Tựa đề trên đây là một trong 16 đề tài trong dự án nghiên cứu do Câu
lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình thực hiện, theo đề nghị của Đức Hồng y
Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, nhân
kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam (1960 – 2010).
Trong thư đề ngày 22.7.2007 gửi cho Lm. Nguyễn Thái Hợp, Chủ nhiệm
CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình, Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn “nhờ CLB.NVB
nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo
hội trong lịch sử 50 năm qua, mỗi thái độ có những lợi và hại nào,
đối chiếu cái lợi và cái hại của hai thái độ, và đề xuất bài học
thực hành cho mọi thành phần tôn giáo và xã hội biết cách nào góp
phần vừa xây dựng đất nước vừa lành mạnh hoá đời sống dân tộc. Có
được thế thì sự phát triển đất nước và con người mới bền vững”.
Đức Hồng Y còn nhấn mạnh: “Nhờ CLB.NVB nghiên cứu và đề xuất bài
học chính xác và toàn vẹn”.
Dự án này có mục đích đáp ứng yêu cầu trên đây của ĐHY Phạm Minh Mẫn,
với mong muốn cung cấp một cái nhìn tổng hợp về tương quan giữa Cộng
sản và Công giáo trên nửa thế kỷ qua, từ ngày Đảng Cộng sản lên nắm
quyền ở Việt Nam (1945); về vai trò của Giáo hội trong các mặt hoạt
động của xã hội, cách riêng trên lãnh vực giáo dục, y tế, từ thiện,
truyền thông; về những “lợi/ hại” phát sinh từ sự hợp tác Công giáo
và Cộng sản; nhất là đề xuất một định hướng hợp tác, không chỉ cho
người Công giáo mà còn cho người Cộng sản và mọi người Việt Nam nói
chung.
Về tương quan giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam (GHCG) và Đảng Cộng
sản Việt Nam (ĐCS), đã có một vài công trình nghiên cứu công phu.
Nhưng kể từ sau năm 1975, chúng tôi bỗng cảm nhận một khoảng trống
trong lịch sử GHCGVN, đó là mảng về GHCG miền Bắc trong giai đoạn
Đất Nước bị chia cắt làm hai miền. Kìm kẹp gay gắt như vậy, ai mà
dám viết lách nhận định? Cho đến nay Đất Nước thống nhất đã trên 30
năm, các nhân chứng còn tản mát trên khắp 10 Giáo phận thuộc Giáo
tỉnh Hà Nội, nhưng đã có mấy ai ghi chép lại chặng đường thánh giá
này? Với chính sách địa phương khoanh vùng, đi lại khó khăn, hộ khẩu
nghiệt ngã, có mấy ai có được một cái nhìn tổng quát về GHCG miền
Bắc trong giai đoạn này.
Chúng tôi trong nhiều năm về lại quê Bắc, hầu chuyện các bậc trưởng
thượng đã chứng kiến bể dâu của Đạo của Đời trong những năm khổ ải
ấy, la cà chuyện vãn với anh em đồng trang lứa, khi mà chúng tôi
xuống tàu di cư vào Nam thì các bạn đang nép mình trong một “Chủng
viện chui” nào đó, có người đi tù vì tội … đi tu, các bạn đã ghim
vào bộ nhớ đủ thứ chuyện và hôm nay các bạn còn thừa minh mẫn để kể
lại cho người anh em Bắc kỳ di cư 54 những oan nghiệt vừa qua.
Từ những chuyến đi ấy đến đề nghị của Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn với
CLB.NVB trên đây, Ban chủ nhiệm CLB đã ưu ái dành cho tôi đề tài
nghiên cứu này.
Bài viết này không thể hoàn thành được nếu không có sự chỉ giáo của
các bậc trưởng thượng: Lm. Phạm Hân Quynh thuộc Giáo phận Hải Phòng,
nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (Tp. HCM), tham khảo tài liệu của Gs.
Đỗ Mạnh Tri (Paris), của các thân hữu Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm (Hoa
Kỳ), Nguyễn Văn Lục (Canada), Nguyễn Nghị (Việt Nam). Tôi đang hình
dung lại những khuôn mặt đáng yêu của bầu bạn rải rác tại nhiều Giáo
phận miền Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phát Diệm, Thái Bình v.v…
mà tôi không muốn kể tên nơi đây, một phần vì đức khiêm nhường của
các bạn không cho phép tôi, một phần, biết đâu đấy lại chẳng gây
phiền hà cho các bạn. Gần hết thập niên đầu của thế kỷ 21 rồi, vậy
mà vẫn còn những chuyện mời “làm việc” đấy. Xin quý vị và các bạn
nhận nơi đây lòng biết ơn sâu đậm của người viết.
***
MỘT LÒNG VÌ TỔ QUỐC
Tôi xin được bắt đầu bài viết bằng việc vẽ lại đây khung cảnh hào
hùng của ngày lễ Tuyên ngôn độc lập 2.9.1945 tại quảng trường Ba
Đình. Hôm ấy, ngay dưới chân lễ đài mà trên đó cụ Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, là 180 thày đại chủng sinh trong đồng phục
áo chùng thâm, đi đầu là thày Gioan Đỗ Tông với vóc dáng cao lớn
nhất “tràng lý đoán” cầm lá cờ đỏ sao vàng. Tất cả các thày đã hát
vang một bài hát ca tụng nền độc lập của Tổ quốc, do thày Giuse Lê
Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức thuộc nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, vừa mới
sáng tác tối hôm trước và các thày đã tập hát ngay trong đêm, với
một tâm trạng rộn rã như chưa từng có trong cuộc đời làm con dân Đất
Việt.
Khung cảnh này có thể coi là tiêu biểu cho lòng người Công giáo Việt
Nam trước công cuộc dành độc lập cho dân tộc, trước giây phút đã làm
rạo rực con dân Việt Nam. Xa quảng trường Ba Đình, rất xa, trong một
làng quê nghèo nàn chưa hề được nghe nói đến cụ Hồ, đến độc lập, có
chú bé con có đạo mới lên 5 tuổi đang cùng các bạn miệt mài làm cở
đỏ sao vàng, dán cùng khắp thôn xóm, từ nhà thờ đến đình làng. Hồi
ấy chúng tôi chưa nhìn thấy cây bút chì màu ra sao, đành phải sáng
tạo: dùng màu đỏ của gạch non và màu vàng của củ nghệ. Hì hục vẽ,
rồi say sưa hát (hồi ấy chưa biết bài hát tên gì và của tác giả nào):
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
…………
Lòng tôi theo đoàn quân du kích
………..
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà
Ngày giặc Pháp phá làng diệt thôn.
Rồi thày Kẻ giảng dạy cho Nghĩa Binh Thánh Thể bài học vỡ lòng:
Rủ nhau đi vớt bèo tây
Bèo tây mới có từ ngày Tây sang
Rủ nhau đi vớt tập đoàn
Vớt
cho nó khỏi lan tràn xứ ta
Ơn trời sắc nước trong veo
Ao
ta ta thả giống bèo của ta.
Cho đến
nay, chú bé con nhà có đạo sáng lễ chiều chầu ấy đã sắp vào tuổi thất
thập, vẫn còn nhớ như in bài học đầu đời từ người thày đầu tiên.
Nhưng hồi đó, chả hiểu gì cả. Chiều chiều cứ giương mắt ếch nhìn các
cô các chú du kích, đầu gắn đầy lá cây trên mũ, áo bỏ trong quần, lặng
lẽ hành quân qua làng.
Chú bé
Nghĩa Binh Thánh Thể không hiểu gì, cả xứ đạo quê mùa không hiểu gì
về biến chuyển tày trời đang xảy ra trên Quê hương thân yêu, nhưng bốn
vị Giám mục Việt Nam tiên khởi đang hiểu rõ vận mệnh Quốc gia và đã
nhập cuộc. Ngày 23.9.1945, các ngài đã gửi một lá thư lên Đức Giáo
Hoàng Piô XII để xin Toà Thánh ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt
Nam. Lá thư do Đức Cha Nguyễn Bá Tòng ký tên thay cho ba vị kia (Hồ
Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục và Lê Hữu Từ). Lá thư viết:
“Dân tộc
Việt Nam chúng con qua sự trung gian của 4 Giám mục xin đệ đến Đức
Thánh Cha lòng thành kính sâu xa và xin Đức Thánh Cha chúc phúc, cầu
nguyện cho nền độc lập mà dân tộc chúng con mới thâu hồi được và
đang sẵn sàng bảo vệ nó với bất cứ giá nào …
Các
Giám mục Việt Nam nài khẩn Đức Thánh Cha, Toà Thánh La Mã, các Đức
Hồng Y, các Đức Tổng Giám mục và toàn thể Kitô hữu thế giới và nhất
là nước Pháp, ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc yêu quý chúng tôi”[1].
Trước
lá thư trên đây, trong lúc lực lượng võ trang Việt Minh đang tiến
công dành quyền kiểm soát đồng bằng sông Hồng, Hoàng hậu Nam Phương,
một tín hữu Công giáo đạo hạnh, đã cho phổ biến một lời kêu gọi vào
đúng ngày thoái vị của chồng bà, Hoàng đế Bảo Đại, ngày 30.8.1945.
Lời kêu gọi của Hoàng hậu Nam Phương có đoạn viết:
“Nước
Việt Nam đã thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp và Nhật Bản. Chồng tôi,
cựu hoàng Bảo Đại, khi thoái vị đã nói lên nguyện vọng làm dân một
nước độc lập còn hơn là làm vua một đất nước nô lệ. Bản thân tôi,
tôi đã từ bỏ không nuối tiếc mọi đặc quyền của một hoàng hậu, hợp
lực với các chị em phụ nữ, mỗi người trong hoàn cảnh và khả năng của
mình, để cộng tác với chính quyền trong việc bảo vệ quyền lợi thiêng
liêng của nền độc lập của chúng tôi.
