Dầu lửa đã, đang và sẽ trở thành câu chuyện quan trọng hàng đầu liên quan đến an ninh và phát
triển của Trung Quốc. Trung Quốc tích cực thúc đẩy triển khai chính
sách ngoại giao năng lượng rộng khắp các châu lục nhằm phục vụ nhu cầu
năng lượng ngày càng cao. Trung Á - “rốn dầu” của thế giới, đồng thời
tiếp giáp với một số vùng “lợi ích cốt lõi” - có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng với Trung Quốc.
Sự
trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc những năm gần đây là một trong những lý
do dẫn đến nhu cầu năng lượng phục vụ cho phát triển kinh tế, quốc
phòng và đời sống người dân ở Trung Quốc gia tăng và tình trạng mất cân
bằng cung cầu dầu lửa cũng như mức độ phụ thuộc của Trung Quốc với bên
ngoài vào dầu lửa ngày càng lớn. Giải quyết bài toán dầu lửa đã, đang và
sẽ trở thành câu chuyện quan trọng hàng đầu, không chỉ liên quan tới
phát triển mà còn liên quan tới nhiều vấn đề khác như ổn định, an ninh,
chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Vì vậy, trong thời gian qua, Chính
phủ Trung Quốc đã triển khai chính sách ngoại giao năng lượng rộng khắp
các châu lục bằng nhiều hình thức triển khai khác nhau nhằm tìm kiếm
nguồn cung, bảo đảm an ninh các tuyến đường cung cấp trên biển, trên bộ.
Với khu vực Trung Á, đây là khu vực láng giềng, tiếp giáp với một số
vùng “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc liên quan trực tiếp đến lợi ích
quốc gia, có ý nghĩa địa chiến lược quan trọng, đồng thời cũng là một
trong những “rốn dầu” của thế giới với sự cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều
cường quốc. Điều này đã thúc đẩy Trung Quốc từng bước ưu tiên tăng
cường quan hệ, hình thành chính sách ngoại giao năng lượng tương đối cụ
thể đối với khu vực này trong những năm đầu thế kỷ 21.
1. Tầm quan trọng của Trung Á đối với Trung Quốc
Về địa chiến lược: Khu
vực Trung Á được hiểu theo cách phổ biến gồm có năm quốc gia:
Ca-dắc-xtan, U-dơ-bê-ki-xtan, Cư-rơ-gư-xtan, Tát-gi-ki-xtan và
Tuốc-mê-ni-xtan, có vị trí địa chiến lược, nằm giữa ngã ba châu Á – châu
Âu và Trung Đông và Trung Á nằm giữa lục địa Âu – Á và là một phần của
con đường tơ lụa nối Đông và Tây[1],
nối liền hai lục địa Âu – Á. Trung Á là khu đệm, là nơi giáp ranh hội
đủ các nền văn minh chính giáo, Hồi giáo, Trung Hoa và Ấn Độ, một bãi
đáp tuyệt vời để kiểm soát vùng Âu – Á từ cả bốn phía của thế giới[2].
Bởi thế, bất kỳ sự kiện nào xảy ra tại Trung Á sẽ không chỉ tác động
đến khu vực mà còn làm thay đổi cân bằng địa chính trị tại lục địa Âu –
Á, khu vực được coi là trục phát triển của thế giới. Cũng như vậy, đối
với Trung Quốc, đây là khu vực để Trung Quốc có thể mở rộng hợp tác
Á-Âu.
Về an ninh: Trung Quốc đang phải đối mặt với, thứ nhất
những rắc rối xoay quanh chủ nghĩa hồi giáo cực đoan, chủ nghĩa khủng
bố và chủ nghĩa ly khai vùng biên giới Tân Cương Trung Quốc trong thời
gian dài. Điển hình như các cuộc đòi ly khai, thành lập nhà nước riêng ở
Tân Cương, hay các cuộc bạo loạn đẫm máu do xung đột sắc tộc giữa người
Hán và người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur). Phong trào ly khai đòi thành lập nhà
nước riêng tại Tân Cương được cho là có liên quan đến hoạt động của các
nhóm khủng bố có vũ trang tại Trung Á[3], nơi mà Trung Quốc có 3.000 km đường biên giới chung tiếp giáp với ba nước Ca-dắc-xtan, Cư-rơ-gư-xtan, Tát-gi-ki-xtan. Thứ hai,
trong thời gian gần đây, hàng loạt các cuộc “cách mạng màu” do phương
Tây hậu thuẫn lật đổ chính quyền tại một số nước Trung Á thập niên đầu
thế kỷ 21, khiến Trung Quốc lo ngại sâu sắc về sự lan tỏa, ảnh hưởng của
các cuộc cách mạng đó tới phong trào đòi ly khai tại Tân Cương. Kịch
bản của việc để mất Tân Cương sẽ vô cùng nguy hiểm đối với sự phát triển
và vị thế của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc tăng cường can dự vào khu
vực Trung Á nhiều hơn, coi đây như là một vùng đệm an ninh của Trung
Quốc.
Về kinh tế: Thứ nhất,
khu vực Trung Á có nguồn dự trữ dầu mỏ, than, khí đốt - những nhiên
liệu then chốt đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong
tương lai. Về dầu mỏ, Ca-dắc-xtan có trữ lượng 39,8 tỉ thùng;
Tuốc-mê-ni-xtan và U-dơ-bê-ki-xtan có 6 tỉ thùng; về khí đốt thì trữ
lượng khí đốt của Ca-dắc-xtan là 2.407 tỉ m3, Tuốc-mê-ni-xtan là 7.504 tỉ m3 (chiếm 1/3 trữ lượng của thế giới)[4].
Có thể nói, kho năng lượng Trung Á còn có ý nghĩa quan trọng, nổi trội
đối với Trung Quốc do những lợi thế về vị trí thuận lợi, liền kề với
Trung Quốc, một sự lựa chọn cần thiết so với tuyến đường biển từ Cận
Đông và châu Phi vừa xa xôi, vừa dễ chịu tác động tiêu cực từ các nhân
tố bên ngoài.
