10 SỰ KIỆN THẾ GIỚI
1. Mùa xuân ảrập và những bất ổn ở khu vực Bắc Phi-Trung Đông
Khởi đầu từ Tunisia, các cuộc biểu
tình chống chính phủ lan rộng lan rộng tại các nước Ảrập vùng Bắc Phi và
Trung Đông như Ai Cập, Yemen, Algeria, Libya, Jordani, Bahrain... Được
gọi với cái tên là “Mùa Xuân Ảrập”, làn sóng biểu tình và nổi dậy của
đông đảo dân chúng tại nhiều nước khu vực đã dẫn đến sự sụp đổ hoặc phải
chấp nhận chuyển giao quyền lực của nhiều chính thể, tạo ra cơn địa
chấn chính trị đối với toàn bộ khu vực và gây chấn động thế giới. Tại
Libya, các cuộc không kích kéo dài 8 tháng của NATO, chỉ kết thúc khi
nhà lãnh đạo Lybia Muammar Gaddafi bị sát hại. Cuộc chiến tại Libya với
sự tham sự của các thế lực bên ngoài kết thúc song những mục tiêu ổn
định, an ninh thịnh vượng cho đất nước này vẫn còn là viễn cảnh xa vời.
Không chỉ riêng Libya, hầu hết các nước có chính quyền được lập ra sau
sức ép từ các cuộc xuống đường rầm rộ cũng đang có nguy cơ tái bất ổn,
cho thấy một “Mùa Xuân Ảrập” đã kéo dài tới tận mùa Đông.
2. Thảm họa kép ở Nhật Bản
Ngày 11/3, thế giới bị sốc bởi thảm
họa kép động đất-sóng thần tại vùng bờ biển Đông Bắc Nhật Bản, gây ảnh
hưởng nặng nề tới nền kinh tế thứ ba thế giới. Nhiều thành phố ven biển
bị xóa trắng, gần 30.000 người chết và mất tích, nhà cửa, đường sắt,
đường bộ bị phá hủy nặng nề. Nghiêm trọng hơn, động đất sóng thần còn
phá hủy, gây chấn động lớn gây rò rỉ phóng xạ tại nhà máy điện hạt nhân
Fukushima khiến Nhật Bản rơi vào cuộc khủng hoảng hạt nhân trầm trọng.
Ước tính thiệt hại do động đất sóng thần gây ra là 309 tỉ USD.
Động đất tại Nhật Bản và khủng hoảng
hạt nhân đã tăng áp lực lên nền kinh tế toàn cầu vốn đang hồi phục mong
manh, thắt chặt nguồn cung của nhiều loại hàng hóa từ con chip máy tính
đến phụ tùng ô tô và tăng nỗi lo về lãi suất cao hơn. Mặc dù vậy, theo
thông báo của Chính phủ Nhật Bản, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong quý
3 đã tăng 6%, qua đó đánh dấu sự phục hồi nhanh chóng của quốc gia này
sau thảm họa.
3. Trùm khủng bố Osama bin Laden bị giết
Kẻ cầm đầu mạng lưới khủng bố Al-Qaeda
và là kẻ chủ mưu vụ tấn công nước Mỹ ngày 11/9/2001. Trận đột kích ngày
1/5/2011 của lực lượng đặc nhiệm Mỹ diễn ra táo bạo, nhanh gọn vào nơi
trú ẩn của Osama bin Laden ở thành phố Abbottabad thuộc lãnh thổ
Pakistan. Sự kiện này đã kết thúc cuộc truy đuổi kéo dài 10 năm của Mỹ
đối với Bin Laden - nhân vật bị truy nã gắt gao nhất thế giới. Cái chết
của Osama bin Laden rõ ràng là một cú giáng mạnh vào vị thế và sức mạnh
của Al-Qaeda, đồng thời sẽ đem lại cho Mỹ những lợi thế mới. Tuy nhiên,
việc Bin Laden bị tiêu diệt không có nghĩa là nước Mỹ có thể dễ dàng kết
thúc cuộc chiến chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu đã gây ra bao hệ
lụy cho họ trong nhiều năm qua, trong bối cảnh chiến trường Afghanistan
còn ngổn ngang, bạo lực có nguy cơ tái bùng phát, quan hệ với Pakistan –
đồng minh quan trọng tại Nam Á - bị rạn nứt nghiêm trọng do thiếu niềm
tin.
4.Phong trào “chiếm phố Wall” lan rộng
Khởi nguồn chỉ với một nhóm nhỏ tại Zucotti Park, New York ngày 17/9/2011, phong trào “Chiếm phố Wall” đã bùng nổ và lan rộng trên toàn nước Mỹ và 951 thành phố tại 82 quốc gia ở tất cả các châu lục. Với khẩu hiệu "Chúng tôi là 99%", phong trào đã thể hiện sự tức giận của người dân Mỹ trước sự bất ổn của nền kinh tế cũng như sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội tư bản.
Cuộc biểu tình đã tố cáo các ông trùm
tài chính phố Wall đang làm giàu bằng những trò lươn lẹo tài chính, và
chính là nguyên nhân đẩy đất nước đi vào khủng hoảng, khiến hàng triệu
người thất nghiệp. Thế nhưng những kẻ này lại hoàn toàn không bị ảnh
hưởng gì, khi mà các ngân hàng được cứu trợ bởi tiền thuế của nhân dân,
thêm vào đó là sự thao túng các chính trị gia nhằm ban hành những đạo
luật có lợi nhất cho mình.
Một phong trào biểu tình phản ánh sự bất bình sâu sắc của người dân trước những bất công trong phân chia của cải trong xã hội.
5. Nợ công – mối nguy chưa giải tỏa
Cuộc khủng hoảng nợ công bùng nổ vào
cuối năm 2009 tại Hy Lạp và năm 2011 đã lan sang các nước khác trong
Eurozone và kéo dài cho đến tận bây giờ. Sau Hy Lạp và Ireland, các nước
Tây Ban Nha, Bỉ, Bồ Đào Nha, và Ý cũng đang nằm trong nguy cơ vỡ nợ.
Tại Mỹ, ngày 02/08/2011, trần nợ Mỹ được điều chỉnh tăng thêm 2,4 nghìn
tỷ USD để ngăn Mỹ vỡ nợ. Xếp hạng tín dụng của Mỹ bị đánh tụt xuống mức
AA+, có thể tiếp tục bị hạ tiếp trong từ 12 đến 18 tháng tới. Trái phiếu
Bộ Tài chính Mỹ có xếp hạng thấp hơn so với trái phiếu chính phủ Anh,
Đức, Pháp hay Canada.
Nhiều quốc gia trong Eurozone đã phải
áp dụng những chính sách thắt lưng buộc bụng khiến người dân bất bình.
Hiện tại, trong khi lãnh đạo các nước thuộc liên minh châu Âu vẫn chưa
tìm ra được một biện pháp triệt để, từng thông tin từ châu Âu đều có tác
động mạnh tới thị trường thế giới. Nguy cơ tan rã của khu vực đồng Euro
hiện đang hiển hiện hơn lúc nào hết. EIU hạ mức dự báo tăng trưởng GDP
cho Eurozone xuống còn 0,3% vào năm 2012 từ dự báo trước đó là 0,8%. EU
không đạt được thỏa thuận đột phá để cải thiện tình hình.
6. Mỹ trở lại châu Á - TBD
Năm 2011 có thể nói là Năm châu Á-Thái
Bình Dương của Mỹ, với những chuyển dịch mạnh mẽ cả trong tuyên bố
chính sách và hành động, cả về quân sự, ngoại giao và kinh tế đối với
khu vực hiện đang được Washington đặt trong ưu tiên chiến lược toàn cầu
của mình. Sự trở lại châu Á của Mỹ được phản ánh rất rõ nét tại khu vực
Đông Nam Á, với việc Mỹ lần đầu tiên tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
(EAS) tháng 11/2011 hay việc Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Partnership - TPP) hiện đứng đầu trong các chương trình
nghị sự thương mại của Washington. Chính sách trở lại châu Á-Thái Bình
Dương của Mỹ phản ánh một thực tế đang thay đổi về mặt kinh tế và địa
chính trị toàn cầu. Chính sách này chắc chắn sẽ khiến vũ đài chính trị -
kinh tế của khu vực vốn đã sôi động này sẽ càng trở nên nóng bỏng hơn
bởi những ảnh hưởng nhất định đến lợi ích của nhiều quốc gia trong khu
vực.