Lúc này
đây, máu đã đổ nhiều … nhiều sinh mạng đã bị hy sinh cho tham vọng
của một nhóm thực dân Pháp …
Nhân
danh mười ba triệu phụ nữ Việt Nam, tôi kêu gọi các bạn bè của riêng
tôi, các thân hữu của Việt Nam, hãy lên tiếng đòi tự do … bằng cách
thỉnh cầu nhà cầm quyền của quốc gia các bạn can thiệp để một nền
hoà bình công bằng và thoả đáng được thiết lập, làm như vậy các bạn
đã tuân theo tiếng nói của lương tâm con người và chiếm trọn lòng
biết ơn của dân tộc chúng tôi”[2].
Theo Benard Fall thì lời kêu gọi này của Hoàng hậu Nam Phương đã
được bà viết ngày 25.8.1945, nhưng bà đã đợi đến đúng ngày thoái vị
của Hoàng đế Bảo Đại mới phổ biến.
Không
những người Công giáo bình dân vốn “lòng tôi theo đoàn quân du kích”
đã lên đường đi kháng chiến, mà giới trí thức Công giáo thành thị
cũng đã tham gia vào công cuộc dành độc lập cho Tổ quốc, mỗi người
mỗi cách, tuỳ hoàn cảnh và khả năng của mình. Một trong những khuôn
mặt trí thức Công giáo nổi bật vào cái thuở ban đầu kháng chiến ấy
là ông Nguyễn Mạnh Hà, người sáng lập phong trào Thanh Lao Công
(Thanh niên lao động Công giáo – Jeunesse Ouvrière Catholique – JOC)
ở Hải Phòng. Ông Hà có vợ là người Pháp, con gái một vị nghị sĩ
thuộc đảng Cộng sản Pháp, ông Marrane. Khi cụ Hồ Chí Minh thành lập
Chính phủ Cách mạng Lâm thời ngày 23.8.1945, ông Hà được mời giữ
chức Bộ trưởng Kinh tế. Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại hơn sáu
tháng, bởi sau ngày bầu cử Quốc hội lần đầu tiên 6.1.1946, Chính phủ
Liên hiệp đã thay thế Chính phủ Lâm thời vào ngày 2.3.1946. Sau đó
ông Hà lại được cụ Hồ mời tham gia phái đoàn dự hội nghị
Fontainebleau ngày 27.5.1946.
Khi
cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19.12.1946, ông Hà và gia
đình vẫn ở lại Hà Nội. Ông cùng với các ông Hoàng Xuân Hãn, Luật sư
Vũ Văn Hiền, mà người Pháp gọi là “Les Trois H”, chủ trương
thương thuyết với Pháp. Nhưng ông vẫn tích cực ủng hộ kháng chiến,
điều này làm nóng mặt người Pháp, nên tướng De Lattre de Tassigny đã
trục xuất gia đình ông về Pháp năm 1951.
Năm
1977, sau ngày thống nhất Đất Nước, thủ tướng Phạm Văn Đồng sang
thăm nước Pháp, đã gặp riêng ông Nguyễn Mạnh Hà. Cuộc gặp gỡ này
được coi như nối lại tình xưa nghĩa cũ, tạo nhiều cơ hội để ông Hà
về thăm Quê Hương, đóng góp những ý kiến xây dựng cho chính phủ nước
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông mất ngày 4.5.1992 tại Pháp.
Bà vợ ông mới qua đời ngày 27.4.2007.
Ngày
4.9.1945, công dân Vĩnh Thuỵ, tức cựu hoàng Bảo Đại, rời kinh thành
Huế ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ Lâm thời. Cựu hoàng dùng đường
bộ, dọc đường đi, dân chúng hai bên quốc lộ 1 được tin xe của cựu
hoàng đi qua, đã đổ xô ra để được hân hạnh nhìn thấy vị vua cuối
cùng của triều Nguyễn. Tại Hà Nội, việc đón tiếp và bố trí nơi ăn chốn
ở cho ông cố vấn cũng đã là một mối bận tâm (và là một chu đáo) của
chính phủ. Ông cố vấn thường xuyên được đãi đằng cơm rượu tại nhà
ông Mai Văn Hàm, một doanh nhân Công giáo có tiếng tại thủ đô lúc bấy
giờ. Vốn ở cung vàng điện ngọc với những bữa yến tiệc sang trọng, lại
là người có nếp sống tây phương lịch lãm, cố vấn Vĩnh Thuỵ làm sao
mà kham nổi những bữa cơm đạm bạc của thời kháng chiến. Thế là, với
tinh thần góp công sức vào cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp
lúc bấy giờ, ông Mai văn Hàm thường xuyên tổ chức các bữa cơm tây
cho cựu hoàng thư giãn, cho các nhà trí thức nay đang một lòng với
kháng chiến lui tới. Nhà ông Mai Văn Hàm đã là một câu lạc bộ với sự
góp mặt thỉnh thoảng của cố vấn Lê Hữu Từ mỗi khi Đức Giám mục về
thủ đô trao đổi quốc sự với cụ Hồ, của các ông Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, hai vị khách không thường xuyên góp mặt. Theo lời kể
của Lm. Phạm Hân Quynh thì những vị có mặt thường xuyên hơn là các
ông Nguyễn Đệ, ông Tam Lang Vũ Đình Chí, ông Nguyễn Tấn Di Trọng,
ông Ngô Tử Hạ. Lm. Phạm Bá Trực và thày đại chủng sinh Phạm Hân
Quynh cũng thường có mặt trong các buổi gặp gỡ này. Thày Quynh
thường được xếp chỗ ngồi bên cụ Nguyễn Đệ, đơn giản chỉ vì cụ nói
không rành rẽ tiếng Việt. Thày kiêm việc phiên dịch. Ông Ngô Tử Hạ,
chủ một nhà in ở ngõ Huyện, gần nhà thờ lớn lúc bấy giờ, sau được
bầu làm Chủ tịch Quốc hội khoá I, cũng thường xuyên có mặt trong các
bữa tiệc này.
Cách
riêng, Lm. Phạm Bá Trực, một vị tu hành với lòng yêu nước nồng nàn,
đã được giáo quyền chấp thuận cho tham gia vào các hoạt động chính
trị lúc bấy giờ. Cha Trực được bầu vào quốc hội khoá I và là phó trưởng
ban thường trực quốc hội. Ngài qua đời ngày 5.10.1954, chỉ 5 ngày
trước ngày quân đội nhân dân tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nhật báo “Nhân
Dân”, cơ quan trung ương của Đảng Lao Động Việt Nam số 237 ra ngày
11 và 12 tháng 10 năm 1954[3]
đã tường thuật đầy đủ tang lễ của Cha Phạm Bá Trực. Tờ nhật báo đăng
bài cáo phó ngay trang nhất :
CÁO PHÓ
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực đã từ trần. Báo Nhân Dân lấy làm
đau đớn báo tin để toàn thể đồng bào biết rằng:
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực
Phó trưởng Ban Thường Vụ Quốc Hội
Phó Chủ tịch Mặt trận Liên – Việt
Sau hai năm bị bệnh nặng, được chính phủ ta hết lòng săn sóc,
đã từ trần ngày 5 tháng 10 năm 1954 tại Việt Bắc, thọ 56 tuồi.
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực là một nhà ái quốc được toàn thể đồng
bào công giáo và nhân dân ta kính mến. Cụ luôn luôn nêu cao
tinh thần hy sinh phấn đấu vì lòng kính Chúa và yêu nước của
người công giáo Việt Nam. Trong Mặt trận Liên – Việt cũng
như trong Quốc hội, cụ đã không ngừng nỗ lực để thắt chặt khối
đoàn kết giữa đồng bào lương và giáo, giữa các tôn giáo với
nhau, đặng đấu tranh cho lý tưởng chung của dân tộc ta là
hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ.
Cụ Linh mục Phạm Bá Trực từ trần là một cái tang chung của đồng
bào công giáo và của nhân dân Việt Nam ta.
Trong dịp này chúng tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước linh
hồn của cụ Linh mục Phạm Bá Trực với lòng thương tiếc chân
thành một nhà ái quốc thân yêu.
|
Cũng tại
trang nhất của số báo này, ngay bên trên cột tin cáo phó là “Lời điếu
Cụ Phạm Bá Trực, Phó trưởng Ban Thường Vụ Quốc Hội” của cụ Hồ Chí
Minh. Cụ Hồ viết:
“Tôi
xin thay mặt chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ.
Từ
ngày nhân dân tin cậy cử Cụ làm Đại biểu Quốc hội và Quốc hội cử Cụ
vào Ban Thường Trực, Cụ đã đưa hết tinh thần vàlực lượng giúp Chính
phủ trong mọi vấn đề quan trọng. Trong mọi việc, Cụ đã kết hợp đạo đức
bác ái theo lời Chúa dạy, với tinh thần nồng nàn yêu nước của người
đại biểu chân chính cho nhân dân Việt Nam.
Nay
Cụ mất đi, Chính phủ và nhân dân vô cùng thương xót.
Trong lúc ốm nặng, Cụ thường nói với tôi: Mong trông thấy kháng chiến
thắng lợi thì dù chết Cụ cũng thỏa lòng.
Nay
hoà bình đã trở lại, Cụ đã thỏa lòng.
Nhưng tiếc rằng Cụ không còn nữa để giúp nước giúp dân.
Với
lòng vô cùng thương tiếc một nhà tận tuỵ ái quốc và một người bạn
thân mến, trước linh hồn Cụ, chúng tôi nguyện kiên quyết một lòng,
đoàn kết toàn dân để làm tròn sự nghiệp mà suốt đời Cụ mong muốn,
tức là: củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập
và dân chủ trong toàn nước Việt Nam yêu quý của chúng ta.”
