Lịch sử và sự thật
Những người nghiên cứu
lịch sử nhiều không sớm thì muộn sẽ đi đến hai nhận xét sau đây: 1/
kẻ thắng là kẻ viết lịch sử; 2/ sự thật rốt cục sẽ thắng. Hai điều
này đều đúng khi xét đến lịch sử Việt Nam trong sáu thập niên qua,
đặc biệt là từ 1954 đến 1975 đối với Miền Nam nói chung, và từ 1954
đến 1963 riêng cho những chiến sĩ đã cố sức và hãnh diện phục vụ
thời Đệ Nhứt Cọng Hoà, dưới sự lãnh đạo của Ông Ngô Đình Diệm.
Trong thời gian nói
trên, hay đúng hơn, từ 1975 đến gần đây, người Miền Nam Việt Nam
chống cọng sản thuộc moi giới – dân sự, quân sự, chính trị, tôn
giáo, trí thức-- đã bị khinh thị, mạ lỵ, vu khống, bôi lọ, ép vào
thế phải mang mặc cảm của kẻ bại. Họ đã bị gán cho rất nhiều điều
xấu, đặc biệt là đã bị đánh bại vì thiếu chính nghĩa, bất lực, chiến
đấu dở và hèn nhát.
Những luận điệu bôi lọ
Miền Nam trên đây rất phổ cập trong mọi giới ngoại quốc, đặc biệt
là ở Bắc Mỹ và Âu Châu, vì nó được các giới chính quyền, truyền
thông, đại học phổ biến một cách đơn phương, độc đoán, không bị
phản bác. Các giới này nắm độc quyền trong việc viết lịch sử Việt
Nam vì họ thuộc về phe thắng trận. Ngoài thành phần chính, tất nhiên
là Đảng Cọng Sản Việt Nam, họ gồm có những thành phần thân cọng trá
hình, phản chiến, thiên tả đủ loại, hay mù mờ về lịch sử, và nhất
là về văn hoá Việt Nam, đã hoan hô, tâng bốc, ủng hộ ĐCSVN trong
những năm chiến tranh. Chiến thắng của cọng sản Việt Nam năm 1975 đã
tạo cho họ cái thế của kẻ có uy quyền và độc quyền nói trong khi
những kẻ bại tất nhiên im lặng vì bị bịt miệng hay phải lẫn tránh.
Do đó họ khống chế thông tin về Việt Nam. Chỉ có quan điểm của họ
mới được phổ biến. Quan điểm ngược lại, hay khác quan điểm của họ
bị dẹp đi. Quan điểm của họ đương nhiên thành quan điểm “chính
thống”, và họ được gọi là “Trường phái chính thống” (orthodox
school, école orthodoxe).
Ở đây có ba điều cần
được ghi nhận.
Một là:
có rất nhiều người Việt, kể cả một số người viết sử, đã a dua theo
luận điệu của Trường phái chính thống khi nói hay viết về Miền
Nam.Như những ký giả hay học giả ngoại quốc, họ cũng chê trách các
chính quyền hay binh sĩ Miền Nam. Đó là vì họ đọc sách báo của
ngoại quốc nhiều hơn, hay cho sách báo ngoại quốc là đúng đắn đáng
tin hơn -- Bụt nhà không thiêng! --, hay vì không thạo tiếng
Việt họ chỉ có thể đọc được những sách báo đó.
Hai là:
Đệ Nhứt Việt Nam Cọng Hoà, và đặc biệt người lãnh tụ của chế độ
này, Ông Ngô Đình Diệm, bị đả kích, kết tội nặng nề nhứt. Đó là vì
chế độ Ngô Đình Diệm, và đặc biệt là sự lãnh đạo của Ông, đã hữu
hiệu và gây khó khăn nhiều nhứt cho phía cọng sản và chính những sử
gia thuộc Trường phái chính thống.
Ba là:
những gì tốt về Miền Nam mà bất lợi cho phía cọng sản, nghĩa là có
thể làm giảm uy tín của Truờng phái “chính thống” đều bị trường phái
này ém nhẹm đi, dù đó là những sự thực rõ ràng. Phần khác, những phê
phán của giới này về Miền Nam luôn luôn nhằm hạ bệ uy tín của dân và
chính quyền Miền Nam. Nói tóm, sự thực về Miền Nam đã hoàn toàn bị
Trường phái chính thống xuyên tạc, bóp méo, ém nhẹm trong suốt 5-6
thập niên qua.
Nhưng kinh nghiệm cuộc
sống cho thấy rằng không có gì vĩnh là viễn cả. Đặc biệt là về
phương diện lịch sử, không có một chủ nghĩa, một chủ trương, một
chính sách, một tổ chức nào thoát được sự nắn bóp của thời gian cả.
Qua thời gian, mọi việc đều thay đổi, đều biến chuyển. Qua thời
gian, những lớp người mới sẽ xuất hiện. Và mấy lớp người mới này sẽ
có những tư tưởng, những quan niệm, những chính sách, những cách
hành xử khác. Như vậy là vì họ phải trực diện với những tình hình
mới, những dữ kiện mới. Dù muốn, dù không, họ không suy nghĩ và hành
động như những lớp người đã qua.