7. lãnh đạo CHDCND Triều Tiên Kim Jong-il qua đời
Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il
đột ngột qua đời ngày 17/12. Ban lãnh đạo Triều Tiên kêu gọi nhân dân
tiếp tục vững bước dưới sự lãnh đạo của Đại tướng Kim Jong-un, con trai
út của nhà lãnh đạo mới qua đời. Các nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật
Bản và Mỹ hồi hộp theo dõi mọi động thái ở Bắc Triều Tiên. Sự thay đổi
lãnh đạo ở quốc gia này nhiều khả năng sẽ mở ra một trang mới trong cục
diện bán đảo Triều Tiên và khu vực.
8. Mỹ chấm dứt cuộc chiến Iraq
Ngày 18/12/201, Mỹ tuyên bố kết thúc
cuộc chiến kéo dài 9 năm tại Iraq. Tổng thống Barrack Obama tuyên bố đây
là một "thời khắc lịch sử" của quân đội Mỹ song cũng thừa nhận, cuộc
chiến này gây nhiều tranh cãi ngay từ khi bắt đầu và việc “Kết thúc một
cuộc chiến tranh bao giờ cũng khó khăn hơn bắt đầu một cuộc chiến”. Còn
tại Afghanistan, Mỹ rút 10.000 binh sĩ trước thời hạn chót cuối năm nay,
hoàn tất giai đoạn một kế hoạch rút toàn bộ lực lượng tác chiến vào năm
2014. Kế hoạch rút quân của Mỹ khỏi chiến trường Iraq và Afghanistan
nhằm chấm dứt hai cuộc chiến dai dẳng "hao người tốn của," làm suy giảm
nhiều sức mạnh chính trị và ảnh hưởng quốc tế của Mỹ. Hơn 6.300 lính Mỹ
đã thiệt mạng và gần 40.000 lính bị thương, tiêu tốn 1.300 tỷ USD và con
số này vẫn chưa dừng lại ở đó. Tuy nhiên, Mỹ đã không thể thực hiện
được mục tiêu biến Iraq thành một nền dân chủ ổn định và ủng hộ phương
Tây. Ngay sau khi quân Mỹ rút đã xảy ra nhiều cuộc đánh bom đẫm máu giữa
các phe phái ở Iraq.
9. Cuba cải cách kinh tế.
Đại hội Đảng Cộng sản Cuba lần thứ VI
(tháng 4/2011) mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quốc đảo Caribbe
này với việc thông qua chính sách “cập nhật mô hình nền kinh tế,” huy
động tiềm năng của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước. Chủ tịch Cuba
Raul Castro đã kêu gọi thực hiện triệt để những điều chỉnh trong chính
sách kinh tế, coi đây là con đường duy nhất để duy trì cách mạng Cuba,
yêu cầu sự thay đổi tận gốc về nhận thức trong xã hội Cuba, đặc biệt là
trong đội ngũ lãnh đạo. Năm 2011 là năm chính phủ Cuba đã ban hành nhiều
chính sách quan trọng, trong đó từng bước chấp nhận sở hữu tư nhân và
mở cửa đón đầu tư nước ngoài.
10. Steve Job, ‘’thầy phù thùy’’ ở thung lũng silicon qua đời, tạo ra khoảng trống lớn trong làng công nghệ số
Một trong những cái chết gây bất ngờ
và luyến tiếc nhất trong năm qua chính là sự ra đi của huyền thoại công
nghệ Steve Jobs. Không chỉ những người của làng công nghệ mà hầu như tất
cả mọi người, từ các chính trị gia, những ngôi sao giải trí đến những
người yêu thích sản phẩm của Apple, đều cảm thấy sững sờ. Nhà sáng lập
Apple đã ra đi vĩnh viễn hôm 5/10 ở tuổi 56 sau 7 năm chiến đấu với căn
bệnh ung thư tuyến tụy. Cuộc đời của ông là một câu chuyện cảm động về
một người bị hắt hủi, ra đi trong tủi hờn vì bị sa thải bởi chính công
ty do mình lập ra. Nhưng vượt lên nỗi đau, với tầm nhìn đột phá và sức
sáng tạo phi thường, Steve Jobs đã làm thay đổi cả ngành công nghệ máy
tính, tạo ra cuộc cách mạng trên thị trường âm nhạc và thị trường
smartphone bằng những sản phẩm gây kinh ngạc như MacBook, iPod, iTunes,
iPhone và mới đây nhất là iPad.
|
Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012
42. Những sự kiện lớn 2011
41. Xuyên Thái Bình Dương
TPP
là một hiệp định được khởi xướng từ năm 2005 bởi 4 quốc gia New
Zealand, Bruney, Chile và Singapore (còn gọi là Hiệp định P-4). Hai năm
gần đây, đã có thêm Mỹ, Australia, Malaysia, Peru, Việt Nam chính thức
tham gia các phiên đàm phán TPP. Mới đây nhất, ngày 11/11/2011, ngay
trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh APEC 19, bất chấp dư luận trong nước
phản đối, chính phủ Nhật Bản công bố ý định tham gia vòng đàm phán sắp
tới. Canada, Mexico cũng bày tỏ ý định tham gia TPP, còn Philipines, Hàn
Quốc và Đài Loan dự kiến cũng sẽ tham gia trong vòng 10 năm tới.
Thay đổi diện mạo châu Á - Thái Bình Dương
TPP được đánh giá là một hiệp định
"thế kỷ", có tính chất tự do rất cao, hơn cả việc tham gia vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Cùng với Nhật Bản, chuyển động tại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương đang càng trở nên sôi động hơn bao giờ. 10 nước
tham gia Hiệp định TPP chiếm tới 35% GDP toàn thế giới, lớn hơn rất
nhiều so với Liên minh Châu Âu, hiện là khu vực tự do mậu dịch lớn nhất,
nhưng chỉ chiếm có 26% GDP thế giới.
TPP đã được kỳ vọng trở thành một
khuôn khổ thương mại tự do toàn diện, chất lượng cao của thế kỷ 21, một
hình mẫu của FTA thế hệ mới, có tầm bao quát toàn khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. 100% các dòng thuế quan sẽ được loại bỏ, 100% các phân ngành
dịch vụ được mở cửa trong thương mại giữa các nước thành viên. Qua TPP,
nhiều vấn đề thương mại và phi thương mại sẽ được tăng cường ở mức độ
thích hợp, thúc đẩy sự canh tân, tăng trưởng và phát triển kinh tế, hỗ
trợ việc tạo ra và duy trì công ăn việc làm, mang lại lợi ích to lớn và
bền vững cho các nước tham gia, thúc đẩy quá trình hội nhập sâu, rộng
hơn trong bối cảnh Vòng đàm phán Doha tiến triển chậm chạp.
Các nước trong khu vực hy vọng rằng,
APEC 2011 cùng thỏa thuận TPP sẽ tiếp thêm động lực mới cho quá trình
thúc đẩy tự do thương mại, kiến tạo thêm công ăn việc làm, phát triển
kinh tế và tăng cường sự tin cậy lẫn nhau giữa các nước trong khu vực.
Thúc đẩy ký kết TPP cũng sẽ mở ra hy vọng hoàn tất nhiều thỏa thuận
thương mại tự do ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. TPP cũng có khả năng
cơ cấu lại hàng loạt liên minh thương mại châu Á, mang lại một cách thức
để vượt qua thế bế tắc toàn cầu đang hiện hữu, đem lại một mô hình chủ
nghĩa khu vực mở, giải quyết những lo ngại về việc thế giới sẽ bị chia
nhỏ thành những khối thương mại riêng biệt.
Rõ ràng, với sự xuất hiện của TPP,
việc xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang
thay đổi nhanh chóng, thái độ và chính sách của Mỹ cũng đang chuyển đổi
theo, điều này buộc các nước trong khu vực cũng phải điều chỉnh chiến
lược hợp tác cho phù hợp. Và, bằng cách này hay cách khác, châu Á-Thái
Bình Dương đang hội nhập một cách sâu rộng, mạnh mẽ hơn.
Và một ngày đẹp trời, bên lề Hội nghị
cấp cao APEC 19 tại Honolulu (Mỹ) vừa qua, Tổng thống Hoa kỳ B.Obama vui
mừng thông báo rằng 9 nước thành viên TPP đã hoàn tất bản phác thảo
những đường hướng chính của dự án thành lập khu vực tự do mậu dịch lớn
nhất thế giới này. Tương lai về một khu vực thương mại tự do dường như
sắp được thiết lập đến nơi. Có người ví von những gì mà các vòng đàm
phán của TPP đạt được như một tia nắng đẹp soi rọi phần nào bầu không
khí vốn đang ảm đạm của cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu và cả những
buồn rầu ẩn giấu đâu đó ở nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Tuy nhiên, không ít người cho rằng,
với 9 vòng thì đàm phán TPP sẽ phải làm được nhiều hơn thế, chứ không
chỉ là một bản phác thảo, dù đã liệt kê phạm vi và các nguyên tắc tiếp
cận các vấn đề cơ bản trong TPP. Chưa hề có một chi tiết nào cụ thể hơn
về các cam kết, vốn là phần chính yếu của bất kỳ hiệp định thương mại tự
do nào. Dòng thuế nào sẽ loại bỏ ngay, dòng nào sẽ theo lộ trình hay
ngành dịch vụ nào mở, mở với điều kiện gì… thì vẫn đang trong tình trạng
"còn tiếp tục phải đàm phán".
