Chưa
bao giờ sự tương phản của môi trường trong nước đối với sự phát triển
của dân tộc và trạng thái quan hệ láng giềng của Ấn Độ lại sắc nét như
hiện nay. Các ưu tiên trong chính sách đốí ngoại của Ấn Độ vẫn là làm
thế nào để liên kết các mục tiêu chính sách đối ngoại với các ưu tiên an
ninh và phát triển cơ bản của đất nước.
Nhà phân tích chính trị Ấn Độ M.K.Dhar, phụ trách mạng tin ngoại giao của tạp chí “Political Events”, nhận định ngành
ngoại giao Ấn Độ có được những lợi thế nhất định trong quan hệ với tất
cả các nước lớn và trong năm 2012 hứa hẹn có thể khởi động một loạt vấn
đề - diễn đàn đa phương toàn cầu, cán cân quyền lực thay đổi giữa các
cường quốc chủ yếu ở châu Á, chuyển động bất ổn láng giềng Tây-Bắc và
căng thẳng ngày càng tăng ở Đông Á trước các hành động ngày càng quyết
đoán của Trung Quốc và các kế hoạch vũ lực để ủng hộ các yêu sách chủ
quyền của Bắc Kinh đối với các nước láng giềng. Chưa bao giờ sự tương
phản của môi trường trong nước đối với sự phát triển của dân tộc và
trạng thái quan hệ láng giềng của Ấn Độ lại sắc nét như hiện nay. Các ưu
tiên trong chính sách đốí ngoại của Ấn Độ vẫn là làm thế nào để liên
kết các mục tiêu chính sách đối ngoại với các ưu tiên an ninh và phát
triển cơ bản của đất nước; phối hợp giữa cam kết đối với các giá trị cốt
lõi của dân tộc với sự thích nghi mạnh mẽ và linh hoạt đối với các thay
đổi trong môi trường quốc tế và đảm bảo các khu vực xung quanh Ấn Độ
duy trì được hoà bình và không rơi vào tình trạng căng thẳng để kinh tế
Ấn Độ có thể sớm lấy lại đà tăng trưởng cao trước đây. Các thách thức cũ
và vẫn tiếp diễn đối với Ấn Độ: đối phó với nạn khủng bố xuyên quốc
gia, đặc biệt các hoạt động khủng bố xuất phát từ các nước láng giềng
gần và đặc biệt là khi nước láng giềng đó sử dụng khủng bố như một
phương tiện trong chính sách của họ.
Các thách thức trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân
Trong
khi thực hiện các mục tiêu đặt ra cho sản xuất điện hạt nhân và không
ngừng mở rộng đối thoại với các đối tác chủ chốt về hợp tác trong lĩnh
vực năng lượng hạt nhân, các cuộc thảo luận về Luật trách nhiệm hạt nhân
dân sự đã cho thấy chính sách đối ngoại và các ưu tiên đối nội đặc biệt
đan xen với nhau và cần được quản lý như thế nào. Các vấn đề của chính
sách đối nội tác động tới hình ảnh của đất nước ở bên ngoài cũng như
nguyện vọng và khả năng của đất nước trong việc đưa ra nhiều cải cách
hơn để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế đang bị đặt thành vấn đề. Phản ứng
của các nước khác phụ thuộc vào sự chờ đợi của họ vào hành động từ phía
Ấn Độ: một quốc gia mạnh mẽ, được tổ chức tốt, biết mình đang làm gì và
có khả năng làm điều đó một cách có hiệu quả, điều đó sẽ tạo ra sự tôn
trọng, sự thận trọng, thậm chí sự hợp tác - lá chắn vô giá ngăn ngừa
những nguy hại. Càng ít đạt được uy tín như vậy, Ấn Độ càng dễ bị tổn
thương.
Thất bại trong việc sử dụng những thành quả kinh tế
Dư
luận cảm thấy những thành quả đạt được trong thập kỷ qua nhờ tăng
trưởng kinh tế cao đang bị vô hiệu hoá bởi sự yếu kém chủ quan trong
việc sử dụng chúng. Trung Quốc là một bài học điển hình theo cách phân
tích cơ bản về một chính sách đối ngoại thành công được thúc đẩy bởi sức
mạnh kinh tế và quân sự đã tạo cho họ khả năng đưa ra các sáng kiến
chính sách dũng cảm, chống lại những âm mưu đe doạ, nhằm bảo đảm an ninh
của mình, cũng như khu vực láng giềng và ngăn chặn những hành động cơ
hội của các nước bằng khả năng kinh tế và khả năng quân sự to lớn để
phát huy sức mạnh và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ngay cả trong
môi trường cạnh tranh và thách thức quyết liệt. Những thành công ngoại
giao không thể kéo dài chừng nào chúng không được bắt nguồn từ nội lực
mạnh và quyết tâm cao trong nước. Bất kỳ ấn tượng nào về việc một quốc
gia bị cản trở trong việc đưa ra các quyết sách dũng cảm và không thể
phá vỡ những trở ngại của tình hình chính trị trong nước sẽ làm tăng
thêm sự thờ của các đối tác ở bên ngoài muốn giúp nước đó đạt được sức
mạnh kinh tế và vai trò lớn hơn trên trường quốc tế.