Phần khác, qua thời
gian, những dữ kiện trước kia bị ém nhẹm dần dần được tiết lộ,
giúp cho ngưòi đương thời, và đặc biệt là các sử gia không có quan
hệ gì với các chế độ củ, thấy rõ vấn đề, vạch ra những sai lầm thiếu
sót của Trường phái chính thống, và đưa ra nhửng nhận định phán xét
khác, không thể phản bác đuợc vì nó dựa trên những dữ kiện quá rõ
ràng, chính xác. Đây là tình trạng hiện nay với sự xuất hiện của tác
phẩm Triumph Forsaken, The Vietnam War 1954-1965 của Giáo sư
Mark Moyar. Tạm dịch nó là Chiến Thắng Bị Khước Từ, Chiến Tranh
Việt Nam 1954-1965.[1]
Một tác phẩm hết sức
quan trọng
Đây là một tác phẩm hết
sức quan trọng. Nó sẽ có những hậu quả rất lớn về vấn đề làm sáng tỏ
lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, đặc biệt là trong giai
đoạn 1954-1963, thời mà Ông Ngô Đình Diệm nắm chính quyền ở Miền Nam
Việt Nam. Nó đánh dấu sự phát khởi của một phong trào xét lại lịch
sử Việt Nam trong giai đoạn nói trên, tái lập sự thực, chấm dứt sự
khống chế của Trường phái chính thống, đập tan những luận điệu vu
khống bôi lọ của trường phái này, tái lập uy danh của những chiến sĩ
Miền Nam đã hết mình tranh đấu cho chính nghĩa, nhất là các chiến sĩ
thời Đệ Nhứt Cọng Hoà và Ông Ngô Dình Diệm. Bià giới thiệu sách này
(ấn bản New York) nói rằng: “Quyển sách này làm cho ta thấu hiểu
chiều sâu của sự lật đổ Tổng Thống Miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm
năm 1963 , và thấy rõ rằng cuộc đảo chính đã xoá đi những thành quả
chính trị và quân sự mà chính phủ Miền Nam đã đạt giữa những năm
1954 và 1963; những thành quả này vô cùng lớn lao (tremendous),
nhưng không được công nhận đúng giá của nó”.
Triumph Forsaken
là một công trình
sưu khảo lịch sử mà tính cách khách quan, vô tư, đứng đắn, và khả
tín không thể nghi ngờ được. Nó rất đáng được ca ngợi. Nhưng để bảo
toàn tính cách vô tư của nó, người viết bài này sẽ tránh phề bình,
nhận định, phán xét, và nhường lời cho chính tác giả, Giáo sư Moyar,
và cho những giáo sư Mỹ khác có uy tín đã điểm sách này vì những
nhận định, phán xét, ý kiến của những người đã phục vụ Đệ Nhứt Cọng
Hòa đưa ra dù có vô tư đến đâu, cũng bị cho là chủ quan, chuyện
người một phe bênh nhau.
Giáo sư Mark Moyar sinh
năm 1971, sau vụ đảo chính tháng 11 năm1963 đến 8 năm, và năm
1975, lúc Sài Gòn bị chiếm, ông ta mới có 4 tuổi, nghĩa là ông ta
không có liên hệ gì với Ông Ngô Đình Diệm và Đệ Nhứt Cọng Hoà. Ông
đã tốt nghiệp về môn sử ở Đại học Mỹ Harvard, đỗ Ph.D của Đại học
Anh Cambridge, hai đại học danh tiếng của thế giới. Sau đó ông được
mời giảng dạy ỏ Cambridge, rồi ở các Đại học Ohio, Đại học A&M của
Texas, và hiện nay là giáo sư ở Đại học của Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ ở Quantico, Virginia.
Các vị khác là: G.S.
A.O.Edmonds, Ball State University, Muncie, Indiana; G.S. Mackubin
Thomas Owens, Trường Cao đẳng Thủy quân Hoa kỳ ở Newport, Rhodes
Island; G.S. Guenter Lewy, Đại học Massachussets, Amherst,
Massachussets; G.S. Thomas Alan Schwartz, Đại học Vanderbilt,
Nashville, Tennessee. Cũng như Giáo sư Moyar, những người này trẻ và
chẳng có quan hệ cá nhân gì với Miền Nam Việt Nam cả. (Về xuất xứ
của các bài bình luận, xin xem ở cuối bài này).[2]
Tác phẩm Triumph
Forsaken dài 512 trương, gồm 17 chương. Muốn thật sát nội dung,
tít này phải dịch là: “Thắng lớn không chịu, để bị bại nhục nhã: Hoa
Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965”. Sách chủ yếu nói về những
quyết định sai lầm tai hại của chính quyền Hoa Kỳ, đã biến thắng
thành bại.
Nói đến “thắng” thì ai
cũng nghĩ ngay đến sự kiện quân đội cọng sản Miền Bắc vào Saì Gòn và
chiếm toàn Miền Nam năm 1975. Nhưng “thắng” đây là nói về thời gian
năm 1962 đến lúc đảo chính tháng 11, 1963. Mà thời gian đó là thời
gian mà chủ quyền quốc gia Việt Nam, kể cả chủ quyền về quân sự,
còn nằm trọn trong tay chính phủ Việt Nam, và sự thắng đó là thắng
của quân đội Việt Nam , dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Thống
Việt Nam, lúc đó là Ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ chưa trực tiếp can
thiệp và chưa nắm thực quyền điều khiển Việt Nam.