Thứ hai,
Trung Á đóng vai trò quan trọng trong chiến lược đẩy mạnh liên kết kinh
tế khu vực của Trung Quốc. Là một cường quốc đang trong quá trình trỗi
dậy, tìm kiếm vị trí, khẳng định vai trò của mình tại các tổ chức khu
vực và quốc tế, Trung Quốc cần tăng cường quan hệ kinh tế với các nước
láng giềng và các nước trong khu vực, thông qua đó có thể đảm bảo những
lợi ích kinh tế của riêng mình. Đương nhiêu, khu vực Trung Á được coi là
một trọng tâm trong những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh liên kết
kinh tế khu vực.
Thứ ba,
việc tăng cường liên kết kinh tế chặt chẽ với Trung Á trên các lĩnh vực
như phát triển giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, xây
dựng hệ thống đường ống dẫn dầu khí, mạng lưới điện…sẽ giúp cho khả năng
thực hiện của chính sách “Đại khai phát miền Tây” của Trung Quốc đưa ra
cuối thế kỷ trước thuận lợi.
Thứ tư,
Trung Á là một thị trường rất hấp dẫn cho hàng hóa xuất khẩu của Trung
Quốc. Hiện nay, hàng hóa của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường Trung Á,
phần lớn là hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp giá rẻ, phù hợp với mức
sống người dân của khu vực này.
2. Nội dung cơ bản của chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đối với các nước Trung Á
2.1. Mục tiêu của chính sách
Thứ nhất, Trung
Quốc triển khai chính sách ngoại giao năng lượng tại khu vực Trung Á
trước hết là nhằm tăng cường đảm bảo ổn định nguồn cung năng lượng,
thông qua việc đa dang hóa nguồn cung năng lượng cho vùng Đông Bắc Trung
Quốc, giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Đông[5].
Thứ hai
là nhằm gắn kết chặt chẽ hơn về kinh tế, chính trị với các nước Trung
Á: Thông qua các hoạt động ngoại giao năng lượng, Trung Quốc muốn hướng
tới việc tăng cường liên kết về thương mại, đầu tư không chỉ trong lĩnh
vực năng lượng mà còn nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, tạo
thế phụ thuộc lẫn nhau và tạo cơ sở vững chắc cho việc thiết lập quan hệ
chiến lược giữa Trung Quốc với các nước Trung Á phục vụ cho lợi ích của
Trung Quốc.
Ba là
hậu thuẫn cho chiến lược phát triển miền Tây của Trung Quốc: Các đường
ống dẫn dầu khí lớn từ Trung Á tới Trung Quốc đều đi qua tỉnh Tân Cương,
sau đó nối với hệ thống đường ống nội địa để cung cấp năng lượng cho
các thành phố lớn của Trung Quốc…Việc xây dựng và vận hành các đường ống
dẫn dầu khí này sẽ phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, tạo
công ăn việc làm, ổn định xã hội ở khu vực biên giới phía Tây Trung
Quốc. Bên cạnh đó, thông qua hợp tác năng lượng, quan hệ song phương với
các nước Trung Á được tăng cường sẽ giúp Trung Quốc ngăn chặn phong
trào ly khai, sắc tộc, khủng bố tại Tân Cương.
Bốn là gia
tăng ảnh hưởng và cạnh tranh với các nước lớn khác tại Trung Á: Đây là
một mục tiêu rất quan trọng bởi Trung Á có vị trí địa chiến lược đặc
biệt, là địa bàn diễn ra cuộc cạnh tranh địa chính trị của nhiều cường
quốc như Mỹ, Nga, Nhật Bản, EU, Ấn Độ. Thông qua việc thiết lập các
đường ống dẫn dầu khí trực tiếp từ Trung Á tới Trung Quốc, thông qua các
biện pháp đầu tư, cho vay, viện trợ… Trung Quốc hướng tới việc tăng
cường sự hiện diện tại Trung Á, gia tăng ảnh hưởng và cạnh tranh với các
nước lớn khác tại khu vực.
2.2. Các biện pháp và hoạt động cụ thể triển khai chính sách
Thứ nhất,
tranh thủ các chuyến thăm cấp cao, quan hệ hữu nghị truyền thống, láng
giềng giữa Trung Quốc với các nước Trung Á, định hình các cơ chế gặp gỡ
cấp cao. Một trong các nội dung trọng tâm của các cuộc gặp là về năng
lượng giữa các nước trên. Các chuyến thăm thường được lồng ghép, kết hợp
dự lễ khánh thành đường ống dẫn dầu mới, hoặc ký kết các thương vụ mua
bán dầu khí lớn…; như các chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tới
U-dơ-bê-ki-xtan tháng 6 năm 2004, tới Ca-dắc-xtan tháng 7 năm 2005, ít
nhiều đều liên quan tới dầu khí.
Thứ hai,
tận dụng triệt để các mối liên hệ địa chính trị, kinh tế, quân sự tại
khu vực Trung Á nhằm tạo ra thế phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung Quốc và
các nước Trung Á. Trung Quốc đã thực hiện chiến lược “đi ra ngoài”, đầu
tư mạnh mẽ vào các lĩnh vực kinh tế của Trung Á và trong đó ngành năng
lượng là một trọng điểm. Giá trị đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI)
của Trung Quốc tại các nước Trung Á tăng trưởng nhanh chóng, cao nhất là
tại Ca-dắc-xtan với mức tăng 77 lần từ năm 2003-2009[6]. Trong
hàng thập niên qua, Trung Quốc đã đầu tư lớn vào nguồn năng lượng và
phát triển cơ sở hạ tầng ở Trung Á, bao gồm các đường ống dẫn dầu, khí
từ Kazakhstan, Turkmenistan tới Trung Quốc[7]. Ngân hàng Phát triển của Trung Quốc (CDB)
cung cấp nguồn tài chính cho xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu từ
Kazakhstan sang Trung Quốc. Đồng thời cung cấp 8,1 tỷ cho xây dựng
tuyến đường ống vận chuyển gas từ Turkmenistan qua Uzbekistan,
Kazakhstan đến Trung Quốc[8].
