, không
hề chiếm hữu và thực thi chủ quyền, để rồi mấy thế kỷ sau khi quốc gia
khác chiếm, mới cho rằng mình đã khám. Thực ra, Trung Quốc chỉ mới
“biết” chứ không phải khám phá.[23]
Giả dụ rằng Trung Quốc đã khám phá thì điều này cũng chỉ tạo cho Trung
Quốc cái quyền khám phá, một thứ quyền phôi thai (inchoatetitle), nhưng
Trung Quốc đã không hề chiếm hữu các đảo, dù là chiếm hữu tượng trưng,
không hề thực thi chủ quyền đối với các đảo. Tòa án quốc tế đã phán
quyết nhiều lần rằng quyền khám phá phải được hoàn tất bởi sự chiếm hữu,
trong một thời gian tương đối, thì mới có hiệu lực.[24]
Giáo sư người Mỹ Marwyn Samuels nhận định rằng Trung Quốc cuối nhà Minh
và nhà Thanh không quan tâm đến vùng biển ngoài khơi mà chi chú tâm đến
việc trấn giữ biên cương nội địa, vùng Tân Cương, Mông Cổ và biên giới
phía Bắc, nên lực lượng hải quân rất kém.[25]
Mặc dù có lực lượng hải quân hùng mạnh vào thời Nguyên, song Trung Quốc
cũng vẫn chưa để ý đến những đảo ngoài khơi biển Đông và không có ý
định chiếm hữu chúng.[26]
Thậm chí, các tầu thuyền của Trung Quốc không dám đến gần các đảo này
vì sợ đá ngầm và mắc cạn. Đã có câu tục ngữ truyền trong thủy thủ người
Hoa rằng: "Trên đường đi ra thì sợ Thất Châu (tức là Thất Châu Dương mà
Trung Quốc bây giờ cho là Xisha), trên đường đi về thì hãi Côn Lôn".[27]
Chính vì vậy, trong một thời gian dài, Trung Quốc đã im lặng và không
phản đối việc Việt Nam thực thi chủ quyền trên các đảo này, mặc dù biết
rõ những hoạt động của Hải Đội Hoàng Sa và Hải Đội Bắc Hải của các triều
đình phong kiến Việt Nam. Nó cũng được kiểm chứng bởi vụ đắm tàu La
Bellona và Imeji Maru.[28]
Như vậy, thực tế lịch sử cho thấy rằng Trung Quốc không những đã không thực thi chủ quyền, mà gần như mặc nhiên công nhận trên thực tế chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Hiệp ước Pháp - Thanh ngày 26/6/1887
Trung
Quốc còn dẫn chiếu Hiệp ước Pháp - Thanh, ký ngày 26/6/1887 tại Bắc
Kinh, phân chia biên giới giữa Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam để biện
luận cho yêu sách chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Điều 3
của bản Hiệp ước ghi: "Từ Quảng Đông, những điểm tranh chấp nằm từ phía
Đông đến phía Tây Bắc của Móng Cái ngoài biên giới đã được hai phái bộ
xác định, có thề coi là thuộc về Trung Quốc. Những hòn đảo nằm ở phía
đông dọc đường kinh tuyến đông 105°43’ của Paris, có nghĩa là trục Bắc
Nam đi qua điểm phía Đông của đảo Tch'a Kou hay Ouan-Chan (Trà Cổ) và
làm thành đường biên giới, cũng thuộc về Trung Quốc. Các đảo Go-tho và
các đảo khác nằm phía Tây của đường kinh tuyến thuộc về An Nam".[29]
Dựa vào Điều khoản này, Trung Quốc cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở phía Đông của ranh giới ấy nên thuộc về Trung Quốc.
Giải
thích như vậy của Trung Quốc là hoàn toàn không đúng với tinh thần của
Hiệp ước. Thực tế, Hiệp ước 1887 được ký kết căn cứ vào Điều 3 của Hiệp
ước Pháp-thanh ngày 6/9/1885 nhằm giải quyết xung đột giữa hai bên liên
quan đến Việt Nam. Sau khi Pháp - Thanh ký Hiệp ước 1885 về việc Thanh
công nhận ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam, chính quyền Quảng Đông, Quảng
Tây và Vân Nam vẫn cho quân vượt biên giới - sang Bắc Việt Nam. Phía
Pháp và nhà Thanh đã đi đến thỏa thuận sẽ lập một Ủy ban hoạch định biên
giới để giải quyết tình hình trên. Sau đó, hai bên đã xác định đoạn
biên giới với Quảng Tây ổn thỏa, song không nhất trí được hai đoạn biên
giới Quảng Đông và Vân Nam. Từ đó mới có Hiệp ước 1887 với mục đích giải
quyết bất đồng này. Ở Quảng Đông, có quân thổ phỉ từ Trưng Hoa sang tập
trung ở vùng Bạch Long Vĩ và những đảo quanh đó, nên Pháp đã đưa quân
đến chiếm đóng. Trung Hoa phản đổi, đòi vùng này là vùng cửa Trung Hoa,
do đó, mới xảy ra sự tranh chấp[30].