Mỹ - Nhiệt tình và tính toán
Hiệp định TPP đang đứng đầu trong các
chương trình nghị sự thương mại của Washington. Mặc dù TPP chỉ chiếm 6%
thương mại của Mỹ, Mỹ lại là nước tham gia sau vào TPP, thậm chí không
có đối tác nào trong TPP nằm trong số 10 thị trường xuất khẩu hàng đầu
của Mỹ (trừ Nhật Bản), nhưng Washington không hề quên vai trò "anh cả"
trong cả việc thúc đẩy tiến trình đàm phán Hiệp định quan trọng này. Tuy
nhiên, sự nhiệt tình có tính toán của Mỹ được cho là hơi "lộ liễu".
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và
nợ công đang tàn phá nhiều trung tâm quyền lực trên thế giới, tương quan
lực lượng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang thay đổi nhanh chóng,
nhiều nguồn lợi tại khu vực đang có nguy cơ vượt ra khỏi tầm tay của Mỹ.
Đối với Mỹ, châu Á-Thái Bình Dương là khu vực không chỉ quan trọng về
địa-kinh tế mà còn quan trọng về mặt địa-chiến lược. Thái Bình Dương
không chỉ là "cửa ngõ" nối nước Mỹ với thế giới mà nó còn là khu vực có
dân số đông, chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới với trữ lượng dầu mỏ, khí
đốt lớn… Đây là các nhân tố tiềm ẩn, nếu thúc đẩy quan hệ kinh tế,
thương mại chặt chẽ với khu vực này, có thể vực dậy và tạo động lực cho
nền kinh tế Mỹ trong tương lai.
Các quan chức Mỹ cũng cho rằng, TPP
hiện mới chỉ mang lại lợi ích nhỏ cho kinh tế Mỹ, nhưng về lâu dài, lợi
ích này sẽ tăng lên khi khối này được mở rộng. Bằng việc lôi kéo thành
công Nhật Bản, lợi ích kinh tế thương mại của Mỹ trong khu vực đã gia
tăng đáng kể, chỉ tính riêng thương mại song phương giữa Nhật Bản và Mỹ
cũng đã ngang bằng với tổng kim ngạch thương mại song phương giữa Mỹ với
9 nước tham gia TPP trước đó. Bên cạnh đó, việc tham gia của Nhật Bản
còn có ý nghĩa nhiều hơn, xét trên khía cạnh địa chiến lược.
Trọng tâm kinh tế toàn cầu đang dịch
chuyển về phía Đông, với sự chuyển mình mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ càng
có ý thức quyết đoán hơn về vai trò, vị thế của mình tại khu vực. TPP sẽ
trở thành tiêu điểm cạnh tranh giữa mô hình Khu thương mại tự do Trung
Quốc - ASEAN do Trung Quốc chi phối với mô hình TPP do Mỹ đứng đầu. Động
thái này của Mỹ còn nhằm kiến tạo một trật tự châu Á - Thái Bình Dương,
ấn định quy tắc Mỹ nắm quyền chủ đạo. Như lãnh đạo Mỹ nhiều lần nhấn
mạnh đến "sự trở lại" của mình này tại châu Á - Thái Bình Dương.
Nhật Bản - Vào còn hơn không
Mỹ đã luôn hy vọng Nhật Bản sớm đưa ra
quyết định gia nhập TPP. Mỹ rất cần đồng minh Nhật Bản ủng hộ TPP,
trong khi Tokyo chắc chắn cũng muốn thắt chặt quan hệ với Washington để
đối phó với những thách thức mới. Và tất nhiên, nếu các cuộc đàm phán
đạt kết quả, TPP hẳn có trọng lượng hơn vì có hai nền kinh tế thuộc loại
lớn nhất hành tinh.
Tuy nhiên, đến tận bây giờ khi Nhật
Bản đã ghi tên tham gia TPP, thì Chính phủ vẫn không nhận được sự đồng
thuận của các giới chức và doanh nghiệp. Trong khi giới doanh nghiệp ủng
hộ việc tham gia TPP nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thì nội bộ chính
giới nước này vẫn đang chia rẽ về vấn đề TPP, do lo ngại việc tham gia
TPP sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới lĩnh vực nông nghiệp. Không chỉ có phe đối
lập, mà cả những người phản đối phái thân Washington và nông dân Nhật
cũng chống lại việc này. Những người làm nông nghiệp lo ngại họ sẽ mất
các ưu đãi và sự bảo vệ của chính quyền, khiến sản phẩm của họ sẽ đắt
hơn và sẽ không đủ sức cạnh tranh. Một số người khác bày tỏ quan ngại
trước khả năng TPP ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh của cuộc sống, như dịch
vụ y tế, sản phẩm y dược, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm. Các phản ứng
khác nhau đã khiến cho xếp hạng uy tín của thủ tướng Nhật Bản bị hạ
thấp 7,5% so với hồi tháng 9.
Tuy nhiên,theo tính toán của những
người như Ngoại trưởng Seiji Maeharat: "Chính sách nông nghiệp của Nhật
Bản đang bế tắc, do đó, buộc phải thay đổi toàn diện. Đã đến lúc Nhật
Bản không được phép trì hoãn thêm trong việc tham gia Hiệp định TPP".
Còn Thủ tướng Yoshihiko Noda đã cố gắng thuyết phục những thành viên của
đảng Dân chủ cầm quyền và những người phản đối tham gia TPP bằng cách
nhấn mạnh rằng, Nhật Bản sẽ không có tiếng nói trong khuôn khổ mới trừ
khi Nhật Bản tham gia các cuộc đàm phán càng sớm càng tốt, và việc thắt
chặt quan hệ với châu Á là việc làm cấp thiết để duy trì tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Việt Nam - Cân nhắc để chủ động
Ngày 15/11/2010, Chủ tịch nước Việt
Nam thông báo quyết định tham gia đàm phán TPP. Quyết định này nhận được
sự chào đón của các đối tác trong TPP, đặc biệt là Hoa Kỳ vốn từ lâu
mời gọi Việt Nam. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia đàm
phán một FTA đa phương với tốc độ đàm phán nhanh, quy mô sâu rộng, mức
độ cam kết cao và phức tạp như vậy.
Tất nhiên, tham gia một hiệp định
thương mại tự do khu vực toàn diện như TPP là một cơ hội tạo bước nhảy
vọt về phát triển kinh tế trong đó xuất khẩu có nhiều thuận lợi nhất.
Đặc biệt, Việt Nam cũng sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở cửa thị
trường cho hàng hóa của Việt Nam, kiềm chế nhập siêu, góp phần thúc đẩy
hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam. Việt Nam cũng sẽ nắm
bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện
quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội nhập kinh tế khu vực đem lại.
Đồng thời, tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện
triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại
ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Nhưng nếu thử nhìn vào các đối tác
chính thức trong TPP, có thể thấy Việt Nam có trình độ phát triển thấp
nhất. Việc cam kết và thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ
đàm phán Hiệp định TPP sẽ đặt ra những thách thức không nhỏ, đặc biệt là
sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp của
Việt Nam, vốn còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Nếu không có
sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn.
Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo LS. Trần Hữu Huỳnh -
Chủ tịch UB Tư vấn chính sách thương mại quốc tế VCCI, với vai trò là
một thành viên đàm phán chính thức, bình đẳng, Việt Nam hoàn toàn có
quyền đề xuất, can thiệp vào việc định hình các cam kết trong khuôn khổ
TPP. Như vậy, việc chủ động đàm phán xây dựng thỏa thuận cùng có lợi, sẽ
tốt hơn việc phải chấp nhận các điều khoản đã được lập ra.
Ra khơi?