Đặc biệt,trong những năm gần đây, các nhân tố quốc tế đã phần nào thúc
đẩy Trung Quốc tăng cường can dự mạnh mẽ hơn vào khu vực Trung Á: (i)
Cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới 2008-2009 làm giảm các nhà đầu tư
ngoại vào khu vực năng lượng khu vực Trung Á, Trung Quốc đã nhanh chóng
nắm bắt được nhu cầu này. Khéo léo tận dụng thời cơ khi các đối thủ như
Mỹ, Nga đang tập trung đối phó với cơn khủng hoảng kinh tế, tài chính,
Trung Quốc với nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ (3200 tỉ đô la Mỹ) đã trở
thành nhà cung cấp tài chính quan trọng và nhà đầu tư hàng đầu tại Trung
Á; (ii) tình hình Trung Đông – Bắc Phi đang xuất hiện xu hướng lộn xộn
về chính trị, tác động không nhỏ tới ổn định nguồn cung năng lượng cho
Trung Quốc, Trung Quốc đã gia tăng đầu tư, can dự vào lĩnh vực dầu khí ở
khu vực. Trong báo cáo an ninh năng lượng quốc gia Trung Quốc có nêu:
“Chúng ta là nước láng giềng của khu vực này (Trung Á). Chúng ta phải
tham gia các hoạt động địa kinh tế và địa chính trị từ cả bốn phía và
đảm bảo an ninh nguồn cung dầu (…). Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ Mỹ
và Nga trong khu vực đang ngày một căng thẳng. Trung Quốc không nên rút
khỏi cuộc cạnh tranh (giữa các cường quốc) trong khu vực để đảm bảo an
ninh nguồn cung dầu của mình[9].
Trên
lĩnh vực quân sự, Trung Quốc tăng cường hợp tác với các nước cộng hòa
Trung Á thể hiện ở việc chuyển giao vũ khí, đào tạo và tập trận quân sự
chung, đặc biệt với hai nước Ca-dắc-xtan và Cư-rơ-gư-xtan. Trong khuôn
khổ của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), các cuộc tập trận chung giữa
các bên bắt đầu diễn ra từ tháng 10/2002. Có thể nói, sự liên kết chặt
chẽ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Trung Á trên nhiều lĩnh vực
về kinh tế, quân sự…đã tạo nên thế phụ thuộc cả hai bên đều cần nhau,
nếu quốc gia Trung Á nào đơn phương chấm dứt cung dầu cho Trung Quốc có
thể sẽ phải gánh chịu những rủi ro về kinh tế, quân sự tương tự.
Thứ ba, thông qua cơ chế hợp tác khu vực đa phương mà điển hình là củng cố Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO).
Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), được thành lập ngày 14/6/2001 tại thành
phố Thượng Hải, là một tổ chức hợp tác liên chính phủ gồm sáu nước là
Ca-dắc-xtan, Trung Quốc, Cư-rơ-gư-xtan, Nga, Tát-gi-ki-xtan và
U-dơ-bê-ki-xtan, với diện tích 30 triệu km2, chiếm 3/5 lục địa Á-Âu, dân số 1,4 tỉ người (1/4 dân số thế giới)[10].
Mục đích ra đời của SCO là nhằm chống chủ nghĩa khủng bố, chống chủ
nghĩa ly khai và chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo cực đoan; đồng thời ngăn
chặn ảnh hưởng của Mỹ, NATO tăng cường thâm nhập vào khu vực Trung Á.
Không chỉ đóng vai trò là một cơ chế đảm bảo an ninh cho khu vực theo
như mục đích ban đầu của tổ chức này, mà kể từ năm 2003 tới nay, SCO còn
ưu tiên tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên, trong đó
năng lượng là một lĩnh vực quan trọng.
Đối với Trung
Quốc, SCO là cơ chế thuận lợi giúp nước này thúc đẩy các mối quan hệ
hợp tác với các nước thành viên theo định hướng của Trung Quốc, nhất là
trên một số vấn đề khó có thể tiến hành ở cấp song phương. Trung
Quốc đang ra sức thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại trong SCO, làm
cho cơ sở hợp tác cùng có lợi giữa các thành viên SCO, trong đó có hợp
tác năng lượng. Tại Hội nghị Thượng đỉnh SCO tổ chức tại
Ta-sken, U-dơ-bê-ki-xtan năm 2004, Trung Quốc nhận định rằng: lần đầu
tiên hợp tác năng lượng đã trở thành một trong những vấn đề nóng nhất
trong chương trình nghị sự của SCO, thậm chí các nhà phân tích Trung
Quốc còn tranh luận sôi nổi về việc dùng SCO để biến “con đường Tơ lụa”
trước đây thành “con đường năng lượng”[11]. Trung
Quốc cũng thúc đẩy việc thành lập “Câu lạc bộ năng lượng” – được thông
qua tại Hội nghị thượng đỉnh SCO năm 2007 nhằm phối hợp và phát triển
các dự án năng lượng vì lợi ích của các nước thành viên, đồng thời đề
nghị thành lập một Ngân hàng Phát triển SCO, trong đó Trung Quốc sẽ cung
cấp phần lớn số vốn ban đầu của ngân hàng này.
Bốn là,
xây dựng lòng tin với các nước Trung Á, tạo hình ảnh gần gũi với các
nước Trung Á. Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế để cho các nước Trung Á
vay những khoản tín dụng khổng lồ nhằm đổi lấy quyền tiếp cận với các
mỏ dầu khí, tăng cường mua, nắm cổ phần của các công ty dầu khí Trung Á.
Kazakhstan và Turmenistan nhận được trợ giúp từ Trung Quốc trước khi
được tiếp cận sự trợ giúp từ Nga. Chính phủ Trung Quốc đã để cho Ngân
hàng Phát triển của Trung Quốc (CDB) đưa ra các khoản vay về năng lượng
trị giá 10 tỷ USD cho Kazakhstan và 4 tỷ USD cho Turkmenistan[12].
Tại Tuốc-mê-ni-xtan, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã cho tập đoàn
nhà nước Turkmengaz vay một khoản tín dụng trị giá 4 tỉ USD, ¾ trong số
đó là để Trung Quốc được thâm nhập vào mỏ khí đốt Juschni Iolotan, một
trong những mỏ khí đốt lớn nhất thế giới với trữ lượng 4.700 tới 14.000
tỉ mét khối[13].