Hiệp ước 1887 được ký chủ yếu liên quan đến ranh giới đất liền và ranh
giới phân chia những đảo nhỏ không quan trọng ở gần bờ biển Việt Nam và
Trung Quốc. Hiệp ước khẳng định rõ điểm khởi đầu của đường phân chia
ranh giới đi qua mũi đông của đảo Trà Cổ, song không chỉ điểm cuối bởi
vì bề dài của nó tuỳ thuộc vào sự hiện hữu của những đảo gần bờ biển:
Nếu theo cách hiểu của Trung Quốc để kéo dài đường ranh giới tới giao
điểm với bờ biển miền trung Việt Nam thì tất cả các đảo ở phía Nam của
Huế đều thuộc chủ quyền của Trưng Quốc.[31]
Trong lập luận của Trung Quốc có mâu thuẫn: một mặt nói Hiệp ước 1887
áp dụng cho Hoàng Sa và Trường Sa, là những đảo nằm xa ngoài khơi nhưng
mặt khác, khi bàn về biên giới vùng Bắc Bộ, họ lại khẳng định rằng Hiệp
ước này chỉ phân chia "những đảo ở vùng vịnh Bắc Bộ", chứ không phải là
biên giới biển.
Như
vậy, mục đích của Hiệp ước 1887 là hoạch định biên giới giữa Việt Nam
với tỉnh Quảng Đông và Vân Nam của Trung Quốc và đường biên giới hoạch
định theo Điều 2 của Hiệp ước 1887 chỉ giới hạn ở biên giới miền Bắc
Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ mà thôi. Tên Hiệp “Convention relative à
délimination de la frontier entre la Chine et le Tonkin”[32]
(Công ước phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Việt Nam) cũng đã
nói rõ mục đích này. Mối quan tâm lớn của Pháp và Nhà Thanh lúc đó thực
ra là vấn đề thương mại.[33] Sự tranh chấp Pháp – Thanh không liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Cái gọi là sự "khước từ chủ quyền" của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Trung
Quốc đưa ra ba sự kiện sau đây để khẳng định cái gọi là Việt Nam đã
"khước từ chủ quyền” trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Sự
kiện thứ nhất liên quan đến phát biểu ngày 15/6/1956 của ông Ung Văn
Khiêm, Thư trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), khi
tiếp Đại biện lâm thời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam,
được phía Trung Quốc cho rằng đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là
"thuộc lãnh thổ Trung Quốc"'.
Sự
kiện thứ hai là bức Công hàm của Thủ tướng phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958
liên quan đến việc Trung Quốc tuyên bố ngày 04/9/1958 nới rộng vùng
lãnh hải của họ ra 12 hải lý.
Sự
kiện thứ ba là Tuyên bố của Chính phủ VNDCCH ngày 09/05/1965 liên quan
tới vùng chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.
Vậy
thực chất vấn đề này là thế nào và tính chất pháp lý của lập luận mà
Trung Quốc nêu ra dựa vào các tuyên bố của phía Việt Nam nói trên đến
đâu?
Trước
hết, cần đặt các tuyên bố nói trên của đại diện chính phủ Việt Nam
trong bối cảnh thực tế tình hình những năm 1950- 1960 để hiểu đúng ý
nghĩa và giá trị của chúng. Cụ thể là vào thời điểm những năm đó, VNDCCH
đang phải chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ xâm lược. Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa (CHNDTH) đang đoàn kết và ủng hộ tích cực nhân dân Việt Nam
tiến hành kháng chiến chống lại đế quốc Mỹ. Quan hệ giữa VNDCCH và
CHNDTH lúc đó là quan hệ đồng minh giữa hai nước XHCN anh em. Trước sự
biểu dương lực lượng của Hạm đội 7 Mỹ trên eo biển Đài Loan lúc đó, Công
hàm của Thủ tướng phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 là một cử chỉ của Chính
phủ Việt Nam ủng hộ Trung Quốc về mặt chính trị chống lại sự khiêu khích
của Mỹ, bởi vì việc nới rộng lãnh hải từ 3 hải lý ra 12 hải lý sẽ đẩy
tàu chiến Mỹ ra xa ngoài biên giới CHNDTH hơn và làm giảm bớt khả năng
đe dọa của chúng đối với lãnh thồ CHNDTH.[34]
Tuyên bố ngày 09/5/1965 liên quan đến vùng chiến đấu cũng vậy, nó xảy
ra vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào giai đoạn khẩn
trương, với sự can thiệp quân sự trực tiếp của hàng chục vạn quân Mỹ.