HỒ CHÍ
MINH
Bên dưới
hai bài Điếu Văn và Cáo Phó, vẫn tại trang nhất là bài tường thuật
tang lễ của Cha Phạm Bá Trực, với sự hiện diện của cụ Tôn Đức Thắng,
Quyền Trưởng Ban Thường Trực Quốc Hội và Chủ tịch Uỷ Ban Mặt trận
Liên – Việt, cụ Bộ Trưởng Vũ Đình Tụng và ông Bộ Trưởng Phan Anh đại
diện chính phủ, cụ Lm. Vũ Xuân Kỷ và ba vị linh mục khác, đồng chí Hồ
Viết Thắng đại diện trung ương Đảng Lao Động Việt Nam. Đại sứ quán
Trung Quốc ở Việt Nam cũng cử ông Tham tán Tạ Xưởng Thu và ông Bí
thư Tào Quế Xinh đến dự lễ. Bộ trường Phan Anh đọc điếu văn của Hồ
Chủ tịch viếng Cha Phạm Bá Trực.
Vào dịp
lễ giỗ Cha Phạm Bá Trực đầu tháng 10.2008, chúng tôi về giáo xứ Đại
Từ, Thái Nguyên, nơi đặt phần mộ Cha Trực và chỉ cách thủ đô kháng
chiến Định Hoá 30 cây số. Chúng tôi nghiêm trang kinh nguyện bên phần
mộ của Cha, với lòng hiệp thông của kẻ hậu sinh luôn nặng lòng với Hội
Thánh và Đất Nước. Chợt nhớ lại lời nguyện ước của vị linh mục lành
thánh này: Khi hoà bình, sẽ trả lại mọi chức tước cho Nhà Nước và trở
về với đời sống của một linh mục thuần tuý. Tiếc quá, chỉ còn 5 ngày
nữa là Cha có thể về thủ đô Hà Nội, gặp lại các đấng bề trên của
Giáo hội, những người đã chúc lành cho Cha trên đường kháng chiến,
thì cha lại an nghỉ ngàn thu ở chiến khu Việt Bắc này.
Có thể
nói rằng mọi thành phần của Giáo hội Công giáo Việt Nam đều một lòng
với nền độc lập dân tộc, bằng mọi cách, trong hoàn cảnh của mỗi người,
cố gắng đóng góp vào việc gìn giữ nền độc lập non trẻ này. Đặc biệt
hơn nữa như tại Phát Diệm, một tổ chức chính trị và quân sự là “Việt
Nam Công Giáo Cứu Quốc” đã được chính phủ công nhận và liên lạc hàng
ngang với Mặt trận Việt minh, qua sự ký nhận hợp thức hoá của ông Phạm
Văn Đồng, đại diện Tổng bộ Mặt trận Việt minh. Đó là vào dịp phái
đoàn chính phủ về Phát Diệm dự lễ tấn phong Đức Giám mục Lê Hữu Từ
(29.10.1945) gồm có các ông Nguyễn Vĩnh Thuỵ, Cố vấn Chính phủ, Võ
Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ, Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài chánh,
Nguyễn Mạnh Hà, Bộ trưởng Kinh tế và Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Tuyên
truyền.
Cứ tưởng
như đôi bên kháng chiến Việt minh và Công giáo sẽ chen vai sát cánh
vì nền Độc lập của Tổ quốc, nhưng vẫn ngờ ngợ làm sao ấy! Vì đã
không thể có mặt trong dịp lễ tấn phong Đức cha Lê Hữu Từ, cụ Hồ Chí
Minh về Phát Diệm vào ngày 20.1.1946 để vấn an vị Giám mục cố vấn
chính phủ. Đức Cha Lê đã tỏ ra khá thẳng thắn: “Tôi và toàn dân Công
giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt để ủng hộ cụ trong công cuộc chống
thực dân Pháp, giành độc lập cho tổ quốc Việt Nam, nhưng nếu cụ là cộng
sản, thì tôi chống cụ và chống cụ từ phút này”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thì vẫn điềm đạm lấp lửng: “Thưa cụ, toàn dân đoàn kết và đã đoàn kết
chống thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam thì thế nào cũng thắng.
Đến khi toàn dân toàn thắng thì sẽ có cuộc phổ thông đầu phiếu, lúc
đó toàn dân sẽ định đoạt, cụ và tôi khỏi phải lo”.[4]
Trong
chỗ riêng tư, cụ Chủ tịch và cụ Cố vấn thường có những trao đổi thẳng
thắn, và vì đại cuộc, hai cụ vẫn giữ những mối giao hảo tốt đẹp, nhất
là trong năm 1946. Ngày 27.5.1946, Đức cha Lê đã cử Lm. Nguyễn Gia Đệ
tới sân bay Gia Lâm tiễn chân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dự hội nghị
Fontainebleau. Hồ Chủ tịch bắt tay Lm. Đệ và nói khá lớn để mọi người
có thể nghe: “Xin cảm ơn linh mục và xin linh mục về thưa với cụ
Giám mục cố vấn rằng: tôi rất cảm kích trước sự ưu ái và lòng ái quốc
cao cả của cụ Giám mục, xin cụ Giám mục và giáo dân Công giáo cầu
nguyện cho tôi và phái đoàn thành công trong chuyến xuất ngoại này”.[5]
Tạm ước
(Modus vivendi) Fontainebleau cũng như hiệp định sơ bộ 6.3.1946 tại
vịnh Hạ Long đó là những nhượng bộ tạm thời trong ý đồ của cụ Hồ trước
ngày phát động kháng chiến toàn quốc. Nhưng cụ Giám mục cố vấn đã
cùng Lm. Đoàn Độc Thư ra Hà Nội ngày 24.10.1946 để gay gắt phản đối
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi thương thuyết với kẻ thù cũng một lòng vì
Nước vì Dân. Phản kháng gay gắt với kết quả thương thuyết cũng một
lòng vì Dân vì Nước. Nhưng rồi kể từ 1947 các cuộc đụng độ thanh
toán lẫn nhau giữa hai lực lượng quân sự Việt Minh và Công Giáo Cứu
Quốc đã làm lạt đi mối giao hảo giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Giám mục
cố vấn Lê Hữu Từ.
Hồ Chủ
tịch thì cho rằng “hạ cấp không khéo”, còn Giám mục cố vấn thì mỗi
ngày mỗi “ngộ” ra hơn về đường lối chính sách cai trị của Đảng Cộng
sản. Tuy vậy hai cụ vẫn cố gắng giữ vẻ thân thiện, ít ra là bề ngoài.
Cụ Hồ mời Đức Cha Lê về dự “Hội Nghị Điền Thổ” ở Nho Quan ngày
20.12.1947, cùng nằm nghỉ trưa trên một chiếc phản gỗ, cùng dùng
chung một dĩa khoai lang luộc, và đặc biệt nhất là Cụ Hồ xin Đức Cha
Lê làm phép báp-tem (rửa tội) cho mình. Lời đề nghị đột ngột này đã
được Đức Cha Lê nhã nhặn từ chối, bởi lẽ “báp-tem” không chỉ đơn giản
là … dội nước.
Sang đầu
năm 1948 (20.1) Đức Cha Lê gửi thư chung số 29 (riêng và mật) cho
các cha trong giáo phận, căn dặn :
“ …
nếu quân Pháp đánh vào Tỉnh Ninh Bình, thì các cha và giáo hữu ở gần
trận địa hãy thu xếp các việc cho kíp mà tránh trước đi. Đừng kể những
người phải ở lại canh giữ làng. Đừng ai có hành động gì làm cho người
ta cắt nghĩa được là mình có ý theo giặc mà làm thiệt hại cho mình
và mang tiếng cho sự đạo.
...
....
....
...
Sau
hết xin các cha thực tình và nhiệt thành cộng tác vào công cuộc
kháng chiến của chính phủ hiện thời.
Bấy
nhiêu lời vắn tắt, xin các cha hiểu và thi hành.
Phát Diệm ngày 20.1.1948
Fr. A.M.T. Lê Hữu Từ[6].
Lá thư
luân lưu số 39 của Đức Cha Lê viết ngày 17.4.1949 gửi đoàn chiên
giáo phận đã cho chúng ta thấy một điều là Giám mục Phát Diệm đã hiểu,
hiểu tường tận học thuyết Cộng sản. Có thể như một số người nghĩ rằng
các Giám mục Việt Nam lúc bấy giờ đã không có được những hiểu biết
rành rẽ về lý thuyết và con người cộng sản, nhưng chúng tôi nghĩ, đối
với Đức Cha Lê Hữu Từ thì không.
Lá thư
luân lưu lịch sử này được Đức Cha Lê Hữu Từ viết 5 tháng sau ngày Đức
Cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám mục Bùi Chu qua đời, ngày 27.11.1948. Chỉ một
tháng sau (tháng 1.1949) Toà Thánh Vatican chỉ định Đức Cha Lê làm
Giám quản địa phận Bùi Chu. Như vậy, hai giáo phận Phát Diệm và Bùi
Chu đều thuộc quyền Đức Giám mục Lê Hữu Từ. Rồi thì dồn dập những biến
cố xảy đến với Bùi Chu, Phát Diệm, đặc biệt là việc quân Liên hiệp
Pháp nhảy dù xuống cánh đồng Lưu Phương, ngay cạnh sườn khu an toàn
Phát Diệm, ngày 16.10.1949. Mặc dù Đức Cha Lê đã phân trần với toàn
giáo phận :
“
... tôi không hề có một tiếp xúc nào với chính phủ Bảo Đại ... trước
mặt Chúa, tôi không hề có ý làm một việc gì hay nói một lời nào có
tính cách như là yêu cầu một quân đội nào đến cứu giúp. Việc này xảy
ra hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi”.
(Thư luân lưu số 47, nagỳ 20.10.1949).
Nói gì
thì nói, Việt Minh coi Phát Diệm như đã vào vùng Tề. Việt Minh lui
vào chiến khu, tiếp tục kháng chiến chống Pháp đến hiệp định Genève
1954, cũng là lúc Đức Giám mục cố vấn chính phủ xuống ca-nô ở chân cầu
Trì Chính, tháo chạy ra biển, lên tàu vào Nam.