2.3. Tác động của chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á
- Tác động đối với các quốc gia Trung Á
Chính
sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á góp phần cải
thiện diện mạo nền kinh tế các nước Trung Á. Không chỉ có ngành công
nghiệp dầu khí được hưởng lợi nhờ được tăng vốn đầu tư, cải tiến kỹ
thuật, công nghệ…mà các lĩnh vực khác của nền kinh tế các nước Trung Á
cũng được cải thiện. Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của
đa số các quốc gia này. Theo số liệu của Trung Quốc, kim ngạch thương
mại giữa Trung Quốc và 5 nước Trung Á tăng từ mức 527 triệu USD[14] vào năm 1992 lên tới 29 tỉ USD trong năm 2010. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Á[15].
Có thể nói, quan hệ kinh tế tốt đẹp với một nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới là Trung Quốc đã phần nào giúp cho các nước Trung Á phát triển nền
kinh tế vốn có xuất phát điểm tương đối thấp.
Thứ hai,
chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á tạo ra sự
cạnh tranh giữa các nước lớn bên ngoài khu vực, vì vậy gián tiếp tạo
điều kiện cho các quốc gia Trung Á nâng cao vị thế quốc tế của mình. Về
cơ bản, sau khi Liên Xô tan rã cho đến trước khi cuộc chiến chống khủng
bố quốc tế mở màn ở Ap-ga-ni-xtan năm 2001, các nước Trung Á vẫn là
những nước nghèo, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn về dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, ít được biết đến trên bàn cờ địa chính trị thế giới. Tuy nhiên,
trong thập niên đầu thế kỷ 21, vai trò của Trung Á ngày càng nổi rõ,
được nhiều nước lớn quan tâm, do: thứ nhất, sau sự kiện 11/9,
cuộc chiến chống khủng bố quốc tế do Mỹ và nhiều nước lớn phát động
chống lực lượng khủng bố xuất phát từ những vùng tiếp giáp với Trung Á,
các cường quốc như Mỹ, Nga, EU đẩy mạnh gia tăng thâm nhập tại khu vực
Trung Á. Thứ hai, sản lượng lớn dầu khí khai thác tại Trung Á
những năm gần đây được coi là nguồn năng lượng quan trọng đối với nhiều
nước. Trong Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ năm 2002, Mỹ đã
coi Trung Á là khu vực chiến lược về năng lượng[16]. Còn Trung Quốc coi Trung Á như là một trong ba khu vực chiến lược cho hoạt động của các công ty dầu lửa Trung Quốc[17].
Trong quá trình đó, các quốc gia Trung Á đã biết khai thác lợi thế địa –
chính trị của mình nhằm phát huy vai trò, nâng cao vị thế quốc tế của
mình.
Tuy
nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, chiến lược ngoại giao năng
lượng của Trung Quốc tại Trung Á cũng tạo cho các nước này ở thế phụ
thuộc vào quan hệ với Trung Quốc, vì thông qua năng lượng, Trung Quốc
thâm nhập ngày càng sâu vào khu vực, thâu tóm, kiểm soát không chỉ ngành
dầu khí mà còn nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế các nước này.
- Tác động tới quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Trung Á
Chính
sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc có tác động tích cực tới việc
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc với các nước Trung Á trên cả
cấp độ song phương và đa phương. Không chỉ hợp tác trên lĩnh vực năng
lượng mà các lĩnh vực khác cũng được tăng cường, nhờ có năng lượng, việc
hợp tác trong khuôn khổ SCO tỏ ra thực chất hơn, bền chặt hơn. Vai trò
và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của SCO trên trường quốc tế càng thúc
đẩy sự phát triển của mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Trung Á.
Tuy
vậy, như trên đã phân tích, quan hệ giữa Trung Quốc và Trung Á không
hoàn toàn phẳng lặng. Thông qua năng lượng, Trung Quốc thâm nhập ngày
càng sâu vào khu vực, mở rộng ảnh hưởng, thâu tóm, kiểm soát nhiều lĩnh
vực khác của nền kinh tế các nước Trung Á làm dấy lên mối nghi kỵ của
Trung Á về mục đích của Trung Quốc. Vì thế, luôn tồn tại song hành giữa
hợp tác và lo ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước này.
- Tác động tới quan hệ giữa Trung Quốc với các nước lớn
Chiến
lược ngoại giao năng lượng của Trung Quốc được triển khai mạnh mẽ tại
khu vực Trung Á đã khiến cho cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc với các
nước lớn, đặc biệt là Nga, Mỹ tại khu vực này thêm căng thẳng. Mỹ, Nga,
Trung Quốc quan tâm, muốn nguồn tài nguyên chiến lược của Trung Á và
dùng nhiều cách tiếp cận khác nhau để thâm nhập ngày càng sâu vào đời
sống chính trị, kinh tế các nước Trung Á, giành giật nguồn tài nguyên và
không bỏ qua các cơ hội để gia tăng ảnh hưởng của mình, hạn chế những
cơ hội tương tự của đối phương.
Trung
Quốc đương nhiên không muốn để các nước Trung Á rơi vào sự kiểm soát
của các nước lớn hoặc tập hợp các nước lớn có mối quan hệ chính trị phức
tạp với Trung Quốc. Vì vậy, duy trì quan hệ hữu nghị với các nước Trung
Á chính là nhằm mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc, duy trì hậu phương
chiến lược cho sự ổn định của Trung Quốc và ngăn chặn khu vực này bị
khống chế bởi các cường quốc khác.
2.4. Những thách thức đối với việc thực hiện chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á
Bên
cạnh những yếu tố thuận lợi như khoảng cách địa lý gần gũi, sự tương
đồng về văn hóa xã hội giữa các vùng biên giới Trung Quốc với các quốc
gia Trung Á, sự hậu thuẫn mạnh mẽ của chính phủ Trung Quốc đối với các
công ty dầu khí hoạt động tại Trung Á, sự tương đồng giữa nhu cầu đa
dạng hóa kênh xuất khẩu năng lượng của các nước Trung Á với nhu cầu đa
dạng hóa nguồn cung dầu khí của Trung Quốc…. thì việc triển khai chính
sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại khu vực Trung Á gặp một số
thách thức cơ bản sau:
Thứ nhất,
như trên đã phân tích, việc xây dựng các đường ống dẫn dầu khí từ Trung
Á về Trung Quốc được nhận định là an toàn trong dài hạn và mang lại ý
nghĩa chính trị rõ rệt, nhưng xét trên khía cạnh kinh tế thì vẫn còn tồn
tại nhiều vấn đề. Bài toán kinh tế của việc xây dựng các đường ống dẫn
dầu khí tại Trung Á được đánh giá là chưa thực sự hiệu quả với chi phí
đầu tư ban đầu cho sản xuất, khai thác và vận chuyển cao, lên tới hàng
tỷ USD cho một dự án, trong khi kết quả thực tế còn cần đợi thời gian
trả lời.