Một cuộc chiến tranh khốc liệt bắt đầu lan rộng ra cả hai miền Nam - Bắc
Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, Tuyên bố của VNDCCH nhằm hạn chế khả
năng Mỹ có những hành động quân sự ngoài lãnh thổ Việt Nam và Đông
Dương, xâm phạm vào Trung Quốc.
Thứ hai, vì
tập trung tất cả cho cuộc kháng chiến giải phóng đất nước, nên chúng ta
chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề biền, đảo và biên giới lãnh thổ, đã
quá tin cậy những người đồng chí anh em Trung Quốc và có phần thiếu
cảnh giác trước mưu đồ lâu dài của họ.
Thứ ba, xét về mặt pháp lý, thì những tuyên bố nói trên của Việt Nam không phải là các cam kết quốc tế có tính ràng buộc.
Theo
Hiệp Định Giơ-ne-vơ 1954, Việt Nam bị chia làm hai miền với ranh giới
là vĩ tuyến 17. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở Nam vĩ tuyến đó nên
thuộc sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và các hành
vi xác lập và thực thi chủ quyền ở hai quần đảo này thuộc thẩm quyền của
chính quyển Sài Gòn. Chính phủ VNDCCH lúc đó không có thẩm quyền và
không hề thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Năm 1956, khi
Chính phủ Trung Quốc cho quân chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa, Chính
phủ VNCH đã phản đối mạnh mẽ. Như vậy, Hoàng Sa và Trường Sa thời kỳ đó
là thuộc chủ quyền của VNCH và trên thực tế vẫn do Chính quyền VNCH
chiếm giữ và quản lý. Tuyên bố của Thủ tướng phạm Văn Đồng năm 1958 chỉ
là ủng hộ việc Trung Quốc tuyên bố có vùng lãnh hải 12 hải lý và không
thể bị giải thích là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai
quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối
với lời nói miệng của ông Ung Vàn Khiêm thì đó chỉ là phát biểu của một
cá nhân, không phải là đại diện của Nhà nước Việt Nam đang quản lý và
thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - lúc đó
là VNCH. Hơn nữa, nếu như ông Khiêm có đủ thẩm quyền đại diện Nhà nước
đi chăng nữa thì theo thực tiễn pháp lý quốc tế, một lời tuyên bố miệng
của cá nhân không có hiệu lực pháp lý quốc tế. Điều 38 Quy chế Toà án
Quốc tế không công nhận lời tuyên bố trở thành luật quốc tế và do đó
không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc như luật quốc tế.
Các vấn đề lãnh thổ phải được ràng buộc bằng các điều ước quốc tế, được
các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn. Cuối cùng, không thể cố áp dụng lý
thuyết estoppel, tức là “đã nói ra thì không nói ngược lại được", bởi
vì lời tuyên bố trên chỉ diễn ra có mộtlần, không "được thực hiện một
cách rõ ràng và liên tục", không "khiến cho một hoặc nhiều quốc gia dựa
vào đó mà thay đổi hoạt động và phải chịu thiệt hại".[35]
Tiến sĩ Balazc Szalotai, nhà nghiên cứu nổi tiếng về châu Á, đang sống
tại Hung-ga-ry nhận xét: những tuyên bố "không có tác dụng ràng buộc",[36] dù có "làm cho quan điểm của Việt Nam bị yếu đi một chút”.[37]
Đường lưỡi bò
Đường
lười bò (còn gọi là đường chữ U) ở Biển Đông được Hu Jinjie vẽ lần đầu
tiên vào tháng 12 năm 1914, sau khi nước Trung Hoa Dân Quốc giành lại
nhóm đảo Dongsha (Pratas) từ tay Nhật Bản (1909). Các bản đồ của Trung
Quốc xuất bản những năm 1920 và 1930 sau đó đều dựa trên bản vẽ của Hu
về vùng biển này. Đương chữ U được Bai Meichu, một viên chức Trung Hoa[38]
sử dựng lại vào cuối năm 1947. Các vùng phía bên trong đường này được
coi là các vùng nước lịch sử. Lập luận của Bai Meichu về việc vẽ đường
này không thực sự rõ ràng. Một điều cũng chưa rõ đó là liệu Bai có đủ
kiến thức về luật hàng hải quốc tế trong thời điểm ông vẽ hay không.