Những khiếm khuyết trong chính sách đối nội
Những
thiếu sót của chính phủ Liên minh tiến bộ thống nhất (UPA) do đảng Quốc
đại lãnh đạo trong chính sách đối ngoại kể từ khi tiếp tục cầm quyền
nhiệm kỳ II vào năm 2009 là rõ ràng và gây nhiều chú ý là những điều
kiện tiên quyết cần thiết để rút kinh nghiệm nhằm xây dựng một chính
sách đối ngoại tin cậy trong năm 2012. Trong khi chính phủ có lý do để
hài lòng về kết quả can dự của mình với các cường quốc lớn sẵn sàng và
mong muốn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ, Niu Đêli không
thể bỏ qua một thực tế: các cường quốc quan tâm đối với Niu Đêli chủ yếu
vì Ấn Độ trở lại quỹ đạo tăng trưởng kinh tế cao trong bối cảnh không
khí ảm đạm bao trùm các nền kinh tế phát triển. Những người chịu trách
nhiệm vạch chính sách đối ngoại của Ấn Độ - cộng đồng các nhà ngoại giao
– đã đánh mất nhiệt huyết và sự hăng hái khi lãnh đạo trong nước tỏ ra
bối rối, hoạt động quản lý trì trệ, việc quyết định và thực hiện chính
sách chậm chạp và tương lai dường như mờ mịt. Chính sách đối ngoại là sự
phản ảnh của tình hình nội bộ trong nước, và sự chia rẽ và tình huống
đối đầu về chính trị do các chính đảng gây ra và hoạt động quản lý chậm
chạp tiếp tục không được thay đổi khiến các thách thức về chính sách đối
ngoại trở nên rất khó giải quyết.
Các mặt trận chiến lược của Ấn Độ
Có
thể nói rằng các mặt trận chiến lược của Ấn Độ là ba vòng tròn đồng tâm
- từ vùng núi Hindu Kush tới vùng Irawady ở Mianma, từ vịnh Ađen tới
Xinhgapo và từ kênh đào Xuyê tới Thượng Hải – và Ấn Độ cần phải tìm cách
kiềm chế nếu không nói là ngăn chặn sự phát triển của các lực lượng có
thể hành động từ những khu vực này để gây tổn hại cho mình. Điều đó có
nghĩa là 4 lợi ích sống còn: an ninh ở vịnh Pécxích, sự ổn định ở khu
vực Trung Á, cán cân quyền lực thay đổi ở Đông Á và một loạt các vấn đề
trên đại dương, cứu trợ thảm họa thiên tai, cướp biển, giúp đỡ các quốc
đảo nhỏ duy trì độc lập và tự do hàng hải. Đó là một số yếu tố địa
phương hoặc khu vực mà Ấn Độ cần phải xử lý trực tiếp; trừ việc cần phải
hợp tác với một cường quốc then chốt trong từng lĩnh vực là Mỹ. Đã có
thời điểm khi nhiều người Ấn Độ phản đối hợp tác với Mỹ và nghi ngờ Mỹ
như một nước tư bản hung hăng. Tình hình đó đã thay đổi dưới thời chính
quyền của Tổng thống Bush và chính quyền hiện nay của Tổng thống Obama
đang nỗ lực tăng cường quan hệ với Ấn Độ như một ưu tiên và dự định giúp
Ấn Độ đóng một vai trò lớn ở châu Á.