Thứ hai,
sự bất ổn định nội bộ của khu vực Tân Cương có thể gây trở ngại cho
việc thực hiện các dự án cung cấp dầu khí từ Trung Á. Các đường ống dẫn
dầu và khí chủ chốt đều đi qua Tân Cương, nơi xảy ra nhiều vấn đề an
ninh, tồn tại nhiều nhóm khủng bố có vũ trang. Với độ dài hàng nghìn
kilômét, các đường ống rất khó có thể được bảo vệ hoàn toàn và điều đó
khiến chúng dễ trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố. Khi
khu vực này có biến động tất yếu sẽ ảnh hưởng đến tình hình cung cấp dầu
khí của Trung Quốc.
Thứ ba,
bản thân các nước Trung Á có những vấn đề phức tạp nội bộ. Mâu thuẫn
dân tộc ở các nước Trung Á sau khi độc lập vô cùng phức tạp khiến cục
diện chính trị rối ren, điển hình như các cuộc cách mạng màu trong khu
vực. Một khi tình hình Trung Á bất ổn, an ninh năng lượng của Trung Quốc
cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Thứ tư, Trung Quốc gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt với các cường quốc, trong đó chủ yếu là Nga và Mỹ.
Đầu tiên là sự cạnh tranh của Nga:
Từ trước tới nay, Trung Á được coi là “sân sau” của Nga. Mặc dù Nga và
Trung Quốc đều có lợi ích chung trong việc kiềm chế ảnh hưởng của Mỹ và
NATO tại khu vực Trung Á, Tuy nhiên, Nga cũng lo ngại Trung Quốc tuy là
nước đến sau nhưng lại ráo riết tìm cách thâu tóm nguồn tài nguyên của
Trung Á và nhanh chóng mở rộng ảnh hưởng tại khu vực. Trước khi Trung
Quốc tăng cường quan hệ với các nước tại khu vực này, các nhà sản xuất
năng lượng Trung Á chủ yếu phụ thuộc vào thị trường Nga, mang lại cho
Nga nhiều lợi ích kinh tế to lớn và ảnh hưởng chính trị đối với khu vực.
Nhưng sau khi Trung Quốc xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu và gas, mở ra
cho những nước này lối đi riêng, không phụ thuộc vào Nga về dầu, khí và
lớn hơn là độc lập với Nga[18],
đã khiến cho cuộc cạnh tranh giữa các nước thêm phần quyết liệt. Thậm
chí điều này có thể châm ngòi cho cuộc chiến tranh lạnh mới về vấn đề
năng lượng giữa các nước lớn tại khu vực.
Việc
Trung Quốc đầu tư hơn 4 tỷ USD vào PetraKazakhstan, và về đường ống
chạy tới biên giới Kazakh và Trung Quốc từ Atyrau qua Kenkiyak tới
Kumkol, Atasu, Alashankou [19]
và tuyến đường ống dẫn khí đốt xuyên thế kỷ nối Tuốc-mê-ni-xtan,
U-dơ-bê-ki-xtan, Ca-dắc-xtan với Trung Quốc chính thức vận hành từ tháng
7/2009, mỗi ngày cung cấp cho Trung Quốc 40 triệu m3[20],
phá vỡ sự độc quyền vận chuyển khí đốt của Nga từ khu vực này. Nga mất
đi nguồn lợi lớn từ khí đốt có thể mua từ Trung Á để xuất khẩu lại sang
thị trường châu Âu, mà việc xuất khẩu khí đốt này không chỉ có ý nghĩa
kinh tế quan trọng mà còn là công cụ để Nga đạt được lợi ích chính trị.
Như thế có nghĩa là, những gì mà Trung Quốc được thì Nga lại phải mất.
Chắc chắn Nga sẽ khó “đứng yên nhìn” vùng sân sau của mình dần dần rơi
vào tay Trung Quốc như vậy.
Để
đối phó với chính sách năng lượng Trung Quốc mới đưa ra, hiện tại, Nga
đang cố gắng khôi phục vai trò như một lãnh đạo mới, tiếp tục tăng cường
quan hệ lịch sử và văn hóa tại khu vực, tăng cường quan hệ chặt chẽ với
các nhà lãnh đạo địa phương[21],
đồng thời triển khai một số dự án trọng điểm, như “dòng chảy phương
Bắc” và “dòng chảy phương Nam” tại Trung Á để bảo đảm vận chuyển khí đốt
cung cấp cho châu Âu. Dự án “dòng chảy phương Nam” do tập đoàn Gazprom
làm chủ đầu tư, theo dự kiến sẽ đưa vào khai thác từ năm 2015 với vốn
đầu tư trên 20 tỉ euro để vận chuyển khí từ Trung Á và Nga đến Nam Âu;
Nga lắp đặt đường ống ngầm dưới Biển Đen với công suất 63 tỉ m3/năm[22].
Như vậy, một khi các dự án trên của Nga hoàn thành thì “chiếc bánh khí
đốt Trung Á” sẽ bị chia làm nhiều mảnh, phần của Trung Quốc đương nhiên
sẽ bị thu hẹp lại.
Ngoài
ra, Nga đã tập trung vào việc tăng cường, củng cố các thiết chế hiện có
tại khu vực Trung Á mà không bao gồm Trung Quốc, chẳng hạn như Tổ chức
Hiệp ước An ninh tập thể (CSTO) và Cộng đồng kinh tế Trung Á đều bao gồm
Nga và tất cả các nước Trung Á, ngoại trừ Tuốc-mê-ni-xtan. Mới đây
nhất, tháng 7 năm 2010, Liên minh thuế quan Nga - Ca-dắc-xtan -
Bê-la-rút được thành lập đã tạo ra một liên kết mới về kinh tế mà không
có Trung Quốc và mục tiêu là nhằm cải thiện hình ảnh của Nga tại
Ca-dắc-xtan sau nhiều năm đầu tư của Trung Quốc tại nước này gia tăng
mạnh mẽ[23].