Trong hai năm tiếp theo,
1963-1965, vì đảo chính và xáo trộn, cơ cấu quân sự và hành chánh
Việt Nam tê liệt, tạo điều kiện cho cọng sản ồ ạt xua quân tràn
xuống Miền Nam, khiến Hoa Kỳ phải đưa quân trực tiếp can thiệp vào
Việt Nam để tránh một cuộc sụp đổ hoàn toàn.
Trong thời gian
1963-1975, và sau 1975, để biện minh rằng chủ trương lật đổ chính
phủ Ngô Đình Diệm là đúng vì dưới sự lãnh đạo của Ông Ngô Đính Diệm
tình hình suy sụp, các giới Hoa kỳ và Việt Nam trách nhiệm về cuộc
đảo chính tháng 11, 1963 đã sửa đổi hồ sơ và thống kê để gây cảm
tưởng đó.Giáo sư Moyar đã khám phá ra sự sửa đổi dối trá này.
Giáo sư Moyar cũng căn
cứ trên tài liệu chính xác để xét lại vai trò của các giới trí thức
và chính trị cùng của nhóm Phật tử chính trị theo Thích Tri Quang
trong vụ biến sự thắng của Miền Nam thành bại.
Như các giáo sư bình
luận ghi nhận, Giáo sư Moyar đã xử dụng những văn kiện chính thức
nay đã được công khai hoá, và đặc biệt là những văn kiện của chính
cọng sản Việt Nam. Giáo sư Moyar đã ghi rõ và phân tách rất tỷ mỹ
những tài liệu đó cho nên khó phản bác những gì mà giáo sư đã trình
bày. Do đó tác phẩm Triumph Forsaken có một giá trị rất lớn,
không thể chối cải được.
Một cuộc xét lại tận gốc
Giáo sư Edmonds nói “đây
là một cuộc xét lại tận gốc chính sách Hoa kỳ ở Vietnam ... Căn cứ
trên tài liệu lấy từ văn khố và các lịch sử chiến tranh của cọng
sản, tác phẩm có tính cách rất thách thức này công kích tất cả mọi
khía cạnh của quan điểm mà Giáo sư gọi là quan điểm sử học “chính
thống” về chiến tranh. Đây là một tác phẩm mà các thư viện cấp đại
học đều phải có và các sử gia nghiên cứu về chiến tranh không thể
không biết đến”.
Theo Giáo sư Owens
“Triumph Forsaken một trong những quyển sách quan trọng nhất đã
được viết về Việt Nam”, và “không có bài điểm sách nào có thể nói
hết được giá trị của quyển sách vô cùng quan trọng này…Tất cả các sử
gia chính thống sẽ phải công nhận tầm lớn lao của công trình này…”
Giáo sư Moyar giải
thích rằng tác phẩm của ông ta “khác hẳn” quan điểm của Trường phái
chính thống. Những người trong trường phái này cho rằng những người
xét lại không phải là sử gia, mà chỉ làm vì ý thức hệ, và “dùng chế
diễu và tẩy chay đối với những người không chấp nhận ý thức hệ
đương khống chế”. Ông nói tác phẩm của ông chứa “nhiều lối suy luận
mới thách thức những suy luận chính thống đến nay chưa bị thách
thức”. Tác phẩm của ông phong phú hơn tất cả những tác phẩm hiện có,
đặc biệt là ở điểm nó dùng tài liệu bao quát hơn.
Về điểm vừa nêu ra, các
giáo sư điểm sách Triumph Forsaken đều công nhận và nhấn mạnh
rằng Giáo sư Moyar đã làm việc một cách rất đứng đắn. Giáo sư Moyar
“đã căn cứ một phần lớn trên văn kiện chính thức và lịch sử của Cọng
sản về chiến tranh”(Edmonds); Giáo sư Moyar đã “sưu tầm rất sâu rộng
và kỹ càng các tài liệu văn khố liên hệ và những tài liệu chính gốc
hiện có, như là những lịch sử của Bắc Việt về cuộc chiến”;
Triumph Forsaken đã được sưu khảo rất tỷ mỉ và táo bạo trong
việc suy diễn tài liệu” (Owens); Giáo sư Moyar đã “sưu tầm rất rộng
rãi và thận trọng tài liệu chính gốc mới xuất phát như lịch sử chiến
tranh do Bắc Việt công bố” (Lewy); Giáo sư Moyar đã xữ dụng những
tài liệu mới của các văn khố Hoa kỳ và cọng sản. Sách của ông là
“một sự thách thức rất mãnh liệt” đối với quan điểm chính thống, và
buộc các sử gia phải mở lại cuộc tranh luận về chiến tranh Việt Nam.