Đường chữ U xác định vùng của Trung Quốc và vùng nước bên trong nó thành
các "vừng nước lịch sử”. Các bài báo của Trung Quốc đã cáo buộc về việc
các nước khác xâm lấn vừng này. Một số tính toán sơ bộ về diện tích
vùng "lấn chiếm" như sau: Việt Nam 1.170.000 km2, phi-líp-pin 620.000
km2. Ma-lai-xi-a 170.000 km2, Bru-nây 50.000 km2 và In-đô-nê-xi-a 35.000
km2.[39]
Ngày
6/5/2009, Ma-lai-xi-a và Việt Nam nộp báo cáo chung về ranh giới ngoài
thềm lục địa mở rộng khu vực phía nam Biển Đông lên Ủy ban ranh giới
thềm lục địa LHQ (CLCS). Ngày 7/5/2009, Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng
thư ký LHQ để phản đôi, trong đó có đính kèm bản đồ đường chữ U" hay
"đường 9 khúc" chiếm khoảng 80% Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Trung
Quốc chính thức hóa "đường chữ U" mà Việt Nam gọi là “đường lưỡi bò”.
Đường
chữ U này là đòi hỏi phi lý của Trung Quốc, vì nó hoàn toàn trái với
các quy định của Công ước Luật biển 1982 mà Trung Quốc là một bên ký
kết. Công ước không có quy định về vung nước lịch sử. Và đơn giản vì
vùng biển mà đường lười bò ngoạm vào không thể nào là lãnh hải
hoặc vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Phi-lip-pin,
Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Bru-nây. Đường lưỡi bò bị Việt Nam,
Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin phản đối kịch liệt. Ngày 5/4/2011, sau gần
hai năm, Phi-líp-pin mới “bác bỏ đường lưỡi bò”. Và
ngày 14/4/2011, Trung Quốc đã có công hàm chính thức phản đối
Phi-líp-pin. Tuy nhiên, các lập luận của Trung Quốc rất mâu thuẫn nhau.
Trong công hàm ngày 7/5/2009, Trung Quốc khẳng định "chủ quyền không thể
tránh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Đông và các vùng nước
kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước,
vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng", tức là toàn bộ khu
vực nằm trong đường lưỡi bò. Công hàm ngày 14/4/2011 thì lờ đường lưỡi
bò đi nhưng lại cho rằng quần đảo Trường Sa (Nam Sa) có lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật biển UNCLOS.
Nếu
phạm vi địa lý của quần đảo Trường Sa là đường lưỡi bò thì có chuyện
ngược đời là xác định các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa bên trong
vùng nước mà Bắc Kinh coi như là nội thủy. Hay các đảo trong quần đảo
Trường Sa mà Trung Quốc yêu sách có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa nhưng không vượt quá phạm vi đường lưỡi bò? Hay cả quần đảo
Trường Sa được coi là một tổng thể để đòi hỏi vùng lãnh hải, đặc quyền
kinh tế hoặc thềm lục địa như một quốc gia quần đảo? Hay phạm vi địa lý
quần đảo Trường Sa là đường lưỡi bò và sẽ tiếp tục đòi hỏi từ đó 200 hải
lý đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cứ theo lập luận này thì cớ lẽ cả
thành phố Hồ Chí Minh, Manila và Kuala Lumpur rồi tới Natura đều rơi
vào vòng ảnh hưởng của đường lưỡi bò và “các vùng biển liên quan”. Đường
lưỡi bò của Trung Quốc từ yêu sách gộp cả Tây Sa (Hoàng Sa của Việt
Nam), Trung Sa (bất ngầm Macclefield), Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam)
bây giờ lại coi là phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa.[40]
Không
chỉ có các nước liên quan phản đối quan điểm của Trung Quốc, mà
In-đô-nê-xi-a, một nước không có tranh chấp ở Biển Đông cũng đã bác bỏ
"đường chữ U" (ngày 8/7/2009). Tại các hội thảo quốc tế về Biển Đông tại
Hà Nội (2009), thành phố Hồ Chí Minh (2010) cũng như các hội thảo quốc
tế khác, nhiều học giả và chuyên gia quốc tế cho rằng "đường lười bò” là
mơ hồ, không có cơ sở. Cho đến nay học giả và chính giới Trung Quốc vẫn
chưa đưa ra được một lời giải thích thỏa đáng. Một nhà nghiên cứu nhận
xét: Có lẽ Trung Quốc coi tất cả các đảo quần đảo ở Biển Đông là của
mình vì thế giới đã gọi đó là "Biển Nam Trung Hoa”. Một sự nhầm lẫn tai
hại.[41]
Về một số tài liệu được Trung Quốc viện dẫn như là sự "công nhận" đối với chủ quyền của Trung Quốc
Thời
gian qua, Trung Quốc thường trích dẫn những tài liệu mà họ gọi là đã
"thừa nhận” chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Cần phải làm rõ thực hư về vấn đề này.