Sự cạnh tranh của Mỹ
cũng không kém phần quyết liệt. Mỹ đề ra kế hoạch “Đại Trung Á” những
năm đầu thế kỷ 21, trong thời điểm Mỹ thúc đẩy cuộc cách mạng màu trong
khu vực, nhằm đạt được ba lợi ích chiến lược của Mỹ ở Trung Á là an
ninh, năng lượng và cải cách tự do chính trị. Trên thực tế, Mỹ đã xuất
hiện tại khu vực này ngay đầu thập niên 90 thế kỷ trước. Các nước
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan và Uzbekistan tham gia chương trình
đối tác vì hòa bình của NATO (PFP) năm 1994. Bộ Quốc phòng Mỹ thiết lập
mối liên kết với các nước Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan
Azerbaijian và Grudia, cung cấp vũ khí, trợ giúp đào tạo cho quân đội
những nước này[24].
Sau sự kiện 11/9/2001, nhân chiến dịch Áp-ga-ni-xtan, Mỹ tăng cường sự
hiện diện quân sự tại U-dơ-bê-ki-xtan, Tát-gi-ki-xtan và Cư-rơ-gư-xtan
để đồng thời thông qua bố trí lực lượng quân sự tại khu vực, Mỹ có thể
can dự mạnh mẽ hơn vào khu vực, tìm kiếm, đảm bảo được nguồn cung năng
lượng của họ trong tương lai phù hợp với lợi ích của Mỹ. Vì vậy, trong
kế hoạch “Đại Trung Á”, Mỹ đã chủ trương “hình thành chiến lược xuất
khẩu năng lượng xuống phía Nam, kiểm soát nguồn tài nguyên năng lượng
của Trung Á”[25],
xúc tiến và hậu thuẫn mạnh mẽ cho các công ty đa quốc gia tham gia vào
các dự án dầu lửa của khu vực. Công ty Chervon đã xây dựng đường ống dẫn
dầu biển Caspian (CPC) để chuyển dầu thô được khai thác từ các công ty
dầu lửa của phương Tây ở Kazakhstan tới điểm cuối là Biển Đen thuộc
Nga.Tuyến đường ống CPC dài 1.500 km đã hoàn thành vào năm 2003 với giá
trị 2,6 tỷ USD. BP và đối tác của mình cũng tiến hành xây dựng tuyến
đường ống Baku-Tbilisi-Ceyhan (BTC) dài 1.800 km trị giá 4,2 tỷ USD.
Tuyến đường ống này hoạt động năm 2006 và có thể chuyển hàng triệu thùng
mỗi ngày[26].
Việc Mỹ tăng cường hiện diện tại khu vực bằng cả kinh tế và quân sự tạo
ra những lo ngại đối với Nga và Trung Quốc. Hai nước Nga và Trung Quốc
đều tìm cách chống lại ảnh hưởng của Mỹ tại Trung Á[27].
2.5. Kết quả đạt được của chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc với Trung Á
Mặc
dù khởi động tương đối muộn và phải đối mặt với nhiều khó khăn thách
thức, nhưng chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại khu vực
Trung Á đã được triển khai mạnh mẽ và thu được những kết quả khả quan.
Trước
hết xét riêng trên lĩnh vực năng lượng, Trung Quốc đã đẩy mạnh hợp tác
đầu tư, khai thác nguồn năng lượng tại Trung Á, bước đầu tạo được dấu ấn
trong ngành công nghiệp dầu khí của Trung Á; quy mô hợp tác đầu tư
trong lĩnh vực dầu khí của Trung Quốc tại khu vực không ngừng tăng lên.
Ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đã góp phần bổ sung cho nguồn cung
dầu khí trong nước, giảm bớt sức ép về tình hình thiếu hụt nguồn cung.
Đồng thời, thông qua phát triển một chiến lược bài bản về mua cổ phần
của các công ty dầu khí quốc gia Trung Á, các tập đoàn dầu khí lớn của
Trung Quốc đang thực hiện chính sách đầu tư, mua cổ phần của các công ty
liên quan đến lĩnh vực khai thác, vận chuyển dầu lửa của các nước Trung
Á, ngày càng nắm giữ nhiều cổ phần trong các công ty dầu khí ở các nước
này.
Bên
cạnh đó, có rất nhiều hợp đồng hợp tác trên lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt
giữa Trung Quốc với U-dơ-bê-ki-xtan, Tuốc-mê-ni-xtan được ký dưới danh
nghĩa “xây dựng quan hệ láng giềng thân thiện”. Đáng chú ý như Tập đoàn
phát triển công nghệ dầu khí Trung Quốc và Turkmengas đã ký hợp đồng
14,5 tỉ USD về cung cấp thiết bị khai thác năm 2004, thỏa thuận xuất
khẩu 30 tỉ mét khối khí từ Tuốc-mê-ni-xtan sang Trung Quốc[28].
Đến năm 2006, CNPC đã ký với U-dơ-bê-ki-xtan thỏa thuận đầu tư 200
triệu USD thăm dò và khai thác dầu khí đến năm 2011; ký hợp đồng khai
thác và phát triển khí thiên nhiên tại vùng biển Aral[29]...
Không
những thế, Trung Quốc còn đạt những thành quả lớn trong việc xây dựng
các đường ống dẫn dầu và khí nối Trung Á với Trung Quốc. Điều này không
chỉ là thành quả kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị, ngoại giao to lớn.
Hai ví dụ điển hình là đường ống dẫn dầu Ca-dắc-xtan -Trung Quốc và
đường ống dẫn khí xuyên Á đi qua lãnh thổ các nước Tuốc-mê-ni-xtan,
Ca-dắc-xtan, U-dơ-bê-ki-xtan tới Trung Quốc.