Mọi tầm
nhìn của cả Giáo hội Công giáo miền Bắc và của Việt Minh nữa đều hướng
về thủ đô Hà Nội, nơi mà vào ngày 15.8.1950, vị Giám mục Việt Nam
tiên khởi của Giáo phận, nhân đức và lỗi lạc, với một bộ tham mưu gồm
nhiều linh mục trẻ trung, trí thức, được đào tạo từ các nước Tây
phương về, sẽ được tấn phong và cai quản Giáo phận thủ đô: Đức Cha
Giuse Maria Trịnh Như Khuê.
Nằm
trong vùng Tề và dưới quyền chính phủ Bảo Đại, nhưng hai địa phận
Phát Diệm và Bùi Chu vẫn tỏ ra chống Pháp kịch liệt, đặc biệt là
trong năm 1951, năm mà Đông Dương được đặt dưới quyền cai trị của
viên Cao uỷ người Công giáo nhưng đặc sệt máu thực dân trong huyết
quản: De Lattre de Tassigny.
Mới
chân ướt chân ráo tới Đông Dương tháng 12.1950, ngày 26.2.1951, Cao
uỷ De Lattre tới Đan viện Thiên An, gần thành phố Huế, gặp Đức Viện
phụ Dom Romain. Ông cho rằng có những binh sĩ Việt Minh được che dấu
và săn sóc tại Đan viện này. Ông tuyên bố: “Thưa Cha, đối với những
binh sĩ Pháp tội nghiệp của chúng ta thì cuộc chiến đấu này là một
cuộc thập tự chinh. Cách xa tổ quốc vạn dặm, họ đang chiến đấu để bảo
vệ nền văn minh Kitô giáo. Họ có quyền chờ đợi ở Cha tình thân hữu,
nếu không muốn nói là sự trợ giúp của Cha. Nếu tôi biết chắc được
thái độ của Cha, tôi sẽ hành động chống lại Cha. Đó là điều bất đắc
dĩ, bởi tôi là một tín hữu ngoan đạo. Nhưng tôi không thể để cho người
ta bắn vào sau lưng binh lính của tôi”[7]
.
Mùa
xuân năm 1951, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh thánh Jean
Baptiste de la Salle, Đức Giám mục Lê Hữu Từ đã đọc một bài diễn văn
nảy lửa, ngài kêu gọi: “Người Pháp hãy ở lại Paris và Bảo Đại về
Sàigòn”. 15 ngày sau, con trai của vị Cao uỷ, Bernard de Lattre, tử
trận tại Ninh Bình, sau khi tiểu đoàn do anh chỉ huy đi ngang qua
Phát Diệm và bị giáo dân ùa ra đường la ó, nhục mạ.
Từ nghi
kỵ đến lời qua tiếng lại, rồi cao điểm là cái chết của cậu con trai,
Cao uỷ De Lattre dồn mọi bực bội lên hai giáo phận miền duyên hải Bắc
kỳ này, do các Đức Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi điều khiển[8].
Ông còn nghi ngờ hai địa phận này là “trạm trung chuyển” hàng hoá từ
vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh lên chiến khu Việt Bắc. Ngày 9.6.1951,
ông viết thư cho vợ: “Anh phải áp dụng chính sách cứng rắn đối với
các vị Giám mục (…) Phải chấm dứt cái trò đi hàng hai ghê tởm này đã
gây ra sự bất ngờ ở Ninh Bình và nếu anh không ra tay chặn lại, sẽ
còn gây ra cho chúng ta nhiều tổn thất nữa. Hình bóng của con trai
chúng ta đã theo anh khắp nơi và cho anh tất cả nghị lực. Hôm nay
anh đã quyết định là nếu các vị Giám mục không nhượng bộ, anh sẽ
tuyên bố tình trạng thiết quân luật đối với hai địa phận này và đặt
dưới quyền kiểm soát của quân đội. Chính phủ đã đồng ý. Em thấy đấy,
chúng ta đang đứng trước một sự thử thách phải dùng sức mạnh, chúng
ta phải hoàn tất”[9].
Cao uỷ
De Lattre sang La Mã và vào triều yết Đức Thánh Cha Piô XII ngày
18.10.1951. Vatican lúc này đang bị bao trùm bởi bầu khí chống cộng.
Chúng tôi nghĩ Toà Thánh cũng đã không hiểu tường tận hoàn cảnh của
Việt Nam, của Đông Dương.
Ngày
23.10.1951, vị Khâm sứ mới của Toà Thánh Vatican, Đức Cha Dooley, nhậm
chức tại Hà Nội. Hai tuần lễ sau đó, từ mùng 5 đến mùng 10 tháng
11.1951, Đức Khâm sứ chủ toạ hội nghị các Giám mục Đông Dương. Cao uỷ
De Lattre đã dành chiếc máy bay riêng của ông để phục vụ các Giám mục
về phó hội. Ngày 7.11.1951, ông tổ chức buổi chiêu đãi các vị Giám mục
tại “Nhà Pháp Quốc” (Maison de la France)[10].
Các vị Giám mục Việt Nam đã được “săn sóc” quá ân cần, đến độ không
còn đủ can đảm để lên án chế độ thực dân Pháp trên Quê hương thân
yêu. Ở đoạn đầu của lá thư, các ngài đã nâng lòng ái quốc
(Patriotisme) lên hàng nhân đức (vertu) của người Công giáo. Tiếc
thay, đoạn này lại không có trong bản tiếng Việt. Tại sao vậy nhỉ?
Các vị Giám mục Việt Nam bị sức ép từ phía người Pháp? Hoặc giả các
Đức Giám mục không muốn phổ biến rộng rãi quan điểm này, e rằng
thanh niên Công giáo sẽ lên đường đi kháng chiến hết. Mà đi kháng
chiến ở thời điểm đó để chống thực dân Pháp thì chỉ còn một con đường
duy nhất là gia nhập Việt Minh. Các đảng phái “Quốc gia” cứ nhùng nhằng
mãi trong chính sách và tổ chức, sau cùng bị tiêu diệt và tan rã.
Khu an toàn Bùi Chu Phát Diệm chỉ là chuyện lãng mạn, an toàn nhưng
có an toàn đâu, Việt Minh có thể ra vào như chốn không người.[11]
Nhưng trong bản văn tiếng Pháp thì có đầy đủ hai đoạn thiếu trong bản
tiếng Việt (Xin xem phần phụ lục), phải chăng để “dằn mặt” riêng người
Pháp, cũng là những người Công giáo, lại còn được coi là “trưởng nữ”
trong các Giáo hội Công giáo Châu Âu?
Dẫu sao
thì các Giám mục Việt Nam năm 1951 đã làm đầy đủ vai trò ngôn sứ:
lên án học thuyết cộng sản là sai lầm từ bản chất. Chỉ 40 năm sau, học
thuyết và chế độ này đã sụp đổ như lâu đài trên cát, từ ngay “đất
nguồn” của chế độ.
Tưởng rằng
đã dẹp bỏ được mọi chướng ngại trong cuộc chiến chống Việt Minh, Cao
uỷ De Lattre gạt sang một bên mọi khuynh hướng ôn hoà chủ trương đàm
phán. Người Công giáo Nguyễn Mạnh Hà bị trục xuất về Pháp. Cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, tức cuộc kháng chiến chống Pháp, đã
chấm dứt với thất bại của thực dân Pháp tai mặc trận Điện Biên Phủ,
dẫn tới Hiệp đinh Genève chia đôi Đất Nước, dùng vĩ tuyến 17 làm
ranh giới của hai miền.
Quân
đội Việt Minh chiến thắng hùng dũng vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội.
Giáo phận hà Nội trở thành cánh chim đầu đàn của Giáo hội miền Bắc
trong cuộc đương đầu mới với Cộng sản.
1954
Tại Toà
Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria trịnh Như Khuê đã can đảm giữ
cho “ … tình hình Địa phận Hà Nội là tương đối ổn định trong thời kỳ
lung lạc. Được thế phần lớn là nhờ việc chủ chăn luôn hiện diện với
đoàn chiên, tức là việc Đức Cha Trịnh Như Khuê không đi Nam, do đó
linhmục, giáo dân an tâm ở lại chung quanh vị chủ chăn lập trường
chín chắn”. “… Hà Nội còn có một ê-kíp linh mục rất năng động. Ở các
thành phố, các linh mục đều ở lại nhiệm sở. Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định,
đều có các linh mục trẻ đầy năng động. Ở Hà Nội có các Cha Vinh, Cha
Oánh, Cha Thông, Cha Quynh; ở Nam Định có Cha Nhân. Các ngài đã được
đào luyện tại các Đại Học Công Giáo ở ngoại quốc. Còn lại những Cha
Căn, Cha Tụng, Cha Thuyết, Cha Bàng ở Phủ Lý, Cha Trọng, Cha Vượng ở
Nam Định, hầu hết là những người đứng đầu các lớp học, nên Đức Cha
Khuê đưa về quanh ngài, hoặc ở các nơi quan trọng”.[12]
Trong
cuộc gặp gỡ lần đầu với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng sau ngày tiếp quản
thủ đô, Đức Cha Khuê đã đưa ra nhận xét là trong lịch sử, đã có nhiều
chính thể, kể cả những chính thể lúc đầu tỏ ra thiện cảm với Công
giáo, nhưng rồi giữa Công giáo và những chính thể này vẫn không đi đến
chỗ đồng thuận. Nay thì tại miền Bắc Việt Nam, với chính quyền mới,
cho dù đây là một chính thể Cộng sản, Đức Giám mục Hà Nội sẽ cố gắng
làm cho thế giới thấy được rằng Công giáo và Cộng sản vẫn có thể
chung sống hài hoà. Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã hoan nghênh thái độ
này của Đức Giám Mục Hà Nội. Có lẽ thái độ cởi mở và lạc quan này của
Đức Cha Khuê đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm của linh mục thư ký riêng
của ngài, Cha Phạm Hân Quynh, từng du học Âu châu, ở đó ông đã đến
thăm Thành phố Syracuse (Ý) dưới quyền đảng Cộng sản Ý. Cha Quynh đã
được hướng dẫn đi thăm các nhà thờ chật kín giáo dân tham dự các
nghi thức phụng vụ, với lời thuyết minh của Đức Giám mục sở tại: “Họ
là đảng viên Cộng sản cả đấy!”. Than ôi, Đông là Đông và Tây là Tây,
cách riêng đảng Cộng sản Việt nam, rất Á Đông, rất Việt Nam mà không
hẳn người nước ngoài nào cũng hiểu thấu đáo.