(Schwarz)
Điểm chính mà tất cả các
bình luận gia đều nhấn mạnh là Giáo sư Moyar đã dứt khoát bác bỏ
được các luận điểm của Trường phái chính thống đã khống chế việc
viết sử Việt Nam. Giáo sư Owens đã liệt kê những luận điệu đó là:
- Đông Nam Á nói chung,
và Miền Nam Việt Nam nói riêng, không thật sự cần thiết cho Hoa Kỳ
về phương diện chiến lược.
- Thuyết “domino” sai.
- Chính phủ Miền Nam
Việt Nam thối nát quá độ và không được dân chúng ủng hộ.
- Chính phủ Miền Nam
Việt Nam thối nát nhất là Chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính phủ
Công giáo này chỉ giỏi
trong việc đàn áp Phật giáo, và đang bị Cọng sản đánh bại.
- Hồ Chí Minh không phải
là Cọng sản thực mà chỉ là một người có tinh thần quốc gia.
- Từ chối một số giải
pháp quân sự là đúng vì tránh được can thiệp của Trung quốc.
- Việt Nam là một vũng
lầy, và Hoa Kỳ chắc chắn sẽ bị sa lầy và đánh bại.
Giáo sư Moyar đã gạt bỏ
tất cả các luận điệu trên đây, và biện bác rằng sự thất bại
của Hoa Kỳ không phải là
không thể tránh được, và Hoa Kỳ có rất nhiều cơ hội để giúp Miền Nam
Việt Nam tồn tại, nhưng đã không thực hiện được mục tiêu vì sai lầm
trong việc chọn chiến lược thích hợp. Và “sai lầm lớn nhất của
chúng ta là đã để cho xảy ra cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 đánh
đổ và sát hại Diệm; quyết định này đã làm cho ta mất đi những thắng
lợi lớn lao đã đạt được trong 9 năm trước đó và xô Việt Nam vào một
thời gian bất ổn và suy yếu dài”.Giáo sư đã trích một lời tuyên bố
của giới lãnh đạo cọng sản nói lên sự hài lòng của họ được người
Mỹ biếu cho họ một “món quà quý”: loại bỏ ông Diệm dùm họ. Họ nói:
“người Mỹ đã làm một việc mà trong 9 năm trời chúng tôi làm không
được, là: loại bỏ Diệm” (Moyar, tr.186)
Các giáo sư bình luận
cũng đồng ý với Giáo sư Moyar. Giáo sư Owens viết:
“Đóng góp lớn đầu
tiên của Giáo sư Moyar là làm sáng tỏ sự thật: quyết định bỏ rơi và
góp công vào việc giết ông Diệm là sai lầm tai hại nhất trong chiến
tranh…Theo Trường phái chính thống ông Diệm là một tên bạo chúa
không còn làm chủ tình hình trong nước được nữa, một người Công giáo
hà hiếp quần chúng mà đa số theo Phật giáo. Giáo sư Mayor cãi rằng
quan điểm này sai.Thật ra, ông Diệm là một lãnh đạo hữu hiệu. Ông đã
dẹp tan những tổ chức phạm pháp trước khi ông nắm quyền. Ông không
dân chủ. Nhưng đối với dân, ông chính thống vì ông xử dụng quyền
hành một cách hữu hiệu và bảo vệ được an ninh cho dân chúng khỏi bị
quân phiến loạn Cọng sản uy hiếp. Thật vậy, trong thời gian ông lãnh
đạo chính quyền Miền Nam Việt Nam,
lực lượng phiến loạn cọng sản có thể coi như đã bị đánh tan trước
1960.”
1962-63: Việt Nam ở thế
thắng
Giáo sư Owens nói rằng
quan điểm trên đây “rất khác” quan điểm của Trường phái chính thống,
nhưng “ông Moyar đã có những nhân chứng rất tốt: họ chính là những
người cọng sản”. Giáo sư Moyar đã trích diễn tài liệu cọng sản để
cho độc giả thấy rõ rằng “cọng sản đã đủ lương thiện để công nhận
rằng họ đã không thành công trước khi xảy ra cuộc đảo chính năm
1963, và chính phủ đã giết và bắt làm tù binh vô số cán bộ của họ,
đếm không xuể, khiến cho những kẻ còn sống sót phải bỏ hàng ngũ cọng
sản ”.
Giáo sư Lewy cũng ghi
nhận rằng “Dù cọng sản dùng đường mòn Hồ Chí Minh đưa rất nhiều quân
và khí giới qua Lào vào Nam, đến 1962, trong cuộc chiến chống cọng
sản, thế cờ đã lật ngược một cách ngoạn mục …[Nhưng] theo Ông Moyar
cuộc đảo chính lật đổ ông Diệm do Lodge chủ trương là một sự sai lầm
kinh khủng vì nó đưa đến một sự thất bại không đáng xảy ra”
Sự kiện trên đây là một
điều mà các ký giả, học giả và viên chức Mỹ chống Ông
Diệm, cùng nhhững người
Việt Nam đã nghe lời xúi dục của họ tham gia và chủ trương đảo
chính đã che đậy trong suốt mấy thập niên, và nay, nhờ sưu khảo của
Giáo sư, mới được đưa ra ánh sáng. Mà những điều Giáo sư Moyar đã
đưa ra không phản bác được vì Giáo sư nhấn mạnh rằng chính cọng sản
Bắc Việt đã thú nhận như thế trong tài liệu của họ. Giáo sư viết:
“Những tin tức xuất phát
từ phía cọng sản xác nhận rằng cho đến ngày đảo chính chính phủ Miền
Nam đang ở thế thắng, nhưng đã mất thế đó một cách nhanh
chóng sau đảo chính.