Như vậy, tham gia TPP mỗi quốc gia
thành viên đều hy vọng sẽ gặt hái được những lợi ích khác nhau. Tổng
thống Mỹ Barack Obama hy vọng TPP sẽ là hòn đá tảng cho một khu vực
thương mại tự do rộng lớn bao trùm cả khu vực APEC. Nhật Bản hy vọng,
thông qua TPP với Mỹ đóng vai trò đầu tàu, Nhật sẽ có ảnh hưởng quyết
định tới những tiêu chuẩn kỹ thuật toàn cầu trong những ngành công
nghiệp như xe hơi chạy điện và năng lượng sạch, thay vì để cho Trung
Quốc chi phối. Các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt Nam có
thể tìm thấy ở TPP cánh cửa mở vào các thị trường tiêu thụ rộng lớn như
Mỹ, Nhật Bản và cơ hội hợp tác để phát triển cơ sở hạ tầng, xác lập vai
trò trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu.
Tờ The Economist cho rằng, các nước
nhỏ đang có chính sách bảo hộ nông nghiệp, luật pháp về lao động lỏng
lẻo, yếu kém về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và không đủ ngân sách đầu tư
cho các công nghệ thân thiện với môi trường... sẽ thấy TPP là một liều
thuốc khó nuốt. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ khác, tham gia TPP có thể là cơ
hội, là động lực thúc đẩy cải cách kinh tế một cách triệt để và toàn
diện. Với các nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, tham gia TPP là
cơ hội để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, minh
bạch đầu tư công và hướng tới phát triển bền vững. Nếu không có cơ hội
này, sự nghiệp tái cơ cấu nền kinh tế sẽ có thể còn bị trì hoãn, kéo dài
vì thiếu động lực từ bên trong lẫn "sức ép" từ bên ngoài.
Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho
rằng, mặc dù đặt ra nhiều tham vọng, tiến trình đi tới hiệp định TPP sẽ
không suôn sẻ và nhanh chóng như kỳ vọng của các nhà lãnh đạo. Mỹ và
Nhật Bản, hai nền kinh tế lớn nhất trong TPP, đang phải đối mặt với
những trở ngại lớn trong việc thông qua TPP: nước Mỹ đang bước vào một
năm bầu cử đầy sóng gió, còn Chính phủ Nhật vẫn chưa được dân chúng ủng
hộ trong những chính sách tự do hóa thương mại
Trần Công
|
40. Trở lại châu Á
Chuyển trọng tâm
Chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình
Dương hay còn gọi là Chiến lược tái can dự vào Đông Á của Mỹ được công
bố lần đầu tiên vào năm 2009. Mặc dù Mỹ chưa bao giờ tách ra khỏi khu
vực này nhưng do trong thập kỷ qua, trọng tâm đối ngoại của Washington
chủ yếu tập trung vào vùng Trung Đông và Nam Á, cùng với những ảnh hưởng
ngày càng mạnh mẽ và có phần lấn lướt của Trung Quốc trong khu vực,
điều này khiến không ít người cho rằng các mối quan tâm của Mỹ ở Đông Á
đang suy giảm. Tuy nhiên, tình hình đã đổi khác. Trong một bài xã luận
đăng trên tạp chí Foreign Policy tháng 11/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton nhấn mạnh: "Khi cuộc chiến tranh ở Iraq lắng xuống và Hoa Kỳ bắt
đầu rút các lực lượng của mình khỏi Afghanistan, thì nước Mỹ đứng ở một
thời điểm then chốt. Trong 10 năm qua, chúng ta đã dành các nguồn tài
lực lớn cho hai chiến trường đó. Trong 10 năm tới, chúng ta cần khôn
ngoan và có phương pháp về việc chúng ta đầu tư thời gian và năng lực
vào đâu… Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nghệ thuật quản lý
nhà nước của Mỹ trong thập kỷ tới vì thế sẽ gắn chặt vào sự đầu tư gia
tăng đáng kể - về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lĩnh vực khác -
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương." Tại Hội nghị APEC 19 ở Hawaii vừa
qua, Tổng thống Obama bổ sung thêm khi phát biểu: “Không có khu vực nào
trên thế giới mà chúng tôi cho là quan trọng hơn khu vực châu Á - Thái
Bình Dương”. Như vậy, rõ ràng việc chuyển trọng tâm quan hệ đối ngoại về
châu Á đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Chính quyền Obama hiện nay.
Chìa khóa hợp tác đa phương
Có thể lý giải cho động thái đáng chú ý trên bằng một số lý do như sau:
Thứ nhất, Tầm quan trọng về mặt kinh
tế - thương mại của khu vực này khiến tất cả các quốc gia trên thế giới
không thể xem thường, kể cả Mỹ. Thời gian qua, trong khi nền kinh tế các
nước Âu - Mỹ lao đao thì khu vực này vẫn giữ được mức tăng trưởng khá.
Theo thống kê, 21 nền kinh tế thành viên của diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) chiếm đến 55% tổng sản phẩm quốc nội của
thế giới, 43% thương mại toàn cầu và 58% tổng sản lượng hàng xuất khẩu
của Mỹ. Ông Ben Rhodes, Phụ tá Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ, từng phát
biểu: "Lượng xuất khẩu của Mỹ đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương là
một yếu tố hết sức quan trọng trong kế hoạch tăng gấp đôi lượng hàng hóa
xuất khẩu của Hoa Kỳ trong vài năm tới của ông Obama… Trên thực tế, gần
như tất cả các nỗ lực mà chúng ta dự định tiến hành liên quan đến mục
tiêu tăng cường lượng xuất khẩu đều liên quan đến khu vực này của thế
giới…". Do vậy, việc chuyển trọng tâm đối ngoại sang châu Á có thể coi
là một nỗ lực của chính quyền Washington nhằm thúc đẩy kinh tế Mỹ phát
triển, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giúp đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế cũng như xoa dịu nỗi bất bình trong dân
chúng.
Thứ hai, theo kế hoạch, cuối năm nay,
Mỹ sẽ rút gần như toàn bộ quân khỏi Iraq, còn tại Afghanistan, đến cuối
năm 2012, Mỹ và NATO sẽ rút tổng cộng 40.000 quân. Hai chiến trường
chính đã tạm ổn định cũng có nghĩa là Mỹ sẽ giảm bớt được sự căng trải
lực lượng trên toàn cầu và tập trung quân lực vào những vùng trọng điểm
mới. Thời gian qua, Mỹ đã liên tục củng cố mối quan hệ với các nước đồng
minh truyền thống trong khu vực, duy trì đều đặn các buổi tập trận
chung với các nước như Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia,
Singapore và Thái Lan; tăng cường trao đổi quân sự với các quốc gia khác
như Việt Nam, Indonesia… Tại chuyến công du Australia vừa qua, ông
Obama nhấn mạnh sẽ đảm bảo duy trì hiện diện quân sự của Mỹ tại Châu Á -
Thái Bình Dương ngay cả khi Mỹ cắt giảm ngân sách quân sự. Phát biểu
trước phiên họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội Liên bang Australia
ngày 17/11, Obama cho biết ông đã chỉ đạo bộ phận an ninh quốc gia Hoa
Kỳ để đảm bảo rằng "sự hiện diện và nhiệm vụ của chúng tôi (Mỹ) tại Châu
Á - Thái Bình Dương được đặt lên ví trí hàng đầu" và "việc Hoa Kỳ cắt
giảm ngân sách quân sự sẽ không ảnh hưởng tới những chi phí tại Châu
Á-Thái Bình Dương".
Thứ ba, trong những năm 1980 và đầu
những năm 1990, Washington cho rằng Chủ nghĩa đa phương ở châu Á sẽ chỉ
gây phương hại cho lợi ích của người Mỹ và đe dọa phá hoại hệ thống liên
minh "bánh xe và nan hoa" của họ. Mãi đến khi Chính quyền Bill Clinton
quyết định tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), thái độ thù địch đối
với Chủ nghĩa đa phương ở châu Á mới dịu bới đi. Đáng tiếc là sau đó,
Chính quyền George W. Bush không hội nhập sâu hơn vào khu vực này. Chẳng
hạn, khi EAS lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2005. Ngược lại, Chính
quyền Obama lại đặt các thể chế thuộc châu Á - Thái Bình Dương làm trung
tâm chính sách đối ngoại của Mỹ trong khu vực. Trong bài báo đăng trên
tạp chí Foreign Policy đã đề cập đến ở trên, Ngoại trưởng Mỹ Hilary
Clinton nhấn mạnh "tầm quan trọng của hợp tác đa phương", vì "chúng ta
tin rằng những thách thức xuyên quốc gia phức tạp mà châu Á đang phải
đối mặt sẽ chỉ được giải quyết nhờ việc thiết lập các thiết chế có khả
năng thống nhất hành động chung". Do vậy, có thể thấy hiện Mỹ đã thể
hiện thái độ tích cực hơn trong việc tham gia vào các cơ chế hợp tác
trong khu vực từ ASEAN +, APEC cho đến EAS hiện nay.
