22:48' 16/12/2011
Trước kia, bọn thực dân
gây chiến cùng những kẻ bồi bút cho chủ nghĩa thực dân cố tình xuyên
tạc sự thật, đổ trách nhiệm cho phía Việt Nam là “bội ước tấn công
trước”.
Ngày nay, mấy kẻ phản
động người Việt ở nước ngòai mạo danh “vì quốc gia, dân tộc” cũng lớn
tiếng vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam theo đường lối “tả khuynh” của Quốc
tế Cộng sản và của những người lãnh đạo các nước cộng sản lớn, đưa đất
nước vào cuộc chiến 30 năm (cả chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ),
khiến cho đất nước lụn bại, hàng triệu người chết (cả hai phía), dân tộc
phân ly…(!)
Lịch sử với sự thật vốn có, luôn phán xử công minh.
Sau thắng lợi cuộc Cách
mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đảng ta và nhân
dân ta chỉ mong muốn có cuộc sống hòa bình để xây dựng đất nước, chăm lo
đời sống. Nhưng hòan cảnh nước ta lúc đó lại vô cùng phức tạp, gần 30
vạn quân của nhiều nước đế quốc, dưới danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ
khí quân phát xít Nhật, rải ra chiếm đóng các thành phố, thị xã, kể cả
Thủ đô Hà Nội, các đường giao thông huyết mạch, các vị trí trọng yếu về
chính trị, quân sự, kinh tế ở hầu khắp nước ta. Bọn đế quốc có ý đồ và
hành động khác nhau, nhưng đều chung một dã tâm lật đổ chính quyền Việt
Nam độc lập, đưa dân tộc ta trở lại cuộc sống nô lệ.
Trong các nước đế quốc
thì thực dân Pháp có lực lượng và điều kiện hơn cả, quyết tâm xâm lược
lại nước ta, đặt lại nền cai trị trên “đóa hoa đẹp nhất” trong vườn hoa
thuộc địa của Pháp trước đây.
Ngày 2 - 9 - 1945, giữa
lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh chào mừng ngày Độc lập thì một số tên
lính Pháp còn ẩn náu trong Thành phố, đã xả đạn vào đồng bào ta, làm
hàng chục người chết và bị thương. Hai mươi ngày sau, 0 giờ ngày 23 - 9,
được quân Anh và quân Nhật hỗ trợ, quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, bắt đầu
cuộc chiến tranh xâm lược lại nước ta. Quân và dân Nam Bộ được cả nước
chi viện, đã chặn đánh quyết liệt, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại và
làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.
Lúc này, nhân dân cả
nước sôi sục căm thù quân xâm lược và hăm hở chuẩn bị sẵn sàng đánh trả
quân Pháp nếu chúng mở rộng chiến tranh. Với trọng trách trước vận mệnh
đất nước, trước sự sống còn của cách mạng, Đảng phải sáng suốt, cân nhắc
lợi, hại để lãnh đạo tòan dân vượt qua khó khăn, thử thách, đưa cách
mạng tiến lên. Trong Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ:
“Vấn đề lúc này không
phải là muốn đánh hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người,
nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước và
ngòai nước mà chủ trương cho đúng”[1].
Vào lúc này, tình thế
đất nước vô cùng hiểm nghèo. Chính quyền Tưởng Giới Thạch theo lệnh Mỹ,
đã ký kết thỏa thuận cho quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân
Trung Hoa (lúc này thường gọi là quân Tưởng). Như thế, quân Pháp đương
nhiên sẽ đổ bộ vào miền Bắc nước ta. Nếu ta đánh quân Pháp, chúng sẽ vu
cáo ta chống lại Đồng minh. Quân Tưởng sẽ có cớ để dùng vũ lực lật đổ
chính quyền ta, lập chính quyền tay sai, cài cắm lực lượng phục vụ cho
âm mưu bành trướng sau này và gây sức ép buộc Pháp phải nhân nhượng thêm
quyền lợi. Quân Pháp sẽ trắng trợn tiến đánh quân ta. Về phía ta, chính
quyền còn non trẻ, mặt trận dân tộc thống nhất chưa được củng cố, lực
lượng vũ trang còn ít ỏi và non yếu về nhiều mặt. Sức ta chưa thể cùng
lúc dùng lực lượng vũ trang đánh lại cả hai kẻ thù.