Tháng 4 năm 1964, trong phúc trình về tình hình tổng quát,
bộ chỉ huy Miền Nam của
họ nói rằng Việt Cọng đã phải tranh đấu khó khăn
trong năm 1962 và trong
10 tháng đầu năm 1963, nhưng sau ngày 1 tháng 11
năm 1963 họ đã chiếm
lại được những vùng mà họ đã bị suy yếu”
Giáo sư Moyar cho biết
rằng đoạn trên đây trích từ một tài liệu của Mặt Trận Giải Phóng về
tình hình chiến cuộc từ 1961 đến 1964. Để làm sáng tỏ thêm sự thực
với tài liệu của chính Cọng sản, Giáo sư Moyar đã trích dẫn chính
tài liệu của Đảng Cọng Sản công bố từ Hà Nội vào tháng 3, năm 1965,
lúc chính phủ Sài Gòn gần bị đánh bại. Tài liệu đó nhận định sự suy
sập tình hình trong thời gian 16 tháng từ ngày ông Diệm bị sát hại
như sau: “Cán cân lực lượng giữa Cách mạng Miền Nam và kẻ địch
biến chuyển rất nhanh có lợi cho ta…Phần lớn lực lượng quân sự và
bán quân sự của địch ở cấp xã và ấp chiến lược đã tan rã, và những
gì còn lại đang tiếp tục tan rã…80% ấp chiến lược…đã bị phá tan, và
phần lớn dân và đất ở vùng quê nay thuộc về vùng giải phóng của
chúng ta”.
Giáo sư Moyar nói rõ
rằng những nhận định trên đây trích từ các tài liệu chính thức của
chính Đảng Cọng Sản (Một số văn kiện của Đảng Về Chống Mỹ Cứu
Nước), của Đảng Ủy và Tư Lệnh Quân Khu V, của Lê Duẫn, của Hội
Đồng Biên Soạn Lich Sử Nam Trung Bộ Kháng Chiến (muốn có chi tiết,
đầy đủ, xin xem tác phẩm của Giáo sư Moyar, phần Trích Dẫn, tr, 469)
Dư luận quốc tế, không
những Hoa kỳ và Tây phương, mà ngay cả Việt Nam , bị ảnh hưởng nặng
của Trường phái chính thống, thường cho rằng Miền Nam Việt Nam đã bị
bại trong cuộc chiến 1954-1975. Sự nhập chiếm Sài-Gòn ngày 30-4-1975
đánh dấu sự kết thúc một chiến tranh mà Cọng sản đã toàn thắng.
Nhưng những tiết lộ của Giáo Sư Moyar nay cho thấy rõ rằng Miền Nam
đã bị dồn vào thế bại vì, sau khi lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm,
nhóm nắm chính quyền đã làm tan rã cơ cấu quân sự và hành chánh của
Miền Nam, tạo điều kiện cho Cọng sản dễ dàng lùa quân vào tràn vào
như vào như nơi không người. Tháng 3, 1965, Hoa Kỳ đã phải đưa quân
vào chận đứng làn sóng cọng sản thì Miền Nam đã rơi vào tay cọng
sản.
Sự can thiêp trực tiếp
của Hoa Kỳ có hai hậu quả. Một là sự kiện Hoa Kỳ can thiệp trực
tiếp chiến đấu và nắm thực quyền chỉ huy ở Miền Nam biến chiến tranh
thành một cuộc chiến tranh giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ. Nhưng Tổng Thống
Johnson lại tránh những quyết định quân sự khó khăn nhưng cần thiết
để thắng, và chỉ muốn coi chiến tranh như một cuộc dẹp loạn nội bộ
(counter-insugurgency) ở Miền Nam. Hai là nó lại tạo ra một tình
trạng tâm lý làm cho Hoa Kỳ không chiến thắng được vì thiếu chính
nghĩa trong một chiến tranh mà phe cọng sản có thể trình bày là một
cuộc chiến tranh giải phóng thực sự. Rốt cục, Hoa Kỳ cũng bị bại.
Như vậy là thực sự có ba
cuộc chiến tranh, hay là ba giai đoạn: từ 1954 đến tháng 11, 1963;
từ 1-11-1963 đến tháng 3, 1965; từ tháng 3, 1965 đến 30 tháng 4,
1975. Giai đoạn từ 1962 đến tháng 11 năm 1963 là giai đoạn Miền Nam
ở thế thắng, và nhờ đó , tồn tại thêm được một thời gian, nhưng suy
sụp nhanh chóng. Nếu Hoa Kỳ không can thiệp Miền Nam Việt Nam chắc
chắn đã mất ngay từ cuối năm 1965.