Thứ tư, thời gian qua, cùng với sự
phát triển vượt bậc về kinh tế, Trung Quốc không ngừng tăng cường ảnh
hưởng của mình tại khu vực và trên thế giới trên mọi lĩnh vực: từ chính
trị, thương mại, văn hóa cho đến quân sự. Chính quyền Trung Quốc đã tỏ
thái độ quyết liệt hơn, đặc biệt là ở hồ sơ biển đảo khi một số nguồn
tin cho biết Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã được đảm nhận
một vai trò lớn hơn trong việc hoạch định chính sách. Chẳng hạn: Chiến
lược của quân đội Trung Quốc nhằm phát triển một lực hượng hải quân viễn
chinh đã giúp nước này có thể giành quyền kiểm soát lớn hơn đối với các
tuyến đường biển, đặc biệt là ở Biển Đông trong mấy năm gần đây. Việc
tăng cường đưa ra các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc, đặc biệt là
chiến lược biển trong thời gian qua của nước này, theo đánh giá của Mỹ
là đã tạo ra một thách thức đối với những lợi ích quan trọng của Mỹ ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, buộc Mỹ không thể đứng ngoài cuộc.
Nâng cấp quan hệ đồng minh
Vậy Mỹ sẽ triển khai chiến lược trở
lại châu Á như thế nào? Kurt M. Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ
trách các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương, mới đây có bài phát biểu tại
Viện nghiên cứu các vấn đề an ninh và quốc tế Đại học Chulalongkorn ở
Bangkok, Thái Lan, về chính sách can dự của Mỹ với châu Á-Thái Bình
Dương. Theo ông Campbell, cơ sở và ưu tiên số 1 để nước Mỹ thúc đẩy các
lợi ích của mình ở châu Á là duy trì mối quan hệ an ninh hùng mạnh với
các đồng minh hoặc đối tác chính trị như với Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philippines, Australia và Singapore. Mỹ cũng sẽ có những bước đi
trong thời gian tới để xây dựng một mối quan hệ tương xứng hơn với Thái
Lan. Bên cạnh việc tiếp tục tìm cách củng cố và nâng cấp các mối quan hệ
đồng minh ở trên, Mỹ cũng nhận thức đầy đủ rằng cần phải mở rộng quan
hệ với các đối tác khác trong khu vực như Indonesia, Ấn Độ, Malaysia,
New Zealand và kể cả Việt Nam.
Bên cạnh các mối quan hệ quan trọng
này, theo ông Kurt Campbell: "Rõ ràng việc Mỹ và Trung Quốc hợp tác với
nhau trong thế kỷ 21 cũng là điều quan trọng sống còn." Đây là một trong
những mối quan hệ quan trọng nhất của Mỹ. Theo ông Campbell: "Chúng tôi
hoàn toàn thừa nhận đây là một trong những mối quan hệ phức tạp nhất mà
Mỹ chưa bao giờ có với bất kỳ quốc gia nào và chúng tôi sẽ có những nỗ
lực lớn để bảo đảm một chương trình hướng tới tương lai trong quan hệ
giữa hai nước". Mỹ và Trung Quốc đang tập trung nỗ lực tìm cách ngăn
chặn sự leo thang của những biến cố và những diễn biến có thể đe dọa mối
quan hệ rộng lớn hơn giữa hai cường quốc này và "Mỹ cam kết mạnh mẽ với
việc bảo đảm và duy trì một mối quan hệ đối tác tiến bộ hơn giữa Bắc
Kinh và Washington".
Bên cạnh các mối quan hệ chính trị và
chiến lược này, ông Campbell cho rằng một trong những điều quan trọng
nhất mà khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhìn vào Mỹ, đó là việc Mỹ sẽ
tiếp tục đóng vai trò là một đối tác lạc quan, mở cửa về buôn bán và
kinh tế trong khu vực. Ngoài ra, ông Kurt Campbell cũng bày tỏ hy vọng
APEC sẽ có những nỗ lực to lớn hướng tới việc ký kết một hiệp định khung
giữa tất cả các đối tác quan trọng trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). "Chúng tôi coi đây là một hiệp định buôn bán quan
trọng của thế kỷ 21 với những tiềm năng to lớn cho khu vực và cho các
quốc gia tham gia trong tổ chức chung này..."
Ngoài những vấn đề trên, Mỹ cũng muốn
duy trì một trong những đóng góp quan trọng nhất đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, đó là sự hiện diện về an ninh: "Chúng tôi sẽ tiếp tục
nỗ lực này và đa dạng hóa nó. Do vậy, các bạn sẽ chứng kiến những nỗ lực
của Mỹ trong vài tháng tới và vài năm tới nhằm đa dạng hóa khả năng của
mình từ một số lượng nhỏ các căn cứ của mình ở khu vực Đông Bắc Á thành
một loạt các dàn xếp dưới nhiều hình thức khác nhau ở khắp khu vực Đông
Nam Á cùng với Australia" - ông Campbell cho hay.
Chính sách trở lại châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ chắc chắn sẽ khiến vũ đài chính trị - kinh tế của khu vực
này vốn đã sôi động sẽ càng trở nên nóng bỏng hơn bởi lợi ích của nhiều
quốc gia trong khu vực chắc chắn sẽ có những tác động nhất định. Tuy
nhiên, sự trở lại châu Á của Mỹ lần này chỉ có thể thành công khi mà lợi
ích chính đáng của tất cả các nước trong khu vực được tính đến một cách
công bằng thỏa đáng và bằng biện pháp hòa bình.
Trung Nguyên
|
39. Cấu trúc khu vực
Nhu cầu hợp tác và điểm nóng an ninh
Trung Quốc đóng tàu sân bay và liên
tục tập trận trên biển. Mỹ tuyên bố sẽ cung cấp cho Indonesia 24 chiến
đấu cơ phản lực F-16, Singapore cho biết sẽ chi 23 tỉ USD mua trực thăng
tuần tra. Malaysia mua 18 chiến đấu cơ đa năng. Việt Nam mua chiến đấu
cơ của Nga. Ấn Độ đưa tàu chiến đến biển Thái Bình Dương... Gần đây
nhất, trong chuyến công du châu Á, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố
Washington sẽ triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ đến Australia... Nga
tham gia tích cực hơn vào các diễn đàn khu vực Đông Á, ARF. Bên cạnh đó,
nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi nhiều cấp, nhiều kênh đã được tổ chức để
bàn về tình hình tại Biển Đông và vấn đề hợp tác an ninh khu vực.
Quả thực nhu cầu hợp tác để tiến tới
xây dựng cấu trúc khu vực mới đang ngày càng trở nên cấp thiết. Tại cuộc
họp của Đại hội đồng lần thứ 8 Hội đồng hợp tác an ninh châu Á-Thái
Bình Dương (CSCAP) do Học viện Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội cuối tháng
11 vừa qua, nhiều đại biểu đã chứng minh tính hữu ích của việc xây dựng
cấu trúc khu vực. Thứ nhất, có nhiều vấn đề vượt quá khả năng giải quyết
của bất kỳ nước đơn lẻ nào như tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, an ninh,
an toàn hàng hải, chủ nghĩa khủng bố, kiểm soát vũ khí, buôn bán người
và ma túy, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, bệnh dịch, di cư và tị
nạn, tình trạng mất cân đối tài chính và thương mại quốc tế. Thứ hai, do
quy mô vấn đề và bản chất ở tầm khu vực nên lại càng được giải quyết
thông qua các cơ chế cấp khu vực. Thứ ba, trong khi có nhiều vấn đề đòi
hỏi phải có sự phối hợp thông tin, chính sách và hành động ở cấp khu vực
như vậy thì châu Á-Thái Bình Dương vẫn chưa có một cấu trúc để điều
phối chung, thiên hướng ưu tiên cho chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa song
phương tiếp tục tồn tại.
Trong quá trình xây dựng cấu trúc khu
vực, một câu hỏi hóc búa đặt ra là hiện nay điểm nóng nào trong khu vực
đang trở thành tiêu điểm về an ninh. Bởi việc đối phó hiệu quả với các
thách thức chính là tiêu chí quan trọng của mọi cấu trúc khu vực.