Đảng ta, đứng đầu là
lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn với thực dân Pháp để sớm đuổi
quân Tưởng về nước, loại bỏ một kẻ thù nguy hiểm; đồng thời tranh thủ
khả năng giải quyết quan hệ với kẻ thù chính là thực dân Pháp bằng con
đường hòa bình, chí ít cũng làm cho cuộc chiến tranh chậm nổ ra, giành
được thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lâu dài. Trong tình thế so
sánh lực lượng bất lợi và để đạt được hòa hoãn, ta phải mềm dẻo nhân
nhượng, chấp nhận phải đi đường vòng, đi từng bước một, nhưng bảo đảm
chắc chắn tới đích cuối cùng.
Về phía Pháp, vào đầu
năm 1946, nước Pháp đang còn khó khăn bề bộn do hậu quả chiến tranh thế
giới; lực lượng quân viễn chinh ở Việt Nam chưa đủ khả năng mở rộng
chiến tranh ra cả nước. Nhiều người trong chính giới Pháp, kể cả Tổng
Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Lơcléc và Ủy viên Cộng hòa Pháp ở
Đông Dương Xanhtơny cũng đề xuất dùng biện pháp đàm phán hòa bình để
từng bước thôn tính Việt Nam - điều mà biện pháp vũ lực không thể đạt
được.
Đó là bối cảnh lịch sử dẫn đến những cuộc hòa đàm Việt - Pháp.
Ngày 6 - 3 - 1946, Hiệp định sơ bộ
được ký kết tại Hà Nội giữa đại diện Chính phủ Việt Nam và đại diện
Chính phủ Pháp. Những Điều khỏan chính của Hiệp định gồm: Chính phủ Pháp
công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có
chính phủ riêng, tài chính riêng và là một thành viên trong Liên bang
Đông Dương và trong Khối Liên hiệp Pháp; việc thống nhất Nam Kỳ vào nước
Việt Nam sẽ được quyết định thông qua một cuộc trưng cầu ý dân. Chính
phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện đón quân đội Pháp vào thay thế
quân đội Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Số quân Pháp giới hạn là 15.000
người và sẽ rút hết trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.
Hiệp định sơ bộ ghi
nhận sự nhân nhượng của hai bên. Mục tiêu trước sau như một của tòan
Đảng, tòan dân ta là độc lập, thống nhất hòan tòan, nhưng hòan cảnh cụ
thể chưa cho phép ta đạt ngay tới mục tiêu đó. Chúng ta phải chấp nhận
một nền độc lập hạn chế và một nền thống nhất có điều kiện. Trong tình
thế đất nước như “ngàn cân treo trên sợi tóc”, sự mất, còn của vận mệnh
dân tộc chỉ là một khỏang cách mong manh, hòa thì còn mà đánh thì rất có
thể mất, thực hiện sách lược hòa hoãn ngay với kẻ thù xâm lược là một
quyết sách cần thiết, đúng đắn và mưu lược.
Tiếp sau Hiệp định sơ bộ, cuộc đàm phán chính thức diễn ra qua Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị Phôngtennơblô. Tại các cuộc đàm phán, lập trường chính nghĩa mềm dẻo của ta là độc lập, thống nhất quốc gia và hợp tác với Pháp trên cơ sở bình đẳng.
Trái lại, lập trường của Pháp hết sức ngoan cố phản động. Giới cầm
quyền nước Pháp, đại diện quyền lợi tầng lớp tư bản phản động vẫn đòi Việt Nam phải nằm trong vòng cai trị của Pháp, vẫn tách Nam Bộ khỏi nước Việt Nam thống nhất.
Lập trường thực dân của Pháp dẫn đến cuộc thương thuyết chính thức tan
vỡ. Cánh cửa hòa bình như đã đóng chặt, quan hệ hai nước rất căng thẳng.
Cuộc chiến tranh trên cả nước Việt Nam có thể xảy ra một sớm một chiều.