Trước hết, có một số tài liệu do người Trung Quốc biên soạn và xuất bản như "Tân Trung Quốc niên giám" do Trung Quốc xuất bản năm 1966 hay
"Tân thế giới niêm giám" xuất bản năm 1972, trong đó ghi nhận chủ quyền
của Trung Quốc. Điều này không có gì phải tranh luận đơn giản vì đó là
những tài liệu của Trung Quốc."
Thứ
hai, một thủ đoạn nguy hiểm đáng lưu ý mà Trung Quốc đã làm là họ tìm
mọi cách đưa các chi tiết từ đó có thể dẫn giải về chủ quyền của Trung
Quốc vào các công trình xuất bản ở nước ngoài. Rất đáng tiếc có một số
nhà xuất bản hoặc tạp chí khoa học trên thế giới đã vô tình hoặc cố ý
tiếp tay cho Trung Quốc. Chẳng hạn như Chuyên san Nature, một trong
những tạp chí khoa học được trích dẫn nhiều nhất thế giới, vào ngày
2/9/2010 đã đăng bài "Những tác động của biến đổi khí hậu lên nguồn
nước và ngành nông nghiệp tại Trung Quốc" của nhóm tác giả người Tnmg
Quốc kèm bản đồ có cả hình đường lưỡi bò. Một loạt ấn phẩm của các nhà
xuất bản Elsevier (Hà Lan), Springer (Đức), Wiley (Mỹ), tạp chí Journal
of petroleum Science and Engineering…cũng đăng bản đồ đường lưỡi bò kèm
theo các bài báo khoa học của tác giả Trung Quốc . Ngày 19/4/2011, tạp
chí Journal of Waste Management đã đăng bài Thu gom phân loại chất thải
rắn đô thị tại nguồn: Một phân tích so sánh của nhóm tác giả Trung Quốc,
trong đó đính kèm bản đồ minh họa có in hình yêu sách đường lưỡi bò.
Tuần san Science của Hiệp hội Mỹ vì sự phát triển khoa học (AAAS) là một
trong những tạp chí học thuật uy tín nhất, được trích dẫn vào loại
nhiều nhất thế giới, ngày 9/7/2011, đăng bài "Lịch sử dân số Trung Quốc
và những thách thức trong tương lai" của tác giả Bành Hi Triết đã kèm
theo bốn bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc.[42]
Thứ
ba, nhiều tài liệu khác cũng đã được Trung Quốc viện dẫn để dẫn chứng
về sự "thừa nhận” chủ quyền của Trung Quốc bao gồm "Từ điển thế giới
Columbia”, Lippncott Gazetteer xuất bản năm 1961, "Bách khoa toàn thư
các nước trên thế giới" xuất bản năm 1971 của Mỹ; "Bản đồ thế giới" do
Cộng hòa Liên bang Đức xuất - bản năm 1954 , 1961, "Tập bản đồ" Oxford -
Australia và Tập bản đồ philip"do Anh xuất bản năm 1957, "Tập bản đồ”
do Larousse xuất bản năm 1968, 1969; Quyết định của Hội nghị Hàng không
khu vực Thái Bình Dương do Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế tổ chức
(27/10/1955)... Có thể nói cái mà Trung Quốc gọi là sự "thừa nhận” nói
trên thực sự là những sai sót, hoặc nhầm lẫn của tác giả hoặc nhà xuất
bản. Sai sót, nhầm lẫn như vậy có nhiều nguyên nhân. Một là, từ xa xưa
đã có sự nhầm lẫn của các nhà địa lý thế giới gọi Biển Đông là Biển Nam
Trung Hoa, mà thực chất có tên ban đầu là Giao Chỉ Dương, Đông Dương Đại
Hải, Đông Hải hay Biền Đông. Người Bồ Đào Nha đi vòng qua Tây Phi, qua
Mũi Hảo Vọng và ngược lên Đông Phi là đến Ấn Độ. Họ khám phá ra Đông Nam
Á mà họ gọi là "Presqu’ile de l'inde en-deca du Gange", Ấn Độ bên kia
sông Hằng. Lúc đó biển giữa Việt Nam và quần đảo Paracels (Hoàng Sa và
Trường Sa) các bản đồ phương Tây đều ghi là "Golfe de la Cochinchine".