Đường ống dẫn dầu Ca-dắc-xtan -Trung Quốc:
Với hơn 3.000km chiều dài, đường ống dẫn dầu dài 2.200 km nối
Ca-dắc-xtan - Trung Quốc từ bờ biển Caspian của Cadactan tới Alashakou
của khu tự trị Tân Cương Trung Quốc có thể cung cấp dầu trực tiếp cho
Trung Quốc từ vùng Trung Á , có công suất thiết kế từ 800.000 đến
1.000.000 thùng dầu/ngày. Với việc hoàn thành đường ống dẫn dầu này, lần
đầu tiên Trung Quốc đã đảm bảo nguồn cung cấp “vàng đen” bằng tuyến vận
chuyển trên đất liền mà không nằm trong tầm kiểm soát của Mỹ như đối
với nguồn cung dầu trên biển từ Trung Đông và Xu-đăng[30]. Dự kiến đến năm 2015, tuyến đường ống này sẽ cung cấp 6% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc[31].
Về khía cạnh chính trị, đường ống dẫn dầu này cũng mang ý nghĩa rất
lớn, là một đối trọng thực sự với đường ống BTC do Mỹ hậu thuẫn; giúp
cho Trung Quốc mở rộng tầm ảnh hưởng tại Trung Á thông qua đầu tư rộng
rãi và tạo công ăn việc làm cho hơn 50.000 người ở Ca-dắc-xtan, trong đó
có nhiều người Duy Ngô Nhĩ[32],
phần nào xoa dịu sự bất mãn, thù địch với người Hán trong thành phần
dân Duy Ngô Nhĩ và góp phần phát triển vùng biên giới Tân Cương. Điều
này góp phần mang lại thành công cho Chiến dịch Đại khai phá miền Tây mà
Trung Quốc đang thực hiện trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đường ống dẫn khí đốt xuyên Á
nối Trung Á với Trung Quốc có tổng chiều dài gần 7.000 km, với 1.833 km
chạy qua lãnh thổ các nước Tuốc-mê-ni-xtan, Ca-dắc-xtan,
U-dơ-bê-ki-xtan và 4.860 km chạy trên lãnh thổ Trung Quốc. Dự kiến đến
năm 2013, đường ống này sẽ đạt công suất tối đa và hàng năm sẽ cung cấp
40 tỉ m3 khí đốt trực tiếp từ Tuốc-mê-ni-xtan tới khu tự trị
Tân Cương và dẫn đến các thành phố lớn của Trung Quốc như Thượng Hải,
Quảng Châu, Hồng Công[33]. Với
công suất trên, hệ thống đường ống xuyên Á này sẽ đáp ứng phần lớn nhu
cầu khí đốt của Trung Quốc, vốn được dự báo sẽ thiếu 50 tỉ m3 vào năm 2015.
Nói
tóm lại, các hoạt động ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á
đã góp phần đảm bảo nguồn cung năng lượng phục vụ nhu cầu phát triển
kinh tế, bảo đảm ổn định an ninh và nhu cầu tiêu dùng của người dân
Trung Quốc trong hiện tại và tương lai, giảm thiểu nguy cơ gián đoạn
nguồn cung, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Đông, góp phần
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh mẽ, ổn định chính trị -
xã hội, nhất là ở vùng biên giới Tây Bắc, qua đó tạo dựng và mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc tại các nước Trung Á.
So
với các khu vực khác, chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc
tại Trung Á về cơ bản có những điểm tương đồng về mục tiêu, hướng triển
khai, các biện pháp thực hiện… Sự khác biệt giữa chính sách năng lượng
tại Trung Á so với các khu vực khác có thể thấy là, sự can dự của Trung
Quốc tại Trung Á không đơn thuần chỉ vì động cơ năng lượng hay lợi ích
kinh tế, mà còn vì những lợi ích chính trị, an ninh, đó là giữ ổn định
khu vực biên giới phía Tây vốn có ý nghĩa an ninh chính trị quan trọng
đối với Trung Quốc.
Trong
một vài thập kỷ tới đây, về cơ bản, chính sách ngoại giao năng lượng
của Trung Quốc tại khu vực Trung Á sẽ vẫn được triển khai mạnh mẽ thông
qua các biện pháp như họ đang áp dụng hiện nay. Chỉ có điều khác là
trong tương lai, cũng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, thực lực,
ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ tăng lên rất nhiều so với hiện nay, nên
cuộc săn lùng tài nguyên chiến lược của Trung Quốc tại khu vực này sẽ
diễn ra một cách ráo riết hơn với những hành động mạnh dạn, cứng rắn hơn
để bảo vệ lợi ích của họ về năng lượng[34].
Đồng thời, cuộc chạy đua giữa các nước lớn nhằm giành nguồn năng lượng
chiến lược và cạnh tranh ảnh hưởng tại Trung Á còn lâu mới kết thúc,
nhưng phần thắng dường như đang và sẽ nghiêng về phía Trung Quốc.
TS Lê Tuấn Thanh, Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao – HV Ngoại giao
Ths Phạm Thị Thu Thủy, Văn phòng Chính phủ
[1] Hak Yin Li and Zhangxu Wang, Assessing China’s Influence in Central Asia: A Dominanr Regional Power, University of Nottingham, http://www.nottingham.ac.uk/cpi/documents/briefings/briefing-53-central-asia.pdf
[2] Zbigniew Brenzinski (1999), Bàn cờ lớn, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.5
[3] Hsiu – Ling Wu and Chien-Hsun Chen, The prospects for regional Economic Integration between China and the Five Central Asian Countries, Europe-Asia Studies, Vol.56, No.7 (Nov, 2004) p.1059-1080, published by Taylor&Francis Ltd
[4] BP stastical review of world energy, June 2010
[5] Hamayoun Khan, China’s Energy Drive and Giplomacy, p 105, http://www.siis.org.cn/Sh_Yj_Cms/Mgz/200803/20081217174045S1QX.PDF
[6]
Hsiu – Ling Wu and Chien-Hsun Chen (2004), “The prospects for regional
Economic Integration between China and the Five Central Asian
Countries”, Europe-Asia Studies, Vol.56, No.7, p.1059-1080.