Trước đây, các nhà phân tích nhấn mạnh
tính nghiêm trọng của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ
qua hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề Kashmir và Biển Đông và khi đề cập
đến khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, người ta thường chú trọng khu vực
Đông Bắc Á nhiều hơn. Tuy nhiên, giờ đây Đông Nam Á đang trở nên ngày
càng quan trọng và như Hội nghị CSCAP vừa qua nhận định sự chú ý đang
dồn sang vấn đề Biển Đông vì một số nguyên nhân chủ chốt. Thứ nhất, các
sự kiện diễn ra dồn dập gần đây đều liên quan đến biển Đông, trong khi
các vấn đề như tình hình bán đảo Triều Tiên phần nào lắng dịu đi còn
quan hệ qua hai bờ eo biển Đài Loan có bước cải thiện. Thứ hai, gần đây
việc có những đòi hỏi vô căn cứ, nhất là “đường lưỡi bò” đã vấp phải sự
phản đối của một số nước trong khu vực, kể cả những nước không trực tiếp
liên quan đến tranh chấp lãnh thổ chủ quyền ở Biển Đông và giới học
giả. Thứ ba, nếu như ở bán đảo Triều Tiên đã có cơ chế đàm phán 6 bên,
các nước hầu như đã thừa nhận chính sách một Trung Quốc trong vấn đề Đài
Loan thì vấn đề Biển Đông vẫn cần một cơ chế rõ ràng và hiệu quả hơn
mặc dù đã có sự cố gắng và thiện chí của một số bên liên quan như việc
thông qua bản Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và việc khởi động đàm phán
COC gần đây. Thứ tư, bản thân vấn đề Biển Đông cũng phức tạp vì hàm
chứa nhiều lợi ích của các bên liên quan như chủ quyền lãnh thổ, vị trí
địa chiến lược, tâm lý dân tộc, vấn đề tự do an ninh, an toàn hàng hải,
tiềm năng dầu khí, môi trường, cứu hộ, cứu nạn….
Các mô hình chủ đạo
Không thể phủ nhận khi nói đến chủ
nghĩa khu vực ở châu Á-Thái Bình Dương, trước hết người ta phải nhắc đến
tiểu khu vực Đông Nam Á và ASEAN. Từ năm 1963, nhà nghiên cứu khu vực
William Henderson đã nói mối quan tâm về hợp tác chung ở châu Á không
phải có mọi nơi, nó chỉ tập trung vào khu vực Đông Nam Á. Học giả khu
vực Acharya Amitav cũng từng nói ASEAN thậm chí còn cung cấp hình mẫu ra
quyết định cho các tổ chức khu vực khác, kể cả APEC. Các cơ chế hợp tác
khác trong lịch sử, kể cả có sự tham gia của các nước lớn như ASPAC
trước đây đều không thể tồn tại lâu. Trong khi đó các cơ chế đậm nét
ASEAN như ASEAN+, ARF, ADMM+ và EAS lại đang là “bộ khung” tốt để từ đó
xây dựng nên cấu trúc an ninh khu vực. Tính mở và linh hoạt của những
diễn đàn này cho phép tạo cơ chế để đối phó với những diễn biến nhanh và
khó lường của thế giới ngày nay. Vấn đề tiếp theo là xác định nội dung,
cơ chế hợp tác cụ thể để sao cho các cơ chế này ủng hộ và bổ sung cho
nhau, tạo nên mạng lưới nhiều tầng nấc, trong đó ASEAN ở vị trí trung
tâm. Đó là chưa kể những giá trị “độc đáo” khác của ASEAN mà không phải
nước và khu vực nào cũng có như tính trung lập, chủ trương không đe dọa,
tin cậy trong vai trò trung gian hòa giải …
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tiến
trình đi tới một cấu trúc an ninh khu vực chung không nhất thiết phải
lấy xuất phát điểm từ ASEAN. Quan điểm này xuất phát từ nghi vấn năng
lực quản lý xung đột của ASEAN, nhất là khi nhìn vào việc ARF trong giai
đoạn ngoại giao phòng ngừa chỉ tập trung đối phó với các thách thức an
ninh phi truyền thống và việc ASEAN chỉ chủ trương thúc đẩy ARF phù hợp
với tiến độ ưu thích của các nước thành viên.
Việc ASEAN đóng vai trò chủ đạo tuy là
thực tế và có triển vọng song rõ ràng thách thức lại mệnh đề “chính trị
do các nước lớn sắp đặt”. Vậy ASEAN là trung tâm hay sẽ có những nước
đóng vai trò lãnh đạo khu vực? Đối với châu Á-Thái Bình Dương hiện nay,
đó là vai trò nổi bật của Mỹ và Trung Quốc. Dù sức mạnh tương đối của
siêu cường Mỹ đang tiếp tục suy giảm nhưng quân sự, kinh tế vẫn vượt
trội so với tất cả các quốc gia khác. Hơn nữa, Chính quyền Mỹ giờ đây
đang thể hiện quyết tâm chính trị lớn là sẽ trở lại khu vực. Sự “trở
lại” ở đây mang hàm ý chuyển hướng trọng tâm chiến lược, chứ không đơn
thuần là yếu tố địa lý. Theo một số đánh giá, về phía các quốc gia châu
Á, có thể có thoả thuận ngầm trong việc ủng hộ Mỹ đóng vai trò lớn hơn
tại khu vực bằng cách tạo ra các thể chế mở, linh hoạt, và toàn diện.
Một số đã có quan hệ liên minh còn một số khác đang thúc đẩy quan hệ hợp
tác song phương chặt chẽ hơn với Mỹ.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy nhanh chóng và
tương đối toàn diện của Trung Quốc cũng đặt ra nhiều vấn đề đặc biệt
đáng quan tâm. Bởi vậy, các nước yếu hơn cần khéo léo trong việc thúc
đẩy quan hệ phù hợp với cả Mỹ và Trung Quốc. Bản thân Mỹ cũng chưa hề
bày tỏ sẽ đóng một vai trò rõ ràng ở khu vực ngoại trừ tuyên bố sẽ trở
lại. Một mặt Mỹ vẫn để các nước khác thúc đẩy quá trình thảo luận về cấu
trúc an ninh chung, mặt khác lại không muốn thấy các cơ chế này làm
giảm vai trò của Mỹ.
Trong bối cảnh đó, một số học giả đề
xuất mô hình “hòa hợp quyền lực”, tức là một dạng mô hình mở rộng của an
ninh hợp tác. Theo đó các trung tâm quyền lực, kinh tế lớn trong khu
vực (8-10 thành viên của G20) sẽ tạo nên một trật tự mà trong đó các
nước dù có nghi ngờ nhau nhưng cam kết sẽ không tạo nên các mối đe dọa
trực tiếp. Trong hệ thống đó, các quốc gia thành viên sẽ tìm cách để
giảm thiểu các nguy cơ hiểu lầm về nhau, những yếu tố có thể gây nên sự
bất an và qua đó tạo nhiều cơ hội hơn để tăng cường hợp tác và cùng đối
phó với các thách thức xuyên quốc gia. Nhưng đây chính là mô hình Cộng
đồng Châu Á-Thái Bình Dương do Australia đề xuất, mô hình do một số lý
do khách quan và chủ quan đã không còn được thảo luận nhiều tại các diễn
đàn khu vực. Tuy được đánh giá cao và có vai trò tích cực của Thủ tướng
Kevin Rud lúc đó và nay là Ngoại trưởng, nó chỉ dừng lại như báo chí mô
tả là đóng góp thêm một “mặt trận” cho cuộc chiến các ý tưởng tại khu
vực.
Các mô hình cân bằng
Theo những người theo chủ thuyết hiện
thực mới, sự xáo trộn về cán cân lực lượng trong khu vực là tình huống
nguy hiểm. Đồng thời họ cũng dự báo các quốc gia yếu hơn trong khu vực
sẽ tìm cách tập hợp để cân bằng lại ảnh hưởng của quốc gia nổi trội hơn.
Như vậy, trong khi không mấy tin tưởng vào khả năng hợp tác giữa các
quốc gia trong dài hạn, trường phái hiện thực mới lại cho rằng các quốc
gia sẽ tìm mọi biện pháp cần thiết để tránh một tình huống mất cân bằng
nghiêm trọng. Hay nói cách khác, các quốc gia sẽ tìm cách “không để”
quốc gia nào khác đóng vai trò chi phối trong khu vực.
Dĩ nhiên, nếu lấy xuất điểm là lợi ích
quốc gia, độ bền vững của cấu trúc cân bằng còn tùy thuộc vào tính toán
của các bên, nhất là của các nước lớn như Mỹ, Trung, Nhật, Ấn và Nga.