Cochinchine nguyên là tên hai nước Giao Chỉ-việt Nam (Cochin) và nước
Tần (Chine). Nước Giao Chỉ - Cochin trùng tên với một thị trấn ở Ấn Độ
nên người Bồ Đào Nha gọi là Cochinchina cho dễ phân biệt. Đến thế kỷ XIX
đã rõ miền này không thuộc Cochin của Ấn Độ nữa, nên họ chỉ lấy từ
Chine để gọi Biển Đông. Các bản đồ cho đến thế kỷ XVIII vẫn còn gọi Đông
Nam Á là "L'Inde de le Gange". Đến thế kỷ XIX thì họ mới gọi là bán đảo
Đông Dương, tức là Indochine, là bán đảo bên kia sông Hằng. Danh xưng
sai lầm còn tồn tại đến bây giờ.[43]
Vì vậy, không ít nhà làm bản đồ, sách báo…ngộ nhận Biển Đông là Biển
của Trung Quốc. Đó là nguyên nhân cơ bản nhất. Hai là, quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa gồm rất nhiều đảo nhỏ, nhất là quần đảo Trường Sa với 130
đảo và đá, nhiều đảo, đá, đá ngầm chưa có người ở, chưa có quân đồn trú
và cũng chưa đặt được bia chủ quyền nên thông tin bị sai lệch, không đầy
đủ dễ gây nhầm lẫn là điều dễ hiểu. Ngoài ra, một thời gian dài Việt
Nam có chiến tranh, bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ đối nghịch
nhau làm cho vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thêm phức
tạp Ba là, đối với không ít người có thể viết, vẽ và nói cũng chưa thật
cẩn trọng trong vấn đề liên quan đến chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa và
Trường Sa vì thời gian dài tranh chấp chưa bùng nổ. Liên quan đến sai
sót khi làm bản đồ, ngay đến gần đây cũng vẫn còn xảy ra. Vào tháng 3
năm 2010, Hội Địa lý Mỹ (National Geographic) cũng vẫn còn nhầm lẫn khi
ghi chú quần đảo Trường Sa là của Trung Quốc. Sau đó, Việt Nam đã yêu
cầu National Geographic sửa lỗi này. National Geogaphic đã sửa: chỉ sử
dụng tên quốc tế Paracel Islands và xóa bỏ chữ China, chú thích thêm chi
tiết "Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974 và gọi là Xisha Qundao, Việt
Nam vẫn đòi chủ quyền và gọi là Hoàng Sa”.
Tóm
lại, Trung Quốc đưa ra các chứng cứ đã khám phá và thực thi chủ quyền
đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước tiên và từ lâu Tuy
nhiên, những tài liệu chỉ cho thấy thuyền bè Trung Quốc có đi qua lại
vùng Biển Đông, nhìn thấy nhiều đảo mang tên khác nhau. Song không có
đảo nào mang tên Hoàng Sa hay Trường Sa cả. Đặt giả thiết là Trưng Quốc
đã khám phá ra những đảo này thì Trung Quốc đã không thực hiện chủ quyền
các đảo đó. Sự hiện diện người đánh cá, hay một
số đồ gốm, hiện vật khảo cổ được tìm thấy trên các đảo không đủ để khẳng
định là hành xử chủ quyền của nhà nước. Phần lớn các luật gia trên thế
giới, trừ luật gia Trung Quốc, đều thừa nhận điều này. Trung Quốc mới
thật sự chiếm nhóm đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa năm 1956 khi Pháp rút
khỏi Việt Nam theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, đánh chiếm bằng vũ lực từ tay
Việt Nam phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa tháng 1/1974. Đối với quần
đảo Trường Sa, Trung Quốc mới chỉ có mặt bằng cách sử dụng lực lượng vũ
trang để chiếm vào tháng 3/1988 và 1995 mà thôi. Trong khi Việt Nam đã
phát hiện, hành xử chủ quyền liên tục hòa bình đối với các quần đảo trên
từ trước đó vài thế kỷ. Với 3260 km bờ biển, hơn 3000 đảo lớn nhỏ trong
đó có hai quần đảo xa bờ Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông gắn bó món thịt
với Việt Nam là điều dễ hiểu. Nếu quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa quan
trọng đồi với an ninh của Trung Quốc sao họ lại có mặt muộn như vậy?
Trước đây, Trung Quốc không thể quan tâm đến biển đảo ở Biền Đông vì còn
lo trấn giữ và mở rộng biên cương nội địa ở vùng Tân Cương, Nội Mông và
phía Bắc, nhiều lần bị nước Liêu, Kim, Tây Hạ đánh cho tả tơi, cuối
cùng bị Mông Cổ nô dịch. Lập luận của Trung Quốc rằng theo Công ước 1887
Pháp - Thanh, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc lại càng
không có căn cứ vì Công ước chỉ liên quan đến giải quyết tranh chấp giữa
các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam mà thôi. Ba
kiện xảy ra trong những năm 50 và 60 thế kỷ trước về cái gọi là Việt Nam
đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cũng không có “giá trị pháp lý ràng buộc", nhất là theo Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 thì quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản
lý của chính quyền Sài Gòn chứ không phải của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cái gọi là "đường chữ U chín đoạn” hay "đường lưỡi bò", chiếm khoảng
80% Biển Đông thực chất là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các
quốc gia như Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và
Bru-nây mà thôi. Đường chữ U rất mơ hổ, không có cơ sở, không theo Công
ước Luật biển 1982, bị không ít nước và giới khoa học nhiều nước bác bỏ.