Ấp chiến lược: success
story
Giáo sư Moyar viết:
“Nhờ những thành quả tốt
mà ông Diệm thực hiện được trong những năm 1962 và 1963, Việt Cọng
không có khả năng đánh bại được chính phủ cho đến lúc mà ông Diệm bị
sát hại, và trong một thời gian khá dài sau đó. Nếu ông Diệm còn
sống, Việt Cọng có thể kéo dài chiến tranh nếu họ tiếp tục nhận được
quân mới xâm nhập từ Miền Bắc và duy trì được căn cứ ở Lào và Cao
Mên, nhưng rất khó tin rằng cuộc chiến sẽ đến một mức mà Hoa Kỳ phải
đưa hàng trăm ngàn quân để cứu Việt Nam khỏi bị đánh bại, như là
tình hình đòi hỏi lúc những kẻ thay thế ông cầm quyền. Thật vậy. Rất
có thể là Miền Nam Việt Nam tồn tại được sau tháng 11 năm 1963 mà
không cần gì đến sự trợ giúp của lục quân Hoa Kỳ. Những người kế vì
ông Diệm từ tháng 11 năm 1963 đến lúc Hoa Kỳ can thiệp đã kém xa ông
Diệm về hữu hiệu, và sự thua kém này đã khiến Hà Nội trút bỏ thái độ
rất dè dặt của họ trong việc đưa quân vào Miền Nam. Nếu Quân đội Bắc
Việt xâm lăng Miền Nam sau 1963 mà ông Diệm còn cầm quyền, Miền Nam
rất có thể ngăn chận cuộc tấn công đó với sự trợ giúp của không lực
Hoa Kỳ mà không cần lục quân Hoa Kỳ như năm 1972.” (Moyar, tr. 287)
Sự sưu khảo của Giáo sư
Moyar đưa ông đến kết luận rằng một yếu tố lớn trong sự thành công
của chính phủ Diệm trong sự đánh bại cọng sản là Ấp chiến lược. Giáo
sư Moyar đã nói rất nhiều về khía cạnh này, vì trọng tâm tác phẩm
của ông là vấn đề quân sự. Nhưng vì trong giới hạn bài này không
thể đi vào chi tiết, ở đây chỉ nói qua về mục này thôi. Độc giả, đặc
biệt là độc giả quân nhân, nên đọc hai chuơng 9 và 10 nói về mục
này, vì khác với những luận điệu của Trường phái chính thống, trong
thời Đệ Nhứt Cọng Hoà binh sĩ Miền Nam đã lập được những chiến công
rạng rỡ, nhưng những tin tức tốt này bị những kẻ ghét ông Diệm ém
nhẹm trong thời gian ông Diệm còn sống, và bị sửa đổi đi sau vụ đảo
chính 1963, và sau 1975 thì tất nhiên họ nói voi nói vượn gì về Miền
Nam Việt Nam cũng được.
Bài này chỉ trích đoạn
quan trọng nhất về vấn đề này của Giáo sư Moyar về Ấp chiến lược,
đặc biệt là vì trong nửa thế kỷ nay, hầu hết mọi người, trong đó có
rất nhiều người Việt, đã được nghe không những Trường phái chính
thống, mà ngay cả những tướng cầm đầu vụ đảo chính lật đổ ông Diệm
lớn tiếng tố chương trình Ấp chiến lược là một thất bại nặng. Giáo
sư Moyar viết:
“Những quan sát viên Hoa
kỳ đã đi thăm Ấp chiến lược trong mỗi tỉnh của
Việt Nam trong bán niên đầu của năm 1963 nhận thấy rằng chính quyền
sở
tại đã được cãi thiện
một cách ngoạn mục (dramatic) vượt cả mức ấn định, trong khi lực
lượng dân quân đã tỏ ra có quyết tâm và tài năng đẩy lui Việt Cọng.
Những quan sát viên cũng nhận thấy rằng dân chúng thôn quê và chính
quyền địa phương tin tưởng chính phủ mạnh hơn và tinh thần họ cao
hơn. Tháng 5, năm 1963, Đại tá Ted Serong, môt chuyên gia về đánh
du kích làm trưởng phái bộ huấn luyện Úc ở Nam Việt Nam đã nói với
nhân viên cao cấp Hoa kỳ ở Washington rằng “chuyện thành công
(success story) lớn lao nhất trong chiến tranh Việt Nam là chuyện
chương trình Ấp chiến lược, và chuyện này chưa được nói đến đúng
mức của nó”. Sir Robert Thompson, [chuyên viên về du kích đã đáng
bại phiến loạn cọng sản Mã Lai], một người đã tỏ ra bi quan trong
năm 1961 và đầu năm1962 như nhiều nhà quan sát khác, nay đã tỏ ra
lạc quan và tuyên bố rằng “phải công nhận rằng chính quyền Việt Nam
đã tỏ ra có nghị lực khác thường”. Ông nghĩ rằng chính phủ đang
thắng và từ đây đến giữa 1964 họ có khả năng ngăn chận không cho
Việt Cọng tiếp xúc với dân chúng nữa ở Đồng bằng Sông Cửu Long”.