Chiến lược quốc phòng mới của Mỹ
Những
nghi ngờ về việc Mỹ rút khỏi châu Á và để ngỏ khu vực này cho Trung
Quốc phô trương sức mạnh kinh tế và quân sự và đe doạ các nước láng
giềng hiện đã được chấm dứt với chiến lược quân sự vừa được Tổng thống
Obama công bố. Văn kiện này yêu cầu Mỹ duy trì một lực lượng có thể đảm
bảo đánh thắng một cuộc chiến tranh trong khi vẫn có khả năng ngăn chặn
các mục tiêu của một đối thủ khác trong cuộc xung đột thứ hai. Văn kiện
kêu gọi quân đội Mỹ tăng cường thêm lực lượng ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, ngay cả khi quân Mỹ tiếp tục tích cực ngăn chặn mối đe doạ khủng
bố. Chiến lược mới rõ ràng nói tới việc tăng cường sự hiện diện của
quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương để răn đe ý muốn của một số nước khu vực
duyên hải. Việc chuyển hướng sang tập trung vào châu Á diễn ra trong
bối cảnh có những lo ngại về các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc khi
nước này bắt đầu phát triển những thế hệ vũ khí mới có thể ngăn chặn hải
quân và không quân Mỹ phát huy sức mạnh tới khu vực Viễn Đông. Tổng
thống Obama nói: “ Ngay cả khi binh lính của chúng ta tiếp tục chiến đấu
tại Ápganixtan, xu hướng của cuộc chiến tranh này đã giảm xuống, thậm
chí ngay cả khi các lực lượng quân sự của chúng ta còn đang bận rộn với
các sứ mệnh hiện nay, chúng ta có cơ hội và trách nhiệm nhìn về phía
trước để xây dựng một lực lượng chúng ta cần có trong tương lai”. Chiến
lược mới đòi hỏi duy trì ổn định tại Trung Đông, trong khi đáp ứng “các
nguyện vọng” của nhân dân được thể hiện trong các nước Arập nổi dậy.
Các khu vực ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ
Mỹ,
Trung Quốc và Pakixtan sẽ tiếp tục là 3 ưu tiên trong chính sách đối
ngoại của Ấn Độ trong năm nay ngoài Trung Đông, nơi cung cấp lượng dầu
khổng lồ cho Ấn Độ và nơi Mỹ quyết tâm đóng vai trò chính, và Đông Á,
nơi chứng kiến sự thử thách thú vị giữa Mỹ và một Trung Quốc quyết đoán,
bởi vậy tạo ra không gian cho sự có mặt quy mô lớn hơn của hải quân và
không quân Mỹ. Quan hệ chiến lược Ấn-Mỹ cần phải mang nội dung lớn hơn,
cho dù mối quan hệ đang được cải thiện được phản ánh trong quan hệ quân
sự rộng lớn hơn. Bất chấp việc duy trì các yêu cầu về giám sát mục đích
sử dụng cuối cùng, Mỹ vẫn giành được số lượng lớn các hợp đồng quốc
phòng của Ấn Độ. Nỗi lo ngại Mỹ ngừng cung cấp vũ khí hoặc các thiết bị
phụ tùng trong trường hợp xảy ra căng thẳng ở khu vực không ngăn cản
được đà tăng cường hợp tác quân sự giữa hai nước. Trong khi Hiệp định
hợp tác hạt nhân dân sự Ấn–Mỹ là biểu tượng cho sự thay đổi quan hệ giữa
hai nước thì lợi ích thực tế từ quan hệ thương mại diễn ra chậm chạp.
Ủng hộ Ấn Độ can dự với phương Đông
Quyết
định của Mỹ tìm kiếm quan hệ đối tác với Ấn Độ trong việc đảm bảo hoà
bình và ổn định ở Đông Á liên quan tới những lo ngại rằng chính quyền
của ông Obama hoàn toàn giao phó trách nhiệm an ninh khu vực cho Trung
Quốc. Oasinhtơn đã và đang ủng hộ Ấn Độ đẩy mạnh chính sách “Can dự với
phương Đông”, làm sâu sắc các hiệp định thương mại với ASEAN, tích cực
đóng vai trò khu vực trong Diễn đàn ASEAN và tham gia Hội nghị Cấp cao
Đông Á (EAS), nơi Niu Đêli định phối hợp chặt chẽ với Oasinhtơn. Để bảo
đảm tự do giao lưu hàng hải, Ấn Độ đã tiến hành hàng loạt cuộc tập trận
hải quân với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và với Ôxtrâylia và Xinhgapo. Việc
thảo luận và tập trận của bộ ba gồm Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ là tín hiệu về
chiến lược kiềm chế sự nổi lên của Trung Quốc được cảm thấy rất rõ tại
Biển Đông, nơi Bắc Kinh ngăn cản các thực thể nước ngoài thăm dò dầu mỏ
nhân danh Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ chiến lược cần phải mang nội dung
rộng lớn hơn và những sự hiểu lầm trong quá khứ lâu dài cần phải được
gỡ bỏ hoàn toàn. May mắn là Pakixtan vốn thường là điểm gây khó chịu
trong quan hệ giữa Mỹ và Ấn Độ không còn tồn tại nữa do Oasinhtơn đã
nhận thấy sức thuyết phục của Ấn Độ khi khẳng định Pakixtan nuôi dưỡng
chủ nghĩa khủng bố quốc tế và sử dụng nó như một công cụ trong chính
sách nhà nước. Tính lá mặt lá trái của Pakixtan đã bộc lộ hoàn toàn, và
Mỹ không còn tin Ixlamabát nữa, cho dù vẫn phải dựa vào Pakixtan để giải
quyết mớ hỗn độn ở Ápganixtan nhằm tạo điều kiện cho Mỹ rút lui trong
danh dự khỏi nước này.