Việc có những tài liệu "công.nhận” chủ quyền của Trung Quốc tại hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai
nguyên nhân quan trọng nhất là do sự nhầm lẫn của các
nhà địa lý gọi Biển Đông là Biển Nam Trung Hoa và việc Trung Quốc ra
sức tìm cách phổ biến lập luận sai trái của mình ra thế giới với phương
châm "Tăng Sâm giết người",[44] "mưa lâu thấm đất”.
Như
vậy, về tổng thể có thể thấy rằng lập luận của Trung Quốc về chủ quyền
lịch sử của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không
khách quan, thiếu căn cứ khoa học và khó thuyết phục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiến sỹ Balazc Szalotai, Trả lời phỏng vấn BBC, ngày 24/1/2008.
2. Đặng Minh Thu, "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Tạp chí Thời đại mới, số 11, tháng 7/2007.
3. Đào
Văn Thụy, "Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật quốc tế", Tạp chí Thời đại mới, số 11 , tháng 7/2007.
4. Hải Biên, "Vấn đề Biển Đông dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế”, VietnamPlus, tháng 3/2011.
5. Hoàng Việt, "Giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông” , Tạp chí Thời đại mới, số 19, tháng 7/2010.
6. Hồ Bạch Thảo, "Lãnh hải Trung Quốc dưới thời Minh”, tại địa chỉ http://www.diendan.org/phe-binh-nghiencuu/lanh hai trung quoc.
7. Hồ Bạch Thảo, "Phản biện tập luận của nhà nghiên cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Đông", Tạp chí Thời đại mới, số 20, tháng 11/2010.
8. Huỳnh phan, "Trung Quốc nợ thế giới lời giải thích về Biển Đông", Tuần Việt Nam, tại địa chỉ http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-11-14-trung-quoc-no-the-gioi-loi-giai-thich-ve-bien-dong
9. Nguyễn Đình Đầu, Trả lời phỏng vấn Đài RFA, ngày 6/7/2011.
10. Nguyễn
Bá Diến, "Áp dụng các nguyên tắc về thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế
giải quyết hòa bình các tranh chấp Biển Đông”,
www.nghiencuubiendong.vn, truy cập ngày 15/3/2010.
11. Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995 .
12. Phương Loan, "Học giả quốc tế phê phán đường lười bò của Trung Quốc", VietnamNet, ngày 31/11/2009.
13. Tạ Văn Tài, "Giải pháp cho Biển Đông”', Tạp chí Thời đại mới,số 20, tháng 11/2010.
14. Thủy Xuân, "Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Hoàng Sa", VietnamNet, ngày 24/2/2011.
15. Việt Long, "Vì sao Phi-lip-pin phản đối đường lưỡi bò", Tuần Việt Nam, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-20-vi-sao-philippines-phan-doi-duong-luoi-bo-
16. Vũ
Quang Việt, "Tranh chấp biển Đông Nam Á: Đi trên giải pháp hòa bình và
công lý dựa trên chứng cớ lịch sử và luật pháp quốc tế", Tạp chí Thời đại mới, số 19, tháng 7/2010.
17. Xung đột Biển Đông không còn là nguy cơ (Tài liệu chọn lọc dịch từ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc - do Hồng Lê Thọ: chủ biên), Mỹ, 2009
18. Một số trang Intemet http://google.com.vn; www.nghiencuubiendong.vn; www.vietnamnet.vn
PGS.TS Vũ Dương Huân
* Tổng lãnh sự Việt Nam tại Vladivostok. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả
[1] Trung Quốc và thế giới thường gọi với một cái tên dễ gây hiểu lầm là Biển Nam Trung Hoa.
[2] Định ước Hen – xin – ki, Tài liệu Vụ châu Âu, Bộ Ngoại giao
[3]
Nguyên Bá Diễn, "Ap dụng các nguyên tắc về thụ đắc lãnh thổ trong luật
quốc tế giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đống", xem tại
www.nghiencuubiendong.vn, truy cập ngày 15/3/2010.