Lợi dụng
bầu khí cởi mở trong xã hội sau ngày dành được độc lập và nhất là
trong thời kỳ “sửa sai” sau những năm tháng “cải cách ruộng đất” tàn
bạo và bất nhân, Đức Cha Trịnh Như Khuê đã đi kinh lý một vòng các
giáo xứ thuộc địa phận của ngài, kể cả những giáo xứ xa xôi hẻo lánh
nhất như Trình Xuyên, Vĩnh Trị, Kẻ Đại, Kẻ Chanh … Đức Giám mục dùng
chiếc xe hơi riêng của ngài, có cắm cờ Hội thánh, cùng với linh mục
thư ký, cả hai vị đều mặc tu phục chỉnh tề. “Thế rồi tối ngày 16
tháng Tư năm 1957, từ Kẻ Sở, người trở về Hà Nội, qua Phủ Lý đến Ngã
tư Vọng, người bị khám giấy và tước giấy. Nhật ký không nói rõ giấy
gì. Có thể là giấy thông hành, nhưng cũng có thể là giấy chứnh minh
nhân dân. Không có giấy thông hành, không có giấy, không có thẻ công
dân thì không còn di chuyển, đi đây đó được. Người như đã mất quyền
công dân, đã thành kẻ tù tội, người không còn được ra khỏi thành phố,
không còn được đi làm nhiệm vụ Giám mục của mình. Người bị quản thúc,
bị giam lỏng.”[13].
Sự kiện này đã như một gáo nước lạnh dội vào nguyện ước sống chung với
Cộng sản của Giám mục Hà Nội. Hà Nội không phải là Syracuse.
Các vị
Giám mục khác của miền Bắc cũng lần lượt chịu cảnh giam lỏng trong
Toà Giám mục[14],
nhất là từ sau năm 1960, năm mà miền Bắc đã ổn định xã hội, khởi đầu
cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Các địa phận trống toà đều được
Toà Thánh Vatican bổ nhiệm các vị chủ chăn mới vào thời điểm này.
Cái khó đối với các tân Giám mục là làm thế nào có thể về được Hà Nội
hoặc Hải Phòng để chịu sự tấn phong của các Giám mục sở tại.
Cha
Đaminh Đinh Đức Trụ được chỉ định là Giám mục Thái Bình, “… ngài bí
mật lên Hà Nội để được tấn phong Giám mục. Con đường Thái Bình-Hà Nội
dài ngót trăm cây số, ngài đi xe xích lô. Thực ra trên con đường dài
như thế, chủ xe và khách thay nhau đạp[15].
Lúc khởi hành là nhá nhem tối, đến Hà Nội là đêm. Đức Cha Trịnh Như
Khuê tấn phong cho ngài trong nhà nguyện riêng bên phòng ngủ. Chỉ có
chủ phong và người được tấn phong. Hoàn toàn bí mật. Lễ tấn phong
xong, hai bố con lại thay nhau đạp xe trong đêm khuya để về tới Thái
Bình lúc còn tối. Lễ tấn phong thành công mỹ mãn. Đúng là hành xử
theo cung cách Giáo hội hầm trú thuở xưa.
Được tấn
phong rồi, ngài lập lại cung cách tấn phong bí mật cho cha chính Bùi
Chu Đôminicô Phạm Năng Tĩnh. Nhưng lần này không phải ở Toà Giám mục
hay một phòng ốc nào, mà là trên con thuyền bập bềnh trên giòng sông.
Con thuyền chính là biểu hiệu của Giáo Hội trên mặt biển trần gian.
Hai vị gặp nhau trên một khúc sông, trên con thuyền nan bập bềnh, lễ
tấn phong cũng diễn ra bí mật, trên là bầu trời xanh, dưới là mặt nước
sông đang nâng đỡ con thuyền có hai người Chúa Giêsu chọn làm hai vị
“lưới người” đang chuẩn bị ra khơi để thả lưới trên mặt biển đầy khó
khăn và nguy hiểm, mà kết quả sẽ chỉ được trông đợi ở sự hướng dẫn từ
bên trên.
Từ đó Đức
Cha Đinh Đức Trụ rút về Toà Giám mục, một ngôi nhà ba tầng với hàng
mấy chục phòng. Nhưng chỉ có một mình ngài ở đó”[16].
Trường
hợp Đức Giám mục Lạng Sơn còn lận đận hơn. Được Toà Thánh bổ nhiệm
cùng thời điểm với các vị Giám mục Thái Bình và Bùi Chu, nhưng Đức
Cha Vincent Phạm Văn Dụ đã phải chờ 19 năm sau, nhân việc di tản khỏi
Lạng Sơn để tránh cuộc chiến Trung-Việt năm 1979, Đức Cha Dụ mới được
Đức Cha Phạm Đình Tụng tấn phong Giám mục tại Bắc Ninh ngày
1.5.1979. Còn thày Kẻ Giảng Hoàng Trọng Quỳnh tháp tùng Đức Cha Dụ
di tản về Bắc Ninh, cầm giấy giới thiệu của Đức Cha Dụ về Bùi Chu để
được Đức Cha Đaminh Lê Hữu Cung phong chức linh mục, đêm 28.12.1979,
lúc vị linh mục đã 75 tuổi
[17].
Riêng vị
Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê, nhân phong trào
sửa sai của Đảng, ngài đã cho phổ biến lá thư chung nói về lòng yêu
thương. Lá thư đã ảnh hưởng không những trong địa phận Hà Nội mà
toàn Giáo Hội Công Giáo miền Bắc. Nhiều nơi các linh mục đã tổ chức
các buổi sám hối công khai để bà con giáo dân nói lời xin lỗi nhau,
nếu đã trót “tố” nhau trong thời cải cách ruộng đất, và trả lại của
cải đã cướp được từ các gia đình địa chủ. Chia ruộng cho nhà nông
nghèo là điều tốt, nhưng cách làm thì vô nhân đạo. (Xin xem phần phụ
lục).
Rồi lần
lượt các linh mục chủ chốt quanh Đức Giám mục Hà Nội bị thanh trừng,
mỗi người mỗi vẻ. Đi đầu là Cha chính Địa phận G.Bt. Nguyễn Văn Vinh,
người đã từng cương quyết không cho Cao uỷ Đông Dương De Lattre de
Tassigny được dự thánh lễ tại nhà thờ lớn Hà Nội với chiếc ghế bành
chễm chệ trên gian cung thánh; người vẫn tiếp tục giữ ghế giảng viên
ngoại ngữ (Latinh) tại Đại học Y Hà Nội, khiến trong một lần viếng
thăm nhà trường (1956), Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc đã phải
sửng sốt khi thấy đến giờ này mà ở Hà Nội vẫn còn bóng dáng áo chùng
thâm trên bục giảng đại học. Noel 1958, ngày 24.12, nhà cầm quyền Hà
Nội huy động lực lượng đến tự động trang hoàng rực rỡ mặt tiền nhà
thờ lớn, không phải với ý tưởng đạo hạnh mừng Chúa Giáng sinh, mà là
với mục đích tuyên truyền cho người người thấy rằng Nhà Nước chăm lo
cho tôn giáo. Cha chính Vinh cực lực phản đối “hảo ý” này, huy động
thanh niên Công giáo gỡ bỏ cờ quạt, đèn đuốc, có chuyện giằng co giữa
đôi bên, Cha chính Vinh bèn cho kéo chuông, tất cả các chuông, trong
suốt buổi sáng. Một tháng sau, sáng ngày 31.1.1959, Cha chính Vinh bị
kết án 18 tháng tù về tội: “Vô cớ tập họp quần chúng trái phép phá rối
trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ gây chia rẽ trong nhân
dân”. Ngày 18.2.1971, Cha Vinh chết rũ tù tại trại giam Cổng Trời-Hà
Giang (tức Công trường 75A Hà Nội). Đúng một năm sau, Nhà Nước mới
cho biết: “Ông Vinh đã chết vào ngày 18.2.1971” với lệnh:
“Các ông không được làm lễ áo đỏ hoặc áo trắng cho ông Vinh”
Cha
Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học Hoa Kỳ, về nước trước ngày Hiệp định
Genève có hiệu lực, giữ chức thư ký Toà Giám mục thay cho Cha Phạm
Hân Quynh được thuyên chuyển về Địa phận Hải Phòng (1956) theo yêu cầu
của đức tân Giám Mục Hải Phòng Khuất Văn Tạo. Du học ở Mỹ, về Việt
Nam đúng thời điểm Đất Nước bị chia cắt làm hai, không ở Sài Gòn mà
lại về Hà Nội, vậy là có “vấn đề” đấy. Cha Oánh bị quản thúc tại
Giáo xứ Truôn Thượng từ 1961 đến 1982. Cuộc sống quản thúc của ngài
chồng chất khổ ải: được phép dâng lễ ở gian giữa một ngôi nhà mà
gian đầu là chỗ ở của người tù không mang án, gian cuối là chỗ để kiệu
và đòn đám ma, không được tiếp xúc với ai. Có ngày ngài không còn gì
để ăn, tối đến cồn cào ruột gan, bèn đi ngủ để quên đói. Vào giường,
vừa mở tấm chăn ra thì thấy lạo xạo … Chúa ơi! Gạo! Thế là Cha Oánh
bốc một nắm, nổi lửa nấu một chén cháo, húp cho ấm bụng. Cảnh bi đát
cùng đường này chỉ thỉnh thoảng mới gặp phải. Rất nhiều buổi sáng vừa
thức giấc đã thấy một tô phở đặt bên cửa sổ, Cha Oánh dâng lời tạ
ơn, tạ ơn Chúa và tạ ơn tình người, rồi cứ tự nhiên như … người Hà Nội,
ăn xong bát đũa lại được đặt vào chỗ cũ, bát đũa sẽ biến đi lúc nào
không ai hay. Có những ngày sau thánh lễ,Cha Oánh đi đóng các cửa
thì thấy ở chân cột nhà một bó rau, một khúc cá hoặc một lạng thịt.