Ảnh hưởng của từ nổi lên của Trung Quốc
Sự
chậm chễ trong việc hiểu rõ ý nghĩa và ảnh hưởng từ sự nổi lên nhanh
chóng của Trung Quốc là đòn kép giáng vào các nhà hoạch định chính sách
Ấn Độ. Hạ tầng cơ sở được cải thiện của Trung Quốc tại Tây Tạng – với
các doanh trại quân đội, các căn cứ không quân và tên lửa – đã khiến
Trung Quốc trở nên quyết đoán hơn trên đường biên giới tranh cãi với Ấn
Độ. Khả năng của Niu Đêli trong việc cân bằng với Bắc Kinh bị hạn chế
bởi các cường quốc bị ép buộc phải thích nghi với sự nổi lên của Trung
Quốc. Mỹ hiện là con nợ lớn nhất của Trung Quốc và cần các khoản tiền
đầu tư lớn từ Bắc Kinh. Trung Quốc thích thú với một thế giới do họ và
Mỹ (G-2) lãnh đạo và không phải hai cường quốc ở hai đầu đối địch nhau.
Trung Quốc sẽ hợp tác, làm đối tác và cạnh tranh, chứ không phải sẽ đối
đầu với Mỹ. Tuy
nhiên, Ấn Độ và đại đa số các nước châu Á khác cảm thấy khó chịu với sự
hung hăng và chi phối của Trung Quốc. Các nỗ lực cân bằng với Trung
Quốc có thể không thành công bởi Trung Quốc có tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) lớn hơn nhiều so với GDP của Ấn Độ là điều buộc phải tính đến.
Theo các dự báo, kinh tế Ấn Độ không thể sớm bắt kịp nền kinh tế Trung
Quốc bởi tốc độ tăng trưởng hiện nay bị giảm xuống mức 7% và cần có một
thời gian dài để phục hồi. Bởi vậy, khi đang xây dựng nền kinh tế và khả
năng quốc phòng của mình, Ấn Độ cần cư xử với Trung Quốc như một đối
tác chiến lược và can dự mạnh mẽ hơn với nước này.
Tình hình Pakixtan không thể dự báo trước
Tình
hình Pakixtan vẫn không thể dự báo được và dễ biến động do căng thẳng
giữa chính quyền dân sự và lãnh đạo quân đội đầy quyền lực đang gia
tăng. Từ khi quân đội nước này có quan hệ với các tổ chức khủng bố, rất
khó dự đoán khi nào thì họ lại tăng cường các cuộc tấn công nhằm vào Ấn
Độ. Lãnh đạo chính quyền dân sự muốn cải thiện quan hệ với Ấn Độ do đang
phải đương đầu với tình trạng kinh tế sa sút, và đã chuyển theo hướng
ủng hộ tự do hoá mậu dịch. Ấn Độ đáp lại bằng việc đồng ý khởi động lại
tiến trình đối thoại toàn diện nhằm giải quyết tất cả các vấn đề tồn
đọng. Hiện quân đội Pakixtan đang ở thế bị động sau vụ đặc nhiệm Mỹ tiêu
diệt trùm khủng bố Bin Laden ở Abbottabad gần học viện quân sự cấp cao,
hắn ta sống thời gian dài trong một ngôi nhà an toàn, cũng như sau vụ
tấn công của các phần tử khủng bố vào căn cứ hải quân Mehzan, trụ sở Cơ
quan tình báo trung ương (ISI). Tuy nhiên, họ đã dựng lên vụ “Memogate”
nhằm dồn chính quyền dân sự vào góc tường và trình văn bản về vụ này lên
Toà án Tối cao trái với lập trường của chính phủ. Mặc dù có thể lãnh
đạo quân đội Pakixtan hiện không làm đảo chính, song họ muốn đưa ông
Imran Khan, thủ lĩnh đảng Tehrik-e-insaf đang nổi lên như một ngôi sao
chính trị lên lãnh đạo chính phủ mới. Ấn Độ cần theo dõi chặt chẽ các
diễn biến và ủng hộ chính phủ dân sự và tiến trình dân chủ ở Pakixtan vì
lợi ích quan hệ không căng thẳng giữa hai nước và ổn định ở khu vực.