(Moyar, tr.107)
Ở đây câu hỏi đương
nhiên phải đặt ra ngay là: “tại sao một dử kiện quan trọng mức đó mà
dư luận, và đặc biệt nguời Việt Nam, không được biết đến?” Và giải
đáp là: vì các dữ kiện đó đã bị chính quyền Hoa kỳ lẫn chính quyền
Việt Nam và các giới báo chí và đại học chính thống xuyên tạc. Giào
sư Moyar đã giải thích sự xuyên tạc đó như sau:
“Điểm chót đáng ghi là
những người thay thế ông Diệm quả quyết rằng họ phải làm cuộc
đảo chính lật ông Diệm
tháng 11 vì tình hình suy sụp lớn bắt buộc họ phải làm như thế;
nhưng tất cả những bằng chứng về sự suy sụp tình hình này đều do họ
cung cấp…họ đã trở cờ chống ông Diệm vì họ muốn làm vừa lòng người
Mỹ, và sau cuộc đảo chính họ phải tìm đủ mọi cách để khỏi mất thể
diện đối với người Mỹ và với đồng hương của họ. Cũng như Halberstam
và những người Mỹ đề xướng đảo chính, những người chủ mới của Việt
Nam biện bác rằng tình hình suy sụp thê thảm vào cuối tháng 11 không
khác gì tình hình trước đó. Điều này không đúng với sự thật. Nhưng
họ phải biện bác như vậy để tránh tiếng là họ đã gây ra vấn đề mới.
Một nhận định Mỹ về Ấp chiến lược vào đầu tháng 11 ghi rằng vì “lý
do chính trị hoặc cá nhân” chính phủ Minh đã thay thế các thống kê
nguyên thủy của thời gian trước đảo chính bằng những thống kê mới,
tệ hơn, để “hạ uy tín của chế độ cũ” và tạo ra “một căn bản mới có
lợi cho chính phủ mới”. Sự mô tả lừa dối của những kẻ đảo chính, Mỹ
cũng như Việt, về tình hình trước đảo chính sẽ ảnh hưởng nặng đến
các phân tách về chế độ ông Diệm rất lâu sau này” (Moyar, tr.285)
Các ký giả Hoa Kỳ láo
khoét
Riêng Về những ký giả đả
đóng một vai trò then chốt trong vụ đảo chính ông Diệm bằng cách lừa
phỉnh dư luận Hoa kỳ, Halberstam, Sheehan, Karnow Giáo sư Moyar
viết:
“Một khi cuộc đảo chính
mà họ cổ võ đưa đến một loạt chính phủ bất lực và làm cho
họ mang tiếng là đã
làm cho Việt Nam bị tê liệt, Halberstam, Sheehan, và Stanley
Karnow phải nói xấu ông
Diệm để làm cho dư luận nghĩ rằng trước cuộc đảo chính Việt
Nam đã suy yếu đến mức
vô tuyệt vọng cứu chữa gì được nữa. (Moyar, tr..xvii)
Giáo sư Moyar nói
Halberstam and Sheehan, hai ký giả đã đóng một vai trò then chốt
trong sự làm cho dư luận Hoa Kỳ và Việt Nam chống ông Diệm, đã đưa
tin tức “trắng trợn không đúng” về vụ Phật giáo và tình hình chính
trị Việt Nam, mà một phần lớn do những tên mật vận cọng sản Phạm
Xuân Ấn và Phạm Ngọc Thảo cung cấp cho họ…Họ “thường thổi phồng
những khuyết điểm của chính phủ Việt Nam”, cung cấp tin tức “lừa
dối”, “không lương thiện”, “láo khoét”, “bôi lọ ông Diệm “ để tạo
cảm tưởng là trước đảo chính tình hình Việt Nam đã lâm vào thề tuyệt
vọng rồi”. Họ đã căn cứ vào những tin “rất lệch lạc” của [cố vấn Mỹ
John Paul] Vann cung cấp để mô tả trận Ấp Bắc, làm cho độc giả cho
đó là báo cáo được chấp nhận về trận này”. Nhưng sự thật không phải
vậy. Giáo sư đã dành hai chương để nói về vấn đề nà y. (Về
chi tiết, xin xem: Moyar, tr. xvi-xvii và hai chương 9 và 10)
Về vụ Phật giáo Giáo
sư Moyar viết: “Những người chỉ trích ông Diệm cho rằng phong trào
Phât giáo phản đối 1963 xuất phát từ sự bất mãn của dân chúng vì
chính sách không khoan dung về tôn giáo của chính phủ, nhưng đó là
một quan điểm sai lầm”. (Moyar, tr. xvi) Vấn đề này đã được bàn
nhiều ở các nơi khác nên không cần nói đến nhiều ở đây. Nó chỉ được
nêu lên để cho thấy quan điểm của Giáo sư là một quan điểm hoàn toàn
ngược với quan điểm chính thống đả khống chế dư luận rất lâu. Trong
chiều hướng này, tưởng cũng nên đề cập đến quan điểm xét lại mà Giáo
sư Moyar đưa ra về thái độ của giới có uy thế (elite) trong xã hội
Việt Nam : ông là một trong những học giả hiếm có hiểu rõ rằng muốn
viết về Việt Nam một cách chính xác cần phải chú trọng những yếu tố
văn hoá và tâm lý chi phối hành vi của người Việt.