Cũng do yếu tố lợi ích, các nước sẽ từ bỏ hoặc điều chỉnh tính chất của
liên minh cân bằng một khi tình thế thay đổi. Đó là câu chuyện của SEATO
trước đây. Hơn nữa, thực tế của khu vực hiện nay cho thấy, hòa bình, ổn
định và hợp tác tiếp tục là xu thế chủ đạo, như vậy động cơ để thiết
lập một cơ chế cân bằng quyền lực mới chưa phải quá câu thúc. Điều này
có nghĩa là trạng thái cân bằng hiện tại chưa phải đã hoàn toàn hết tác
dụng ở châu Á-Thái Bình Dương. Cũng chính vì vậy, có ý kiến cho rằng
việc hướng tới một cấu trúc an ninh khu vực dựa vào mô hình cân bằng
quyền lực mới sẽ khó thành hiện thực ngay.
Nếu như cơ chế cân bằng quyền lực có
phần cứng nhắc, cách tiếp cận của hệ phái hiện thực phòng thủ gợi ý nên
ưu tiên mô hình cân bằng lợi ích, hàm ý các nước dù có tin tưởng lẫn
nhau hay không cũng nên linh hoạt lựa chọn cách ứng xử bởi việc liên kết
hay cân bằng đều có thể đem đến những lợi ích thiết thực về an ninh hay
phát triển.
Quan điểm thực tiễn
Mọi lý thuyết cần lấy thước đo thực
tiễn để kiểm nghiệm. Vấn đề cốt tử là liệu trên thực tế các nước có tìm
được tiếng nói chung? Cuộc họp Cấp cao EAS tháng 11 vừa qua tại Bali cho
thấy điều này phụ thuộc rất lớn vào thiện chí của các bên liên quan,
nhất là các nước lớn và ASEAN. Về mặt nguyện vọng, tất cả các nước đều
muốn duy trì một khu vực châu Á-Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, thuận
lợi cho hợp tác và phát triển. Một cấu trúc khu vực lý tưởng ổn định sẽ
có tác dụng điều hòa lợi ích giữa các nước, tránh va chạm không đáng
có.
Tuy nhiên, góc nhìn không vì thế mà
giống nhau trong thực tiễn chính sách. Chẳng hạn, đối với châu Âu, việc
Mỹ chuyển trọng tâm sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương xét theo một
nghĩa nào đó có nghĩa là Mỹ sẽ “bỏ rơi” đồng minh lâu năm bên kia bờ Đại
Tây Dương. Ngoài ra, sự trở lại của Mỹ không phải được hoan nghênh với
mức độ như nhau ở mọi nước. Tương tự như vậy, quá trình trỗi dậy nhanh
chóng của Trung Quốc gây nên sự tranh luận giữa giới học thuật và chính
sách trên thế giới, nhất là đối với câu hỏi sự trỗi dậy của Trung Quốc
sẽ đem lại gì, Trung Quốc sẽ tìm kiếm vai trò và muốn gây tác động như
thế nào để tiến tới cấu trúc khu vực mong muốn.
Xét về mặt chuẩn tắc, cấu trúc an ninh
khu vực phải là quá trình từng bước, dựa trên cơ sở lòng tin xây dựng
giữa các nước ASEAN/ARF và các nước trong khu vực. Việc xây dựng cấu
trúc an ninh, theo ý kiến một số học giả, cũng nên hướng tới việc xây
dựng cộng đồng khu vực. Đây là các tiêu chí mà ít nhiều các tiến trình
trong khu vực đã hướng đến, nhất là với vai trò chủ đạo và điều phối
tích cực của ASEAN. Đồng thời, mọi tiến trình khu vực muốn vững chắc
phải có sự tham gia phù hợp của các nước lớn, bắt đầu bằng quá trình
tham vấn và phối hợp.
Mặc dù, về lý thuyết, sẽ chẳng có một
mô hình cấu trúc an ninh nào có thể được gọi là tối ưu trong việc hóa
giải các thách thức của khu vực châu Á-Thái Bình Dương năng động, nhưng
có lẽ bằng sự đoàn kết và thống nhất trong nội bộ, ASEAN có thể tạo thêm
một câu chuyện thành công về chủ nghĩa khu vực trong bối cảnh mới.
Lê Đình Tĩnh
|
38. Châu Phi trỗi dậy
Số 266: Châu Phi trỗi dậy | |||
Bức tranh màu xám
Châu Phi là châu lục đứng thứ ba trên
thế giới về dân số và diện tích, sau châu Á và Châu Mỹ, với diện tích
khoảng 30.244.050 km² (chiếm 20,4% tổng diện tích đất đai của Trái Đất)
và 800 triệu dân sinh sống ở 54 quốc gia (chiếm khoảng 1/7 dân số thế
giới). Bị ngăn cách khỏi châu Âu bởi Địa Trung Hải, châu Phi nối liền
với châu Á về phía tận cùng đông bắc bằng eo đất Suez (bị cắt ngang bởi
kênh đào Suez) có bề rộng 130 km (80 dặm).
Trong một thời gian dài, châu Phi được
xem như châu lục của xung đột và đói nghèo. Sau đêm dài nô lệ với vai
trò là thuộc địa của thực dân phương Tây, kể từ thập niên 1960 khi phần
lớn các nước trong châu lục giành được độc lập, châu Phi những tưởng sẽ
bắt đầu một tương lai tươi sáng khi người dân được quyền làm chủ vận
mệnh của mình. Nhưng mọi chuyện sau đó dường như không khác thời kỳ
thuộc địa là mấy: chiến tranh, xung đột liên miên, hạn hán, đói nghèo,
dịch bệnh tràn lan trong khi kinh tế dậm chân tại chỗ. Hầu hết dân châu
Phi hiện đang sống dưới mức 2 USD/ngày. Mức sản xuất lương thực bình
quân đầu người không hề tăng kể từ những năm 1960 đến nay. Tuổi thọ bình
quân của người dân một số nước vẫn thấp dưới 50. Tài nguyên thiên nhiên
suy giảm, môi trường khí hậu đang rơi vào tình trạng tồi tệ khi nạn phá
rừng và hoang mạc hóa diễn ra hết sức trầm trọng. Màu xám dường như vẫn
là gam màu chủ đạo trong bức tranh kinh tế - xã hội châu Phi.
Kịch bản lạc quan
Nhưng điều đó có vẻ như đang dần đi
vào dĩ vãng: ngày 20/10/2011 vừa qua, Ngân hàng Phát triển Châu Phi đã
cho công bố một bản báo cáo đầy ấn tượng về triển vọng phát triển kinh
tế của châu lục này: Trong một kịch bản lạc quan nhất, GDP toàn châu lục
sẽ tăng đến 900%, lên mức 15.000 tỷ USD vào năm 2060 - đúng vào dịp kỷ
niệm 100 năm ngày châu Phi giành được độc lập. Thu nhập bình quân đầu
người sẽ tăng gấp ba trong vòng 50 năm tới: Từ mức 1.667 USD năm 2010
lên đến khoảng 5.600 USD vào năm 2060, tương đương mức thu nhập của
người dân vùng Đông Nam Á hiện nay. Theo bản Báo cáo này, đến năm 2060,
"hầu hết các nước châu Phi sẽ đạt được mức thu nhập trung bình cao, nạn
đói nghèo sẽ bị xóa sổ".
Dự báo trên được minh chứng hùng hồn
bằng những số liệu đáng khích lệ về tình hình kinh tế của các quốc gia
trong khu vực: Trong vòng một thập kỷ qua, 6 trong số 10 quốc gia có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới nằm ở châu Phi. Tăng trưởng toàn
châu lục đạt 5,5%/năm so với 1,5% ở các nước phát triển và 1% ở châu Âu,
giúp GDP toàn châu lục vượt qua mức 1.600 tỷ USD. Hoạt động kinh tế của
châu lục đã chứng minh được năng lực kháng cự tốt trước các cú sốc:
Trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua, trong khi tăng trưởng
năm 2009 ở Mỹ giảm 2,4% và ở châu Âu giảm 4%, Châu Phi vẫn giữ được mức
tăng 2% dù luồng tài chính đổ vào đây giảm từ 53 tỷ USD xuống còn 22 tỷ
USD. Sự phục hồi được khẳng định trong các năm 2010 và 2011 khi tốc độ
tăng trưởng của lục địa đen đạt 6% và dự báo sẽ tiếp tục tốc độ trên vào
năm 2012, xấp xỉ tốc độ tăng trưởng của Châu Á.