Cha Nguyễn Ngọc Oánh được giải quản năm 1982, nhưng chưa thực sự được
tự do, phải đợi đến năm 1985 ngài mới được tự do đi lại, nhận chức
Chính xứ Giáo xứ Hà Thao và qua đời tại đây, với chức danh Đức Ông
được Toà Thánh ban tặng. Người viết nhớ tới Đức Giám Mục Phát Diệm,
Đức Cha Bùi Chu Tạo, những buổi tối đi lại lần chuỗi trong vườn Toà
Giám mục, bỗng từ bên ngoài vườn bay vào một bọc lá chuối, mở ra thì
có thể bắt gặp một nắm cơm, một chén cá hay thịt kho, một vài thẻ đường.
Cha Phạm
Hân Quynh nhắc lại với người viết nhiều lần rằng giáo dân miền Bắc,
trong những tháng năm gian khổ ấy, đã thương yêu đùm bọc nâng đỡ các
vị chủ chăn với tất cả ân cần. Sau ngày tiếp quản thủ đô, Cha Quynh
được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời vào Phủ Chủ tịch, cụ Hồ khen Cha là đã
có nhiều cố gắng vận động các linh mục và giáo dân ở lại miền Bắc,
không di cư vào Nam. “Ở Hà Nội, Đức Giám mục Trịnh Như Khuê dù không
ngăn cản người Công giáo, vì là sự tự do của mỗi người, song ngài cấm
các linh mục không được bỏ xứ mình mà đi Nam. Linh mục nào rời bỏ
nhiệm sở phải có phép của ngài và ngài chỉ cho phép vì một lý do
chính đáng nào đó, không thể ở lại an toàn ở miền Bắc. Ai đi mà
không có phép của ngài, thì bị treo chén”.[18]
Bác Hồ khóc, khóc thật sự, vì thương bà con vào trong ấy sẽ phải lao
động cực khổ rồi bỏ xác ở các đồn điền cao su. Nhìn những giọt nước
mắt của Bác, “cháu” Quynh “ngộ” và lễ phép thưa lại: “Cháu không dám
đi ngược lại chữ ký của Bác”. Chữ ký của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà ở hội nghị Genève đã xác nhận quyền tự do đi lại của người
dân để tìm nơi định cư theo ý muốn.
Khi còn
giữ chức thư ký của Đức Cha Trịnh Như Khuê tại Hà Nội, Cha Phạm Hân
Quynh đã được tháp tùng Đức Giám mục trong cuộc gặp gỡ với Thủ tướng
Phạm Văn Đồng. Trong lần gặp gỡ này, Thủ tướng ngỏ ý muốn lập một uỷ
ban làm sợi dây liên lạc giữa Nhà Nước và Giáo hội. Đức Cha Khuê đề
cử Cha Quynh làm đại diện phía Giáo hội, và Thủ tướng chỉ định luật
sư Nguyễn Thành Vĩnh, một người Công giáo miền Nam tập kết ra Bắc,
làm đại diện phía Nhà Nước. Đức Cha Khuê không đồng ý, ngài yêu cầu
Thủ tướng đề cử một nhân vật không Công giáo, thuộc Trung ương Đảng.
Cha Quynh đã gặp trực tiếp luật sư Nguyễn Thành Vĩnh và trình bày ý
kiến của Đức Giám mục. Sau này có người đã phàn nàn về thái độ cứng
rắn này của Đức Cha Khuê và cho rằng phải chi hồi đó Giáo hội chấp
nhận đề nghị của Thủ tướng, ít ra là cũng đã bắc được một nhịp cầu dẫn
đến cảm thông giữa hai phía. Cha Quynh bảo rằng nói như vậy là không
hiểu tí gì về Cộng sản, bởi theo Cha, nếu cái uỷ ban ấy hình thành
thì chỉ có thể làm tay sai cho chính quyền hoặc bị tiêu diệt.
Sau
cùng thì UỶ BAN LIÊN LẠC NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU TỔ QUỐC YÊU HOÀ
BÌNH (thường được gọi vắn tắt là Uỷ Ban Liên Lạc – UBLL) cũng được
hình thành, đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội
và bị Đức Giám mục treo chén. Cùng trong Uỷ ban này với cha Kỷ là
linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội và cũng bị Đức
Cha Khuê treo chén như cha Kỷ, và các linh mục miền Nam tập kết ra Bắc:
Hồ Thành Biên và Võ Thành Trinh. Uỷ ban Liên lạc đặt trụ sở tại nhà
các cha Đa minh (Lyon) ở đường Hùng Vương. Trong thực tế Uỷ ban này
chỉ hoạt động (hạn chế) trong hai địa phận Hà Nội và Hải Phòng, có
nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thánh Trinh từ miền Nam
ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục,
hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì kẹt hiếm hoi linh mục (Đức Cha
Giuse Trương Cao Đại di cư vào Nam, kéo theo gần hết linh mục đoàn của
địa phận Hải Phòng, chỉ còn lại 8 cha khi Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo
về nhận địa phận). Thế nhưng khi cần tổ chức thánh lễ hôn phối, các
đôi tân hôn vẫn không quản ngại đường xá xa xôi, đem nhau về Hải
Phòng xin lễ cho chắc ăn. Để cha quốc doanh dâng lễ e không thành.
Tháng 3 năm 1958, phái đoàn UBLL tỉnh Nam Định gồm các linh mục Nguyễn
Thế Vịnh và Nguyễn Tất Tiên về làm việc với Giáo xứ Kẻ Chanh (Địa phận
Hà Nội), với mục đích tuyên truyền chính sách tôn giáo của Nhà Nước.
Phái đoàn được đãi đằng cơm rượu tại nhà cụ trùm theo lời đề nghị của
UBLL Xã, nhưng khi phái đoàn đề nghị được dâng lễ tại nhà thờ, Cha
chính xứ Tôma Nguyễn Khắc Ứng từ chối, cho khoá cửa nhà thờ.
Việc ra
đời của UBLL cũng đã làm phát sinh ra được một điệu đàn, thật bất ngờ
và ngang cung, giữa hàng Giám mục miền Bắc lúc bấy giờ (1955). Đó là
lá thư “chào mừng” của Đức Giám mục Bắc Ninh Đominicô Hoàng Văn Đoàn.
Chỉ là “chào mừng” thôi nhưng lá thư cũng đã làm nóng mắt Đức Khâm sứ
Dooley và bộ tham mưu đầu não của địa phận Hà Nội. Nhân việc Đức Cha
Đoàn đi thăm một số giáo xứ năm 1954, khi về tới ngã ba Đình Trám,
ngài bị dân quân địa phương bắt giữ và đánh gãy chân vì bị tình nghi
là người Pháp. Đức Cha có một ngoại hình rất … tây: cao, to, bộ râu
quai nón rậm rạp[19].
Ngài được đưa về băng bó chữa trị tại Ngọc Lâm, cách nơi bị nạn khoảng
6 cây số. Kể ra thì vết thương cũng không quá trầm trọng, phương
pháp băng bó gân cốt với các loại thuốc cổ truyền của dân gian ta
cũng thừa sức chữa chạy. Đức Cha Hoàng Văn Đoàn vẫn giữ lập trường
như vị Giám mục địa phận láng giềng gần gũi Hà Nội, là không di cư
vào Nam. Tuy nhiên tiếng đàn ngang cung của ngài đã dẫn đến việc Đức
Khâm sứ yêu cầu ngài qua Hồng Kông chữa trị. Quần chúng vốn thông
minh và bén nhạy đã nắm bắt ngay được vấn đề, với câu ca dao truyền
miệng:
“Hoàng Văn Đoàn đi Hồng Kông
Chân chữa không khỏi còn mong gì về”
Đức Cha
Đoàn sau khi chữa lành vết thương đã trở lại Việt Nam, nhưng không
phải về miền Bắc mà là về miền Nam. Ngài được Toà Thánh chỉ định làm
Giám mục địa phận Quy Nhơn, cho đến ngày ngài qua đời 20.5.1974. Trước
ngày Đức Cha đi Hồng Kông, ngài đã thức trắng đêm với Cha Phạm Hân
Quynh, trao đổi nhiều chuyện, cách riêng về vấn đề UBLL, ngài vẫn quả
quyết là ngài không ủng hộ, ngài chỉ ngỏ ý chào mừng mà thôi. Lập
trường này đã được Cha Quynh giải bày trong một lá thư gửi khắp nơi,
in 20.000 bản và cho thanh niên đạp xe đem đến từng giáo phận, giáo
xứ khắp miền Bắc. Công an mời Cha Quynh và Cha Trịnh Văn Căn khi đó
là chính xứ nhà thờ lớn đến trụ sở CA “làm việc”. Cha Quynh xác nhận
là người thực hiện lá thư và viết theo ý của Đức Cha Đoàn. Địa phận
Bắc Ninh được đặt dưới quyền giám quản của Đức Giám mục Hải Phòng
Phêrô Khuất Văn Tạo, cho đến năm 1963, năm nhận giáo phận của Đức
tân Giám mục Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng.