Để cứu vãn tình thế,
Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm tiếp tục vận động cho một giải pháp hòa
bình, dù là tạm thời và mong manh. Ngày 14 - 9 - 1946, đại diện cho
Chính phủ Việt Nam, Người đã ký với Mutê - đại diện Chính phủ Pháp - bản
Tạm ước thỏa thuận hai bên đình chỉ xung đột về quân sự, ghi
nhận cuộc thương thuyết vẫn còn được tiếp tục. Trong cuộc họp báo ở Pari
giải thích việc ký Tạm ước 14 - 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bản Tạm
ước này đối với tôi có phải đã thỏa mãn không? Có và không. Được rất ít
nhưng có còn hơn không. Ký Tạm ước này, chúng tôi muốn tỏ cho nhân dân
Pháp biết chúng tôi mong muốn một tinh thần rộng mở trong sự hòa giải”[2].
Trong những hòan cảnh
cụ thể, thực dân Pháp phải ký nhận sự hòa hoãn để đạt được một số mục
tiêu mà chúng không thể đạt được bằng tiến công quân sự như đưa được một
số quân ra miền Bắc Việt Nam, nhưng âm mưu trước sau như một của chúng
là dùng vũ lực xâm lược lại đất nước ta. Cho nên, quân Pháp luôn vi phạm
các điều khỏan đã ký kết, thường xuyên gây sự, xâm phạm chủ quyền nước
ta.
Diễn biến chính trị
nước Pháp ngày càng phức tạp, bọn thực dân hiếu chiến ra sức phản đối
hòa hoãn, các chính phủ thay nhau lên nắm quyền ngày càng thiên hữu.
Cuối năm 1946, sau khi quân đội Trung Hoa đã rút về nước và quân viễn
chinh Pháp đã được tăng cường đáng kể, thực dân Pháp quyết phát động
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Giữa tháng 11 - 1946,
quân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng, tiếp đó đánh chiếm nhiều công
sở và tàn sát dã man đồng bào ta ở Lạng Sơn. Tướng Moóclie - Tổng Chỉ
huy quân đội Pháp ở miền Bắc Đông Dương - đã nhận định rằng với các hành
động đó, Hiệp định sơ bộ và Tạm ước đã tan vỡ hòan tòan, chắc chắn
chiến cuộc sẽ lan rộng khắp Bắc Kỳ, và như thế chứng tỏ nước Pháp đã
chọn chính sách dùng vũ lực.
Chính phủ ta cố gắng
dàn xếp để chấm dứt cuộc xung đột, nhưng quân Pháp càng ngang ngược, yêu
sách những điều xâm hại đến độc lập chủ quyền của nước ta. Trước tình
hình nghiêm trọng này, Đảng ta khẳng định:
“Sự thật đã chứng minh
rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta
phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14 tháng 9 là một
bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của
nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”[3].
Ngày 17 - 12 - 1946,
quân Pháp bắn vào trụ sở tự vệ ta và thảm sát dã man đồng bào ta ở Hà
Nội. Ngày 18 - 12, quân Pháp đánh chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông
công chính. Chúng ta vẫn kiềm chế, cử người đến gặp chỉ huy quân Pháp
nhằm ngăn chặn hành động chiến tranh của chúng. Chính Xanhtơny trong bức
điện từ Hà Nội gửi về Sài Gòn cũng phải thừa nhận:
“Dẫu sao, cái quyết tâm
(của Chính phủ Việt Nam - VNK) không phát động một cuộc đổ vỡ hòan tòan
vẫn được ghi nhận cho tới hôm nay”[4].
Trong ngày 18 - 12, Pháp chuyển cho Chính phủ ta hai bức thư đòi ta phá
hủy những chướng ngại trên đường phố để quân Pháp tự do đi lại, đòi để
cho quân Pháp đảm nhiệm việc trị an thành phố Hà Nội, đòi để cho quân
Pháp chiếm đóng nhiều vị trí quan trọng trong thành phố... Những điều
trên chúng ra điều kiện phải thực hiện trong ngày 19 - 12. Thực sự, đây
là tối hậu thư đòi ta hạ vũ khí đầu hàng. Thực dân Pháp đã có kế hoạch
đánh úp các cơ quan Chính phủ và quân chủ lực ta ở Thủ đô Hà nội vào
ngày 20 - 12 - 1946.
Ngay ngày 18 - 12, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, tỉnh Hà Đông (nay là
phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) dưới sự chủ tọa của
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định khả năng hòa hoãn đã hết và
quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến. 9 giờ 30 phút đêm 19 - 12 -
1946, Thủ đô Hà Nội nổ súng, mở đầu cuộc Toàn quốc kháng chiến.