Lý do khởi sắc
Lý giải cho sự khởi sắc ấn tượng trên của kinh tế châu Phi, có thể đưa ra một số lý do sau:
Thứ nhất, những tiến bộ về chính trị
đã góp phần đảm bảo cho kinh tế châu lục phát triển ổn định. Tuy vẫn còn
xung đột, song hòa bình đã trở lại với nhiều nước bị tàn phá sau hàng
thập kỷ đối đầu như Angola, Mozambique, Rwanda, Sierra Leon. Bầu cử tự
do và đa nguyên mở rộng giúp tìm kiếm giải pháp hòa bình cho khủng hoảng
chính trị như ở Kenya. Tại Bờ Biển Ngà, Tổng thống Alassane Ouattara
xác định mục tiêu là hòa giải dân tộc và tái thiết nền kinh tế hàng đầu ở
Tây Phi bị điêu đứng sau 10 năm nội chiến. Người dân tại nhiều quốc gia
cuối cùng cũng đã được hưởng bầu không khí hòa bình, được thực thi các
quyền dân chủ cơ bản và được tự mình định đoạt vận mệnh của đất nước
thông qua lá phiếu cử tri. Nhiều quốc gia đã dần được điều hành bởi các
chính phủ dân chủ, có năng lực, qua đó có nhiều điều kiện thuận lợi hơn
để tập trung phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, một số điều kiện cơ bản để
phát triển kinh tế của châu Phi đang được phát triển đúng hướng: Châu
lục này có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, chỉ tính về tài
nguyên năng lượng, Châu Phi nắm giữ tới 30% tiềm năng thủy điện của thế
giới cũng như nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió vô tận. Trước
nhu cầu của dân số với 7 tỷ người có mức tiêu thụ thực phẩm gia tăng,
châu Phi chiếm tới 80% trữ lượng đất nông nghiệp, hứa hẹn sẽ trở thành
"trang trại của thế giới" trong tương lai. Châu Phi cũng có một tầng lớp
trung lưu đang phát triển nhanh chóng: Theo Ngân hàng Standard, Châu
Phi hiện có khoảng 60 triệu người có thu nhập trung bình 3.000 USD một
năm và dự báo đến năm 2015 số người này sẽ tăng lên đến 100 triệu. Cùng
với quá trình đô thị hóa nhanh chóng, yếu tố trên sẽ giúp kích cầu tiêu
dùng, phát triển thương mại trong khu vực.
Thứ ba, châu Phi đang dần hình thành
được một hệ thống đầu tàu kinh tế giúp kéo nền kinh tế cả khu vực đi
lên. Sau cuộc khủng hoảng năm 2008, tư bản toàn cầu được tái cơ cấu xung
quanh các cực ngoại vi trong khi các nước trỗi dậy thu hút được nhiều
sự chú ý. Châu Phi hiện có Nam Phi và Nigeria - hai nước đông dân và có
tiềm lực kinh tế khá mạnh, có khả năng dẫn dắt kinh tế khu vực đi lên;
tiếp sau đó, một loạt quốc gia được mệnh danh là "sư tử châu Phi" như:
Algeria, Boswana, Ai Cập, Mauritius, Libya, Morocco, Tunisia đã đạt mức
thu nhập tính theo đầu người 10.000 USD, cao hơn cả mức của nhóm BRIC
(8.800 USD), cũng đang vững bước tiến vào quá trình toàn cầu hóa. Bên
cạnh đó, với việc hàng rào thuế quan giữa các nước đang được dỡ bỏ,
thương mại xuyên biên giới giữa các quốc gia nội khối đang có chiều
hướng phát triển tốt sau nhiều năm bị gián đoạn bởi xung đột chính trị,
tạo điều kiện để các quốc gia trong khu vực tự lực cánh sinh giúp đỡ
nhau thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ tư, do nguồn đầu tư từ nước ngoài:
Thời gian qua, một trong những quốc gia hăng hái đầu tư vào châu Phi
nhất là Trung Quốc. Khách quan nhìn nhận, việc nước này thâm nhập vào
Châu Phi đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng và thúc đẩy ngành sản xuất
chế tạo ở đây phát triển. Các nước ngoài phương Tây khác như Brazil, Thổ
Nhĩ Kỳ, Malaysia và Ấn Độ cũng đang theo bước Trung Quốc tiến vào châu
lục đầy tiềm năng này. Với sự tham gia của các quốc gia này, châu Phi có
thể trở thành trung tâm của ngành sản xuất công nghiệp nhẹ và dịch vụ
của thế giới trong tương lai. Theo thống kê, lượng vốn đầu tư nước ngoài
vào châu lục đã tăng khoảng 10 lần trong 10 năm qua và dự báo dòng vốn
quốc tế chảy vào châu Phi có thể sẽ đạt 150 tỷ USD vào năm 2020, một con
số rất đáng khích lệ.
Và cuối cùng, một số điều kiện kinh tế
- xã hội đang dần được cải thiện: Sức khỏe của nhiều triệu người châu
Phi đang có những bước tiến rõ rệt, một phần nhờ vào việc các nước đã
triển khai mạnh mẽ chiến dịch phân phát màn chống muỗi cho dân chúng
cũng như việc ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS; năng suất làm việc của người
dân đang tăng tiến với tốc độ 3%/năm, ở châu Mỹ, tốc độ này ở mức 2,3%.
Xu hướng phát triển dân số của châu Phi cũng đóng góp vào công cuộc phát
triển của châu lục này. Trong thời gian qua, một số lượng lớn thanh
niên được giáo dục đầy đủ hơn, thông minh hơn đã bước chân vào thị
trường lao động, hứa hẹn sẽ giúp sức sản xuất của châu lục tăng vọt
trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh bắt đầu giảm góp phần giảm
bớt gánh nặng cho nền kinh tế. Dự báo dân số châu Phi sẽ tăng từ 860
triệu lên 1,8 tỷ người từ nay đến năm 2050, với lực lượng lao động hùng
hậu, cơ cấu dân số với tỷ lệ người trong tuổi lao động cao hơn số người
phụ thuộc, châu Phi đang có những yếu tố vô cùng thuận lợi để thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng.
Với những lý do trên, chúng ta có cơ
sở để tin rằng trong thời gian tới, nền kinh tế châu lục này sẽ cất
cánh, tất nhiên là với điều kiện các nước trong châu lục cùng quyết tâm
phấn đấu vì một tương lai tươi sáng hơn.
Những căn bệnh trầm kha
Nhưng tương lai của châu Phi không chỉ
có toàn ưu điểm, những biến đổi khó lường của tình hình quốc tế và khu
vực cộng với hàng loạt căn bệnh trầm kha đã ăn sâu cắm rễ vào xã hội
châu Phi chắc chắn sẽ đặt ra nhiều vấn đề lớn phải giải quyết: Những hệ
quả không mong đợi của các cuộc cách mạng ở Bắc Phi thời gian qua; khủng
bố triền miên hoành hành ở khu vực Sahel; các mạng lưới tội phạm, buôn
lậu và cướp biển phát triển mạnh ở các vùng lãnh thổ nằm ngoài tầm kiểm
soát của các chế độ đã sụp đổ, từ Somalia đến một số vùng khác ở miền
Đông châu Phi; xung đột sắc tộc, biên giới; bất bình đẳng xã hội, khoảng
cách phát triển giữa các vùng trong nước và giữa các nước trong khu vực
với nhau còn rất lớn. Nhiều chính phủ ở châu Phi hiện vẫn còn yếu kém
và tham nhũng. Quá trình chuyển đổi kinh tế ở châu Phi mới chỉ ở bước
đầu và chưa vững chắc…
Hàng loạt vấn đề trên chắc chắn không
thể được giải quyết chỉ trong một sớm một chiều. Bên cạnh đó, quốc tế
cũng cần có những biện pháp hữu hiệu hơn để giúp kinh tế châu Phi tiến
bước: Các nước phương Tây nên mở rộng giao thương với châu Phi hơn là
chỉ cung cấp các nguồn viện trợ cho châu lục này. Việc Mỹ thông qua Đạo
luật Cơ hội và Tăng trưởng Châu Phi được cho là một bước khởi đầu tốt
khi giúp hạ thấp hàng rào thuế quan của Mỹ đánh vào nhiều mặt hàng đến
từ các nước châu Phi tuy nhiên, mô hình trên vẫn còn là cá biệt và cần
được nhân rộng ra nhiều nước khác nữa.
Dù còn quá sớm để đưa ra nhận định
chắc chắn về quá trình phát triển của châu Phi nhưng trong bối cảnh bức
tranh kinh tế thế giới đang ảm đạm, những tiến bộ của Châu Phi thời gian
qua là một điểm sáng đáng khích lệ và cho ta hy vọng về một phép màu kỳ
diệu có thể thay đổi hoàn toàn bộ mặt châu Phi, biến Lục địa đen trở
thành lục địa phồn vinh trong một tương lai không xa.
Trung Nguyên
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)