Nói về nhận định sai
lầm về Việt Nam của ký giả Hoa Kỳ đã ảnh huởng thế nào về thái độ
chống đối của giới có uy thế trong xã hội Việt Nam đối với ông Diệm
, Giáo sư Moyar viết:
“Vì họ không biết gì về
khác biệt văn hoá giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, họ đã chỉ trích ông Diệm
không chịu làm như chính phủ Hoa Kỳ. Thật ra, trong việc giải quyết
các vấn đề Việt Nam, phương pháp chính trị mà ông Diệm áp dụng hữu
hiệu hơn phương pháp của Hoa Kỳ rất nhiều.Giới có uy thế trong xã
hội Việt Nam thường đọc những bài dịch từ báo Hoa Kỳ cho rằng báo
New York Times và các báo Hoa Kỳ khác là phát ngôn viên của
chính phủ Hoa Kỳ. Kết quả là những bài báo nói không tốt về chính
phủ ông Diệm làm cho người Việt Nam mất tin tưởng vào chính phủ và
khuyến khích những kẻ muốn lật đổ chính phủ”. (Moyar, tr. xvi)
Kết luận
Giáo sư Owens đặt câu
hỏi: “Tại sao ông Diệm lại bị bôi xấu như ta đã thấy?” Nếu ta nới
rộng vấn đề để bao gồm toàn Việt Nam chớ không riêng gì Ông Diệm,
câu hỏi trở thành:”Tại sao những kẻ thuộc Trường phái chính thống đã
xuyên tạc, ém nhẹm, bóp méo sự thật, về Việt Nam, như Giáo sư Moyar
đã làm sáng tỏ?”
Giáo sư Moyar đã giúp
chúng ta thấy được một số khía cạnh của vấn đề mà trưóc kia ta không
hề biết vì không hề nghe nói đến, hay chỉ được đọc, nghe những tường
thuật lệch lạc, xuyên tạc, và từ đó, đã có những ý kiến, quan điểm
rất lầm, khiến ta lấy những quyết định tai hại cho Việt Nam tự do và
cho ngay bản thân chúng ta -- tố cáo, chống đối, vu khống, phá hoại,
lật đỗ nhau, gây phân hoá và hỗn loạn -- làm cho cơ cấu quốc gia
tan rã, tạo điều kiện cho cọng sản tung hoành, biến thắng thành bại.
Tác phẩm của Giáo sư
Moyar, dài hơn 500 trang, rất phong phú, giúp cho những ai cần
tranh luận với những người có quan điểm chính thống những chi tiết,
dữ kiện, lối lập luận thích hợp không để cho những người này áp đảo
mình và áp che lấp chính nghĩa như trước nữa. Ai không có thì giờ
nhiều, và không cần đi sâu vào vấn đề chỉ cần đọc chương dẫn nhập
(Preface). Chương này tương đối ngắn, chỉ có lối 20 trang, nhưng đã
tóm lại nội dung của sách một cách rất gọn gàng.
Tác phẩm của Giáo sư
Moyar là một bài học nhắc nhủ người Việt chúng ta phải dè dặt, thận
trọng, cân nhắc, phân tách và kiểm chứng kỹ càng, khi chúng ta nghe
hay đọc những tin tức do viên chức và báo chí ngoại quốc cung cấp,
để tránh bị dùng làm công cụ cho những âm mưu, kế hoạch nhằm thực
hiện những mục tiêu -- quyền lợi, thương ghét -- riêng của những
người này, trong khi xứ sở, và ngay bản thân chúng ta phải gánh lấy
những thiệt hại nặng nề.
Cuối cùng, tác phẩm của
Giáo sư Moyar nhắc nhở chúng ta rằng xét lại lịch sử, và tất cả mọi
sự, một cách khách quan, vô tư, khoa học, không nhân nhượng là một
điều rất cần để biết rõ sự thật và thực tại, vì chỉ có biết tường
tận những chi tiết về một vấn đề, chúng ta mới có thể giải quyết được
vấn đề đó một cách êm đẹp, vẹn toàn và dứt khoát.
Ottawa, tháng 2,
2007
[1] Mark Moyar,
Triumph Forsaken, the Vietnam War 1954-1965, Cambridge
University Press, 2006.
[2] A.O.Edmonds,
“Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965”, Library
Journal Reviews, September 1, 2006.
Mackubin Thomas Owens, “A Winnable
War, The argument against the orthodox history of Vietnam”,
Weekly Standard, Volume 012, Issue 17, 01/15/2007.
Guenter Lewy, “The War That Could Have
Been Won”, The new York Sun, November 24, 2006.
Thomas Alan Schwarz: trích ở bìa giói
thiêu sách Triuph Forsaken, ấn bản 2006.
Lịch sử Việt Nam những năm 1954-1965 được xét lại
Quan điểm “chính thống” về CHVN-I bị bác bỏ
Nhân đọc:
Triumph Forsaken: The Vietnam War,
1954-1965
Giáo sư Mark Moyar; Cambridge University
Press; 2006; 512 trang
Gs Tôn
Thất Thiện