Ngay trong đêm 19 - 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tòan quốc kháng chiến[5]. Mở đầu Lời kêu gọi, Người nêu rõ thiện chí hòa bình của ta và dã tâm cướp nước ta của thực dân Pháp: “Chúng tamuốn
hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Người khẳng định ý chí sắt đá của tòan Đảng, tòan quân, tòan dân ta: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Sự thật lịch sử, nhất
là những sự kiện diễn ra trong quan hệ Pháp - Việt từ 23 - 9 - 1945 đến
19 - 12 - 1946 đã bác bỏ hòan tòan luận điệu xuyên tạc, “gắp lửa bỏ tay
người” của bọn thực dân và những kẻ bồi bút tay sai chúng. Lịch sử cũng
minh chứng rõ ràng nguyên nhân của cuộc chiến tranh Pháp - Việt
(1945 - 1954) là do thực dân Pháp cố tình gây chiến, định dùng sức mạnh
quân sự cướp nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam buộc phải cầm vũ khí
chiến đấu để bảo vệ quyền độc lập, thống nhất thiêng liêng của dân tộc,
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người.
Những ai hiểu biết về
cuộc chiến tranh, những người có lương tri trên thế giới, đều đứng về
phía Việt Nam. Nhà sử học Pháp Philíp Đờvile đã nhận định có lý rằng:
“Trong khi máy bay, xe tăng và binh lính Pháp ùn ùn kéo đến Việt Nam để
chuẩn bị xâm lược, thì chỉ có một dân tộc cam chịu để mình bị cắt cổ,
chỉ có một dân tộc ươn hèn, thực sự phản bội dân tộc mình mới không
chuẩn bị gì, không hành động gì để chống lại”[6].
Sau này Tổng thống Pháp Ph. Mittơrăng, trong dịp sang thăm chính thức
Việt Nam tháng 2 - 1993, đã trả lời các nhà báo rằng: “Ông Hồ Chí Minh
đã tìm kiếm những người đối thoại, nhưng không tìm được. Dù rất mong
muốn đàm phán để hướng tới độc lập, ông Hồ Chí Minh bị đẩy vào cuộc
chiến tranh”[7].
Đáp lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta nhất tề đứng lên chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!”.
Trải qua 9 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp, kẻ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược phải
ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập, chủ quyền, tòan vẹn lãnh thổ
của nước Việt Nam. Đội quân nhà nghề hùng mạnh của nước Pháp đã bại
trận, phải cuốn cờ rút về nước.
Diễn biến và kết cục cuộc chiến tranh Pháp - Việt (1945 - 1954) để lại bài học tổng quát chung: Bọn
xâm lược cuồng chiến dù có lực lượng hùng mạnh cũng không thể đè bẹp
được một dân tộc dù là nhỏ yếu, dám đứng lên chiến đấu vì mục tiêu chính
nghĩa bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia và có đường lối đúng đắn,
có sức mạnh đòan kết tòan dân.
Ngày nay, Tổ quốc ta đã
độc lập, thống nhất hoàn toàn, đang hòa bình xây dựng đất nước, nhưng
chúng ta vẫn đang đứng trước sự đe dọa từ âm mưu xâm lược, can thiệp của
các thế lực bên ngoài. Dân tộc ta với truyền thống chống ngoại xâm
oanh liệt, với thế và lực mới, chắc chắn trong bất cứ tình huống nào
cũng có đủ tinh thần và lực lượng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược dù
chúng lớn mạnh đến đâu và từ đâu tới./.
[1] . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng 1945 - 1954, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, H. 1978, t 1, tr 39
[2] . Nguyễn Thành: Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp, Tạp chí Thông tin lý luận, H. 1988, tr 204
[3] . Báo Sự thật ngày 29 - 11 - 1946
[4] . Ph. Đờvile: Pari - Sài Gòn -Hà Nội, Pari, 1988, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr 129
[5] . Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, t 4, tr 480 - 481
[6] . Philíp Đờvile: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Tạp chí Quốc tế, Pari, tháng 2 – 1949, tr 37, 38
[7] . Tạp chí Xưa và nay, số 2, tháng 5 - 1994, tr 9