Một tuần
lễ trước ngày ra mắt UBLL tại Nhà hát lớn Hà Nội, luật sư Điện còn mời
các linh mục Phạm Hân Quynh, Đỗ Tông và Phạm Đình Tụng tới tư gia thảo
luận và tha thiết mời Cha Quynh giữ chức chủ tịch UBLL thay cha Vũ
Xuân Kỷ. Cha Quynh vẫn cương quyết chối từ lời mời này, bởi lẽ ngài
không muốn làm tay sai hoặc bị huỷ diệt. Tuy vậy ngài vẫn khuyên
UBLL trước lúc ra mắt, nên vào chào Đức Giám mục như một cử chỉ xã
giao thiện ý. UBLL đã không làm theo lời gợi ý này. Từ ấy Uỷ Ban
Liên Lạc đã như một vật dị ứng đước cấy vào cơ thể Giáo hội miền Bắc,
lạc lõng với sinh hoạt của Hội Thánh và chịu sự lạnh nhạt của cộng
đoàn dân Chúa. UBLL chỉ còn một việc là làm theo mệnh lệnh của Đảng
Cộng sản đang lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện toàn miền Bắc Việt Nam.
Tự coi
như một thành phần của dân tộc, ngay từ những ngày đầu kháng chiến,
Giáo Hội Công Giáo đã nhập cuộc với toàn dân. Chưa bao giờ Giáo Hội
coi mình là nhóm người khác để phải xin “đồng hành” với Dân tộc. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã coi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như một loại học
sinh cá biệt trong một lớp học, áp dụng mọi biện pháp chuyên chính
và nghiệt ngã đối với người Công giáo, đến lúc thành lập nhịp cầu Uỷ
Ban Liên Lạc thì lại là nhịp cầu khập khiễng, “gập ghềnh khó đi” đối
với người Công Giáo.
Bản
thân Cha Phạm Hân Quynh, người được cụ Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trọng nể, vậy mà cũng bị quản
thúc tại một giáo xứ nhà quê suốt 28 năm (1960-1988), tuy không bị đối
xử nặng tay như với một số vị linh mục khác trong thời gian quản
thúc, nhưng vẫn là tù, chịu sự kiểm soát của các cán bộ địa phương
thiếu hiểu biết.
1975
Cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ hai kết thúc, với việc Đảng Cộng sản
Việt Nam thu trọn quyền hành trên cả nước từ tay chính quyền Việt
Nam Cộng Hoà ở miền Nam được sự yểm trợ của chính phủ Hoa Kỳ. Những
lời tuyên bố của các yếu nhân Hà Nội vào những ngày đầu thống nhất
Đất Nước: rằng chỉ có đế quốc Mỹ là kẻ chiến bại, còn toàn dân ta là
người chiến thắng; rằng từ nay chúng ta không còn làm tính trừ nữa,
chỉ làm phép tính cộng thôi. Chao ôi! chỉ là hoa mỹ. Phép tính trừ
đã được áp dụng trong mọi lãnh vực của xã hội miền Nam, đặc biệt là
đối với Giáo Hội Công Giáo.
“Cứ cho
là chính sách của Đảng và Nhà Nước là đúng đắn, cho dù ngay cả cái
nghị quyết 297/CP của Hội Đồng Chính Phủ ngày 11.11.1977 về một số
chính sách đối với tôn giáo vẫn chưa rõ nét và do đó còn nhiều áp dụng
tuỳ tiện, tuỳ địa phương, tuỳ quan niệm và tâm tính của cán bộ.
Chúng tôi nói “cứ cho là” có nghĩa rằng tạm chấp nhận như vậy, chứ
thật ra việc cấm các học sinh Công giáo thi vào trường này trường nọ
thì chắc chắn không phải là sáng kiến của một ông hiệu trưởng. Và rồi
than thở đó đây rằng người Công giáo là công dân hạng hai. Ngay cả
trên báo chí của Đảng, những người biên tập, khi phổ biến những
chính sách của Nhà Nước, vẫn vô tình thòng thêm một câu quen miệng:
“… kể cả đồng bào theo đạo và người gốc Hoa”. Tại sao chúng ta lại
không có một loại công dân thôi?”[20].
Cũng như thái độ cởi mở của Đức Giám mục Trịnh Như Khuê trong những
ngày đầu giải phóng thủ đô Hà Nội, các Đức Tổng Giám mục Philipphê
Nguyễn Kim Điền ở Huế và Phaolô Nguyễn Văn Bình ở Sài Gòn đều tỏ ra
sẵn sàng chung vai với chế độ mới (Xin xem phần phụ lục).
Trở lại với Giáo hội Công giáo miền Bắc, kể cả khi Đảng Cộng sản đã
nắm quyền kiểm soát toàn Đất Nước, người Công giáo vẫn chưa hưởng
bầu khí tự do hơn. Các linh mục bị quản thúc, các giáo dân bị đi tù
từ đầu thập niên 60 mà không có án, phải đợi đến giữa thập niên 80
của thế kỷ trước mới được hưởng tự do. Trước đó, nguyên cớ để bị đi
tù thường rất buồn cười: cứ tiếp tục ngoan cố đi …tu chui mà không
chịu về nhà lập gia đình như bao chàng trai khác[21],
cứ gan lì lập các nhóm cầu nguyện, hoặc đơn giản vâng lời cha xứ,
nhân lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, kẻ một biểu ngữ với hàng chữ
“Ngài đến đổi mới mặt địa cầu”. Cái từ “đổi mới địa cầu” này nghe có
vẻ nổi loạn quá, thế là thay vì bắt cha chính xứ Phạm Hân Quynh, nhà
cầm quyền đã bắt ông Sao, người thực hiện biểu ngữ, và ông Tạc, ca
trưởng của giáo xứ Đông Xuyên. Hai ông đã ngồi tù 3 năm. Ấy là vào
năm 1986.
Giáo xứ Đông Xuyên thuộc địa phận Hải Phòng. Cũng tại vùng này, sau
năm 1975, say men chiến thắng, chính quyền địa phương phát động
phong trào phá huỷ các nhà thờ không có linh mục cai quản. Một nhà
thờ họ của Giáo xứ Đông Xuyên đã bị phá huỷ. Bỗng nổ ra chiến tranh
biên giới phía Bắc với Trung Quốc và biên giới Tây Nam với
Kampuchea, năm 1979, phong trào phá huỷ nhà thờ này được ngưng lại,
dành mọi nỗ lực cho việc chống ngoại xâm.
Không thể kể hết ở đây những cách đối xử phân biệt mà Đảng Cộng sản
đã dành cho Giáo hội Công giáo Việt Nam, cách riêng Giáo hội miền
Bắc mà phạm vi bài viết này đòi hỏi, kể cả khi Đất Nước đã được
thống nhất. Có những chị nữ tu thuộc một dòng tu bị giải tán, các
chị vẫn quy tụ chung sống với nhau để tiếp tục đời tu trì. Rồi một
hôm có một số tù nhân cải tạo từ miền Nam ra lao động gần chỗ các
chị ở, ngồi trong nhà, các chị hát vọng ra những bài thánh ca quen
thuộc, các tù nhân Công giáo cảm thấy ấm áp cõi lòng, ngỡ ngàng và
hiệp thông, ngày ra trại họ kể cho chúng tôi nghe sự việc hy hữu này.
Có những cụ Trùm Họ hàng tuần đạp xe hàng chục cây số, rước Mình
Thánh Chúa về cho giáo hữu trong Họ dự tiệc thánh sau buổi sinh hoạt
phụng vụ Lời Chúa sáng Chúa nhật vì không có linh mục dâng lễ. Sau
đó thì ngọn đèn chầu cháy sáng suốt tuần lễ, ấm áp quy tụ cộng đoàn
kinh hạt sớm chiều.
Vài nét phác thảo “hạ tầng cơ sở” của Giáo hội miền Bắc, ở những nơi
hẻo lánh xa xôi. Một điều may mắn cho Giáo hội, kể từ khi dựng lều
trên Quê hương Đại Việt, cứ sau những năm tháng chia cắt vì thời
cuộc, Trịng – Nguyễn rồi Bắc – Nam, cứ sau những đắng cay phân sáp
tan tác, thì Giáo hội lại quy tụ dưới sự dẫn dắt của các vị chủ chăn,
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, khôn ngoan và đạo đức. Các Đức Giám
mục đã về họp Đại Hội Toàn Quốc tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 tháng 4
đến ngày 1 tháng 5 năm 1980. Dịp này các ngài đã nhận ra rằng “mặc
dầu sống xa nhau, tâm hồn chúng tôi vẫn là một, và cùng chia sẻ
những nỗi âu lo, niềm phấn khởi và nguyện vọng của toàn thể Dân Chúa
trên Đất Nước thân yêu này”.[22]
Đại hội này của các Giám mục Việt Nam được coi như là cuộc gặp gỡ
lịch sử, bởi vì “kể từ lúc thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam vào năm
1960, và nhất là từ ngày Nước nhà được thống nhất, chúng ta đều ước
mong có cuộc họp này”. Kế đó, các Giám mục “thành thật biết ơn chính
phủ đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho Đại hội này”, để đến
“Trước khi bế mạc Đại hội, chúng tôi đã vào lăng kính viếng Chủ tịch
Hồ Chí Minh, và đã đến yết kiến Thủ tướng Chính phủ”.