[4]
Định ước Berlin ra đời năm 1885, khoản XXIV qui định việc chiếm hữu
lãnh thổ thực tế và thông báo cho các quốc gia khác về việc chiếm hữu
này. Nguồn: http://africanhistory. about.com/od/eracolonialism/l/bl-BerlinAct1885.htm.
[5]
Xem Hồ Bạch Thảo, "Phản biện tập luận của nhà nghiên cứu Hàn Chấn Hoa
về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Đông”, Tạp chí Thời đại mới,
số 20, tháng 11/2010; Đặng Minh Thu, "Chủ quyền trên hai. quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”, Tạp chí Thời đại mới, số 11, tháng 7/2007.
[6] Xem Báo điện tử Báo Đất Việt, ngày 21/7/2011 .
[7] Đặng Minh Thu, tlđd
[8] Hồ Bạch Thảo, tlđd
[9] Xem Đặng Minh Thu, tlđd
[10] Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea, New York/London, 1982, tr.38.
[11] Tao Cheng, "The dispute over the South China Sea Islands", Texas International Law Journal, Vol. 10 (1975), tr. 272.
[12] Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt – Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1995, tr.10
[13] Đặng Minh Thu, tlđd, tr.37.
[14] Hồ Bạch Thảo, “Lãnh hải Trung Quốc dưới thời nhà Minh”, http://diendan.org.lanhhai trung quoc
[15]
Jian-Minh Shen, “International Law Rules and Historical Evidence
Supporting China’s Tille to South China Sea Islands”, Hastings
International and Comparative Law Review, vol 21(1997), p.22-23
[16] Jian-Minh Shen, sđd, tr.18
[17] Như trên, sđd, tr.19.
[18] Như trên, sđd, tr.20.
[19] Đặng Minh Thu, tlđd, tr.37.
[20] Lưu Văn Lợi, sđd, tr.17
[21] Samuels, sđd, tr.21, 22.
[22] Như trên, tr.23.
[23] Lưu Văn Lợi, sđd, tr.14.
[24] Đặng Minh Thu, tlđd, tr.38.
[25] Samuels, sđd, tr.30-31, 42.
[26] Như trên, tr.20.
[27] Như trên, tr.17 và 21.
[28]
Khi đó Trung Quốc đã từ chối trách nhiệm điều tra vụ cướp đồ do tàu bị
đắm với lý do Hoàng Sa không phải lãnh thổ Trung Quốc, không thuộc quản
lý hành chính đảo Hải Nam; xem Lưu Văn Lợi, The Sino-vietnamese
difference ơn Hoang Sa and Truong Sa archipelagoes, p. 52 ; Gendreau,
Sovereignty over the Paracel and Spratly lslands, p. 98.
[29] Công ước Pháp – Thanh 1887, www.google.com.vn
[30] Đặng Minh Thu, tlđd, tr.42.
[31]
Đào Văn Thụy, Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật quốc tế, Tạp chí Thời đại mới,
số 11, tháng 7/2007, tr.10
[32] Thời Pháp Việt Narn chia làm ba kỳ Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bác Kỳ với ba quy chế
khác nhau. Le Tonkin là Bắc Kỳ.
khác nhau. Le Tonkin là Bắc Kỳ.
[33] Đào Văn Thụy, tlđd
[34] Đào Văn Thụy, tlđd, tr.12.
[35]
Phán quyết Tòa án Công lý quốc tế giải quyết tranh chấp giữa Mỹ và
Ni-ca-ra-goa trong vụ NHững hoạt động quân sự và bán quân sự tại
Ni-ca-ra-goa, Tuyển tập các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, Hà
Nội, 1984, tr.414
[36] Trả lời phỏng vấn BBC, ngày 24/1/2008
[37] Như trên
[38]
Peter Kien - Hong Vu, "Đường chữ U (đứt khúc) của Trung Quốc (Việt Nam
gọi 1à đường lưỡi bò) trên Biển Đông: Các điểm, đường và khu vực", Tạp
chí Thời đại mới, số 15, tháng 3/2009, tr. 4.
[39] Peter Kien-Hong Vu, tlđd, tr.15.
[40] “Chiến thuật mập mờ của Trung Quốc”, Vietnamnet, ngày 26/4/2011.
[41] RFI phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ngày 6/7/2011
[42]
“Đường lưỡi bò núp bóng khoa học", Thanh Niên, ngày 27/9/2011 tại địa
chi
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110927/duong-luoi-bo-nup-bong-khoa-hoc.aspx
[43] Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trả lời phỏng vấn đài RFA, ngày 7/6/2011.
[44]
Đó là câu chuyện xưa của Tnmg Quốc. Bà mẹ Tăng Sâm nhận được tin sai
trái rằng con bà giết người, lúc đầu bà không tin nhưng sau ba lần bà đã
tin.