[7]
Igor Danchenko, Erica Down, Fiona Hill, One Step Forward, Two Steps
Back? The realities of a Rising China and Implications for Russia’s
Energy Ambition, Foreign Policy at Brooking, Policy Paper Number 22,
August 2010, p4
[8]
Erica Downs, Inside China, Inc: China Development Bank’s Cross-Border
Energy Deals, John L. Thornton China Center Monograph Series, Brookings,
Number 3. March 2011, p27
[9] Guo Xuetang, China and Eurasia Forum Quarterly, Volume 4, No.4 (2006), p117-137
[10] “Tổ chức SCO tăng cường ảnh hưởng”, TLTKĐB, TTXVN ngày12/7/2006
[11]
Zhao Suisheng , China’s Global search for Energy Security: Cooperation
and Competion in Asia Pacific, Journal of Contemporary China, Vol.17,
issue 55 May 2008, pp 207-227
[12]
Igor Danchenko, Erica Down, Fiona Hill, One Step Forward, Two Steps
Back? The realities of a Rising China and Implications for Russia’s
Energy Ambition, Foreign Policy at Brooking, Policy Paper Number 22,
August 2010, p6
[13] Vấn đề an ninh năng lượng của Trung Quốc và bài học cho châu Âu, Tài liệu TKĐB, TTXVN ngày 19/6/2010
[14] Tiềm năng hợp tác kinh tế thương mại giữa Trung Quốc và 5 nước Trung Á rất lớn, mạng Báo Nhân dân Trung Quốc, http://unn.people.com.cn/GB/8439657.html
[15] Các chuyên gia: Hợp tác kinh tế thương mại là động cơ phát triển quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Trung Á, http://finance.fivip.com/international/201109/08-4084090.html
[16] Hoàng Cẩm Quân, Cạnh tranh Mỹ và Trung Quốc tại Trung Á từ sau 11/9, 5th Taiwan-Central Asia Forum, trang 2, http://w3.cyu.edu.tw/centralasia/chinese/sub/20051123/20黃錦軍.pdf
[17] Liyan Hu, Ter-Shing Cheng, China’s Energy Security and Geo-Economic Interest in Central Asia, Central
European Journal of International & Security Studies, Metropolitan
University Prague, Volume 2, Issue 2, November 2008, p47
[18]
Erica Downs, Inside China, Inc: China Development Bank’s Cross-Border
Energy Deals, John L. Thornton China Center Monograph Series, Brookings,
Number 3. March 2011, p87
[19] Martha Brill Olcott, “Friendship of Nations” in the World of Energy, http://www.carnegieendowment.org/files/Friendship.pdf
[20] Đường ống khi đốt tự nhiên Trung Á vận chuyển được 10 tỷ m3 cho Trung Quốc, http://news.xinhuanet.com/world/2011-05/28/c_13899111.htm
[21] Edward
C. Chow and Leigh E. Handrix, Central Asia’s Pipelines: Field of Dreams
and Reality, The National Bureau of Asian Research, NBR Special
Report#23, September 2010, p35,
http://csis.org/files/publication/1009_EChow_LHendrix_CentralAsia.pdf
[22] Cạnh tranh giữa các nước lớn tại Trung Á, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 12/5/2011
[23] Igor Danchenco, Erica Downs, Fiona Hill (2010), “One step forward, two step back? The Realities of a Rising China and Implications for Russia’s Energy Ambitions”, Foreign Policy at Brookings, No. 22, August.
[24]
Simon Xu Hui Shen, “Qualitative Energy Diplomacy” in Central Asia:
Acomparative Analysis of the Policies of the United States, Russia, and
China, The Brookings Institution Center for Northeast Asian Policy
Studies, April 2011, P7
[25] Về kế hoạch Đại Trung Á của Mỹ, TTXVN, Tài liệu TKĐB 16/3/2007, tr.7
[26] Edward
C. Chow and Leigh E. Handrix, Central Asia’s Pipelines: Field of Dreams
and Reality, The National Bureau of Asian Research, NBR Special
Report#23, September 2010, p32,
http://csis.org/files/publication/1009_EChow_LHendrix_CentralAsia.pdf
[27] John Chan, China pushes into Central Asia for oil and gas, 3 January 2001, http://www.wsws.org/articles/2001/jan2001/oil-j03.shtml
[28] Irina Ionela Pop (2010), China’s energy strategy in Central Asia, interactions with Russia, India and Japan”, UNISCI discussion papers, No.24.
[29] Irina Ionela Pop (2010), China’s energy strategy in Central Asia, interactions with Russia, India and Japan”, UNISCI discussion papers, No.24.
[30] Xuanli Liao, Central Asia and China’s Energy Security, China and Eurasia Forum Quarterly, Vol.4, No.4, 2006, p.65
[31]
Julie Jiang, Jonathan Sinton, Overseas Investments by Chinese National
Oil Companies Assessing the Drivers and Impacts,
http://www.iea.org/papers/2011/overseas_china.pdf
[32] Becquelin, Nicolas, staged development in Xinjiang, the China Quarterly, Vol.178, June 2004, p.364
[33] Vấn đề an ninh năng lượng của Trung Quốc và bài học cho châu Âu, TTXVN, 19/6/2010
[34] Gần
đây, ngày 9/9/2011, Phó Chủ nhiệm UB Cải cách và phát triển nhà nước
của Trung Quốc, Cục trưởng Cục Năng lượng quốc gia Lưu Thiết Nam đã nói
rằng Trung Quốc sẽ đẩy mạnh hợp tác thực chất hơn nữa trong lĩnh vực
năng lượng với các nước Uzbekistan, Kazakhstan,
Türkmenistan. Năm 2010, tuyến đường ống Trung Quốc Kazakhstan vận
chuyển 10,08 triệu tấn dầu. Hiện nay, hai bên đang nghiên cứu thiết kế
để đường ống trên có thể vận chuyển 20 triệu tấn vào năm 2013. Đến cuối
năm 2010, các doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư hơn 15 tỷ USD mua cổ
phần tại các doanh nghiệp Kazakhstan[34], xem thêm: Trung Quốc và ba nước Trung Á tăng cường hợp tác thực chất năng lượng, http://www.cnpc.com.cn/cn/xwzx/sycj/中国与中亚三国深化能源务实合作.htm
nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/2365-chinh-sach-ngoai-giao-nang-luong-cua-trung-quoc-doi-voi-trung-a-nhung-nam-dau-the-ky-21