Lợi ích của Ấn Độ ở Ápganixtan
Ấn
Độ cũng cần thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm rằng lợi ích của mình
tại Ápganixtan không bị tổn hại bởi cuộc đàm phán do Pakixtan làm trung
gian nhằm đưa Taliban tham gia chính phủ tại Cabun. Mỹ trực tiếp tham
gia cuộc đàm phán với Taliban, động thái sẽ tạo thuận lợi cho Taliban mở
văn phòng tại Đôha (Cata). Ấn Độ thảo luận với Nga , Iran và Trung Quốc
về diễn biến này và các nước này cũng bảo lưu ý kiến về hoà giải với
Taliban. Vì những lý do chiến thuật, Taliban có thể đồng ý chấp nhận
Hiến pháp Ápganixtan cũng như hạ vũ khí và sau đó lật đổ nhà nước này
một khi Mỹ rút khỏi đây và trở lại nắm quyền lực với sự giúp đỡ tích cực
của Pakixtan. Mỹ không có ý tưởng rõ ràng về việc họ phải làm gì, song
liều lĩnh trong việc chấm dứt sự thù địch, thậm chí ngay cả khi điều đó
chỉ có nghĩa như sự ngừng bắn chiến thuật của Taliban. Một giải pháp vội
vã có thể bùng nổ thành một biến động khác mà hậu quả của nó đối với an
ninh khu vực là khó lường trước. Giáo sĩ Mulah Omar, thủ lĩnh Taliban
dường như đã nhắc lại các điều kiện của ông ta cho cuộc đàm phán: lực
lượng Mỹ rút hoàn toàn và thả tất cả các tay súng Taliban đang bị giam
trong các nhà tù, mở đường cho ông ta tiếp quản quyền lực ở Cabun.
Quan hệ Ấn Độ và Iran
Quan
hệ của Ấn Độ với Iran sẽ thử thách khắc nghiệt nghệ thuật ngoại giao
của Niu Đêli nhiều hơn bao giờ hết trong bối cảnh Mỹ áp đặt các biện
pháp trừng phạt mới chống Têhêran, yêu cầu tất cả các ngân hàng hoạt
động ở Mỹ chấm dứt toàn bộ các giao dịch với Ngân hàng trung ương Iran.
Nguy cơ đối với an ninh năng lượng sẽ tăng lên bởi Ấn Độ trả Iran 1 tỷ
USD/tháng thông qua Thổ Nhĩ Kỳ để nhập khẩu 370.000 thùng dầu thô. Sẽ là
nguy cơ nếu Ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ từ chối nhận các khoản tiền
trả cho việc mua dầu thô của Iran . Hiện tại, triển vọng Iran đóng cửa
eo biển Hormuz nếu họ bị cấm vận xuất khẩu dầu mỏ chưa thể xảy ra mặc dù
khi tuyệt vọng Têhêran có thể sử dụng tới bất kỳ biện pháp nào. Khả
năng xảy ra một cuộc xung đột vũ trang là không thể bởi chế độ do các
giáo sĩ cầm quyền ở Iran không dại gì tự rước lấy sự diệt vong và phá
sản tham vọng hạt nhân của mình bằng cách châm ngòi cho một cuộc chiến
tranh tổng lực. Tuy nhiên, các biện pháp phối hợp cấm vận xuất khẩu dầu
mỏ tất yếu sẽ làm cho Iran bị tổn thương hơn và tăng thêm sự cô lập của
nước này. Các thách thức đối với nền ngoại giao của Ấn Độ sẽ tăng lên
rất nhiều bởi tình hình ở châu Á, Trung Đông trở lên khó dự đoán hơn.
Quan hệ giữa Trung Quốc và Pakixtan đòi hỏi phải rất được chú ý và cân
nhắc các biện pháp phản ứng và bất kỳ biểu hiện của sự mềm yếu nào trong
quan hệ với hai nước này cũng sẽ gây tổn hại cho lợi ích của đất nước.
Ấn Độ sẽ cần phải kiên quyết bảo vệ các lợi ích của mình trong khi mở
rộng phạm vi các nước bạn bè và đối tác chiến lược./.
Lê Sơn (gt)