Thư Chung của các Giám mục Việt Nam 1980 khuyên bảo Dân Chúa phải
đồng hành với Dân Tộc, mà cụ thể là “Tích cực góp phần cùng đồng bào
cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc”. Cũng như Thư Chung 1951 các
Giám mục đã đặt lòng yêu nước lên hàng nhân đức, trong Thư Chung
1980, các Giám mục đã khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào đối với
người Công giáo không những là một tình cảm tự nhiên phải có, mà còn
là một đòi hỏi của Phúc Âm”. Rồi các Giám mục kêu gọi Dân Chúa đừng
nhìn quá khứ với mặc cảm, mạnh dạn nhìn vào hiện tại và tin tưởng ở
tương lai. Cũng như Thư Chung 1951, các Giám mục hồi đó đã không đủ
cái dũng để phê phán thực dân Pháp, thì trong Thư Chung 1980, các
Giám mục Việt Nam cũng làm ngơ trước một thực tại đang gây nhiều bất
công chia rẽ do Đảng Cộng sản thực hiện: chính sách học tập cải tạo
và đánh tư sản, gần gũi các Giám mục hơn cả là các linh mục, chủng
sinh miền Bắc còn đang ngồi tù hoặc bị quản thúc từ những năm 60 mà
không có án lịnh, tại miền Nam, hàng trăm linh mục tuyên uý đi tù,
chỉ vì đã vâng lời các Giám mục làm tuyên uý trong quân lực Việt Nam
Cộng Hoà, và chỉ một năm trước đó (1979) là vụ chiếm đoạt 5 nhà dòng
ở Thủ Đức với những lý do không thuyết phục. Chúng tôi nhớ tới lá
Thư Chung 1956 đầy dũng cảm của Đức Cha Trịnh Như Khuê đề cao lòng
yêu thương khi mà ngoài xã hội, hận thù và máu lửa đang ngùn ngụt
trong khắp hang cùng ngõ hẻm.
Nhìn vào tương lai, các Giám mục của Thư Chung 1980 cũng không “ngôn
sứ” được điều gì để hướng dẫn đoàn chiên: nền kinh tế bảo thủ bao
cấp đang đưa Đất nước đến bờ vực thẳm, những chèn ép tôn giáo sẽ dẫn
Dân Chúa đến nhiều đắng cay như vụ phong thánh (1988), những quyết
đoán độc Đảng đã dẫn đến xã hội băng hoại như hôm nay: một chính
sách giáo dục lạc hậu làm hư hỏng nhiều thế hệ, một xã hội thống trị
bởi tham nhũng và cường bạo … Tất cả đã không được Thư Chung 1980
của các Giám mục Việt Nam đả động tới.
Nói cho cùng thì chỉ vì sự đe doạ ngự trị bàng bạc khắp nơi, các
Giám mục cũng không thoát khỏi sợ hãi. Lúc sinh thời, Giáo sư Nguyễn
Ngọc Lan thường kể cho chúng tôi nghe câu chuyện khi ông tham dự Hội
Nghị Liên Tịch Thống Nhất Mặt Trận. Ngoài Bắc có Mặt Trận Tổ Quốc,
trong Nam có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khi quyết định thống nhất
hai Mặt trận, lại dùng tên Mặt Trận Tổ Quốc. Giáo sư Lan bèn xin có
ý kiến, rằng nên có một tên mới (chẳng hạn Mặt Trận Việt Nam) để cho
có vẻ thống nhất mà không nặng vẻ “thôn tính”. Bỗng từ hàng ghế các
yếu nhân trên cùng, một gương mặt quyền uy lúc bấy giờ quay xuống
“chiếu tướng” giáo sư Lan. Vị giáo sư nhiệt tình từng là cựu linh
mục cấp tiến, từng vào bưng giữa thời chống Mỹ cứu Nước, bèn “tịt
ngòi”. Và tịt ngòi, từ ấy!
Trước thái độ thân thiện của Thư Chung 1980, Đảng Cộng sản lại một
lần nữa đưa ra một giải pháp thiếu thuyết phục: thành lập UỶ BAN
ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC (gọi tắt là Uỷ Ban Đoàn Kết – UBĐK),
thay thế Uỷ Ban Liên Lạc. Một Đại hội của giới Công giáo được tổ
chức tại Hà Nội từ ngày 7 đến 10 tháng 11 năm 1983 để thành lập UBĐK,
với vị Chủ tịch là linh mục Nguyễn Thế Vịnh. Linh mục Phạm Hân Quynh,
từ nơi bị quản thúc là giáo xứ Đông Xuyên, đã gữi thư cho Đức Tổng
Giám mục Nguyễn Văn Bình và đề nghị ba điểm liên quan đến việc hình
thành UBĐK:
1/ Buộc những linh mục nào tham gia vào UBĐK phải được phép của Giám
mục giáo phận.
2/ Uỷ Ban Trung Ương phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Giám Mục.
3/ Các vị Giám mục được quyền sửa sai những hành động sai trái của
UBĐK.
Cả ba ý kiến trên đây đều đã không được áp dụng, đơn giản là vì UBĐK
là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc, MTTQ chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Không thuộc Giáo Hội, nhưng vẫn dựa hơi Đảng để “hù doạ” Giáo Hội.
Phần Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, một con dân Nam Bộ hiền hoà
dễ tính: “Chúng tôi dựa vào UBĐKCGYN để giải quyết một số vấn đề.
Chẳng hạn, nếu tôi muốn triệu tập tín hữu mà xin phép Nhà Nước, Nhà
Nước sẽ không cho. Nhưng nếu tôi nhân danh UBĐKCGYN để triệu tập tín
hữu thì Nhà Nước sẽ cho phép dễ dàng”.[23]
Thế là không có chuyện khó dễ như đối với UBLL, hơn thế nữa, còn
điều động khối Công giáo. “Tôi (Lm Vương Đình Bích) đã thành khẩn
nói với hai anh Từ (Lm Phan Khắc Từ) và Cần (Lm Trương Bá Cần) là
vấn đề thật của tổ chức chúng ta, không phải là nhóm nghiên cứu, mà
là nhóm bốn anh em chúng tôi, Minh Cần Từ Bích, đã được lãnh đạo gầy
dựng và giao cho nhiệm vụ điều động phong trào Công giáo yêu nước
tại Thành Phố này” (Trích trong bản tường trình gửi lãnh đạo Thành
Phố).
Trong một lần về thăm Quê nhà sau năm 1975, ông Nguyễn Mạnh Hà đã
phải thốt lên: “Đảng có cái đầu, Giáo hội Công giáo cũng có cái đầu,
tại sao hai cái đầu lại không nói chuyện thẳng với nhau mà lại cứ
phải nói qua cái đầu gối”.
Nghĩ cho cùng, kể từ khi các Đức Giám mục mở các cuộc hội nghị
thường niên và sau đó ban hành các Thư Chung gửi cộng đoàn Dân Chúa,
chỉ có lá thư do Đức Cha Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký ngày
25.9.2008, sau Hội nghị thường niên lần 2 năm 2008 của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam nhóm họp tại Toà Giám Mục Xuân Lộc là chững chạc đường
hoàng. Lá thư gửi Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội để trả lời văn
thư số 1437/UBND-NC ngày 23.9.2008 của ông Chủ tịch UBND Tp. Hà Nội,
đồng thời kèm theo một bản “Quan điểm của HĐGMVN về một số vấn đề
trong hoàn cảnh hiện nay”. Các Đức Giám mục đã trao đổi thẳng với
nhà cầm quyền mà không cần nhờ vả các “đầu gối”, đã mạnh dạn nói lên
những quan điểm không làm hài lòng nhà cầm quyền về một số vấn đề
trong xã hội (Xin xem phần phụ lục).
***
Còn nhiều điều muốn nói, còn nhiều chuyện cần được sự chỉ giáo của
các bậc trưởng thượng và các thân hữu ngoài Bắc, còn những giáo phận
mà sự hiểu biết của người viết về thời điểm này còn quá sơ sài. Khi
đặt dấu chấm hết cho bài viết này, người viết chỉ coi đây là một bản
sơ thảo cho một nghiên cứu đòi hỏi nhiều chi tiết đầy đủ hơn nữa.
Rất mong nhận được sự chỉ giáo của bạn đọc, nhất là bạn đọc ngoài
Bắc, để khoảng trống này của lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
được lấp đầy đặn. Tôn trọng sự thật, không ngại nói lên sự thật trọn
vẹn, người viết cũng luôn tâm niệm rằng “Các dân tộc qua đi, các
ngai vàng sụp đổ, Nhà Thờ vẫn đứng vững”. (Napoléon I).
Tp. Hồ Chí Minh, Xuân Kỷ
Sửu 2009.
_____________________
[1]
Đoàn Độc Thư và Xuân Huy: “Giám mục Lê Hữu Từ và Phát
Diệm, 1945-1954, Sài gòn, trang 37.
[2]
Bernard Fall, “Le Viet Minh”, Armand Colin, 1960, trang
165.
[3]
Hồi đó báo Nhân Dân ra hai ngày 1 số.
[4]
Vũ Sinh Hiên: “100 năm Giáo Phận Phát Diệm”, Tp. HCM, 2001,
trang 32-33. Theo lời kể của ông Nguyễn Đức Hiệp, nguyên Chủ
tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Kim Sơn, Kỷ yếu Phát Diệm
1891 – 1991, trang 207.
[5]
Đoàn Độc Thư và Xuân Hy, Sđd, trang 94.
[6]
Đoàn Độc Thư và Vũ Huy Bá, sđd, trang 166
[7]
Trần Thị Liên: “De Lattre au Vietnam, 1951 L’année de la
Croisade”, Luận văn Cao Học Chính Trị, Paris, 1987 – 1988,
trang 143.
[8]
Đức Cha Phạm Ngọc Chi được tấn phong làm Giám mục Bùi Chu
ngày 4.8.1950. Ngài nguyên là Giám đốc Đại Chủng viện Thượng
Kiệm của Địa phận Phát Diệm.
[9]
Trần Thị Liên: sđd, trang 145.
[10]
Trần Thị
Liên: sđd, trang 146.
[11]
Xin xem: Vũ Sinh Hiên : “Nhật ký của Cụ Sáu Việt Minh”
Sàigòn, 2007.
[12]
Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng: “Những câu chuyện về một thời”,
tập 2, trang 186, Hà Nội 2007.
[13]
Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên: “Lược sử Địa phận Hà Nội 1626 –
1954”, Sàigòn 1994, trang 583.
[14]
Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan lúc sinh thời đã gọi Toà Giám mục là
“Trại giam mới”.
[15]
Người viết đã được hân hạnh diện kiến “chủ xe”, một thày Kẻ
Giảng.
[16]
Đức Cha Lê Đắc Trọng, Sđd, trang 190.