Chuyển trọng tâm
Chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình
Dương hay còn gọi là Chiến lược tái can dự vào Đông Á của Mỹ được công
bố lần đầu tiên vào năm 2009. Mặc dù Mỹ chưa bao giờ tách ra khỏi khu
vực này nhưng do trong thập kỷ qua, trọng tâm đối ngoại của Washington
chủ yếu tập trung vào vùng Trung Đông và Nam Á, cùng với những ảnh hưởng
ngày càng mạnh mẽ và có phần lấn lướt của Trung Quốc trong khu vực,
điều này khiến không ít người cho rằng các mối quan tâm của Mỹ ở Đông Á
đang suy giảm. Tuy nhiên, tình hình đã đổi khác. Trong một bài xã luận
đăng trên tạp chí Foreign Policy tháng 11/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton nhấn mạnh: "Khi cuộc chiến tranh ở Iraq lắng xuống và Hoa Kỳ bắt
đầu rút các lực lượng của mình khỏi Afghanistan, thì nước Mỹ đứng ở một
thời điểm then chốt. Trong 10 năm qua, chúng ta đã dành các nguồn tài
lực lớn cho hai chiến trường đó. Trong 10 năm tới, chúng ta cần khôn
ngoan và có phương pháp về việc chúng ta đầu tư thời gian và năng lực
vào đâu… Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nghệ thuật quản lý
nhà nước của Mỹ trong thập kỷ tới vì thế sẽ gắn chặt vào sự đầu tư gia
tăng đáng kể - về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lĩnh vực khác -
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương." Tại Hội nghị APEC 19 ở Hawaii vừa
qua, Tổng thống Obama bổ sung thêm khi phát biểu: “Không có khu vực nào
trên thế giới mà chúng tôi cho là quan trọng hơn khu vực châu Á - Thái
Bình Dương”. Như vậy, rõ ràng việc chuyển trọng tâm quan hệ đối ngoại về
châu Á đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Chính quyền Obama hiện nay.
Chìa khóa hợp tác đa phương
Có thể lý giải cho động thái đáng chú ý trên bằng một số lý do như sau:
Thứ nhất, Tầm quan trọng về mặt kinh
tế - thương mại của khu vực này khiến tất cả các quốc gia trên thế giới
không thể xem thường, kể cả Mỹ. Thời gian qua, trong khi nền kinh tế các
nước Âu - Mỹ lao đao thì khu vực này vẫn giữ được mức tăng trưởng khá.
Theo thống kê, 21 nền kinh tế thành viên của diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) chiếm đến 55% tổng sản phẩm quốc nội của
thế giới, 43% thương mại toàn cầu và 58% tổng sản lượng hàng xuất khẩu
của Mỹ. Ông Ben Rhodes, Phụ tá Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ, từng phát
biểu: "Lượng xuất khẩu của Mỹ đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương là
một yếu tố hết sức quan trọng trong kế hoạch tăng gấp đôi lượng hàng hóa
xuất khẩu của Hoa Kỳ trong vài năm tới của ông Obama… Trên thực tế, gần
như tất cả các nỗ lực mà chúng ta dự định tiến hành liên quan đến mục
tiêu tăng cường lượng xuất khẩu đều liên quan đến khu vực này của thế
giới…". Do vậy, việc chuyển trọng tâm đối ngoại sang châu Á có thể coi
là một nỗ lực của chính quyền Washington nhằm thúc đẩy kinh tế Mỹ phát
triển, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giúp đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế cũng như xoa dịu nỗi bất bình trong dân
chúng.
Thứ hai, theo kế hoạch, cuối năm nay,
Mỹ sẽ rút gần như toàn bộ quân khỏi Iraq, còn tại Afghanistan, đến cuối
năm 2012, Mỹ và NATO sẽ rút tổng cộng 40.000 quân. Hai chiến trường
chính đã tạm ổn định cũng có nghĩa là Mỹ sẽ giảm bớt được sự căng trải
lực lượng trên toàn cầu và tập trung quân lực vào những vùng trọng điểm
mới. Thời gian qua, Mỹ đã liên tục củng cố mối quan hệ với các nước đồng
minh truyền thống trong khu vực, duy trì đều đặn các buổi tập trận
chung với các nước như Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia,
Singapore và Thái Lan; tăng cường trao đổi quân sự với các quốc gia khác
như Việt Nam, Indonesia… Tại chuyến công du Australia vừa qua, ông
Obama nhấn mạnh sẽ đảm bảo duy trì hiện diện quân sự của Mỹ tại Châu Á -
Thái Bình Dương ngay cả khi Mỹ cắt giảm ngân sách quân sự. Phát biểu
trước phiên họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội Liên bang Australia
ngày 17/11, Obama cho biết ông đã chỉ đạo bộ phận an ninh quốc gia Hoa
Kỳ để đảm bảo rằng "sự hiện diện và nhiệm vụ của chúng tôi (Mỹ) tại Châu
Á - Thái Bình Dương được đặt lên ví trí hàng đầu" và "việc Hoa Kỳ cắt
giảm ngân sách quân sự sẽ không ảnh hưởng tới những chi phí tại Châu
Á-Thái Bình Dương".
Thứ ba, trong những năm 1980 và đầu
những năm 1990, Washington cho rằng Chủ nghĩa đa phương ở châu Á sẽ chỉ
gây phương hại cho lợi ích của người Mỹ và đe dọa phá hoại hệ thống liên
minh "bánh xe và nan hoa" của họ. Mãi đến khi Chính quyền Bill Clinton
quyết định tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), thái độ thù địch đối
với Chủ nghĩa đa phương ở châu Á mới dịu bới đi. Đáng tiếc là sau đó,
Chính quyền George W. Bush không hội nhập sâu hơn vào khu vực này. Chẳng
hạn, khi EAS lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2005. Ngược lại, Chính
quyền Obama lại đặt các thể chế thuộc châu Á - Thái Bình Dương làm trung
tâm chính sách đối ngoại của Mỹ trong khu vực. Trong bài báo đăng trên
tạp chí Foreign Policy đã đề cập đến ở trên, Ngoại trưởng Mỹ Hilary
Clinton nhấn mạnh "tầm quan trọng của hợp tác đa phương", vì "chúng ta
tin rằng những thách thức xuyên quốc gia phức tạp mà châu Á đang phải
đối mặt sẽ chỉ được giải quyết nhờ việc thiết lập các thiết chế có khả
năng thống nhất hành động chung". Do vậy, có thể thấy hiện Mỹ đã thể
hiện thái độ tích cực hơn trong việc tham gia vào các cơ chế hợp tác
trong khu vực từ ASEAN +, APEC cho đến EAS hiện nay.
Thứ tư, thời gian qua, cùng với sự
phát triển vượt bậc về kinh tế, Trung Quốc không ngừng tăng cường ảnh
hưởng của mình tại khu vực và trên thế giới trên mọi lĩnh vực: từ chính
trị, thương mại, văn hóa cho đến quân sự. Chính quyền Trung Quốc đã tỏ
thái độ quyết liệt hơn, đặc biệt là ở hồ sơ biển đảo khi một số nguồn
tin cho biết Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã được đảm nhận
một vai trò lớn hơn trong việc hoạch định chính sách. Chẳng hạn: Chiến
lược của quân đội Trung Quốc nhằm phát triển một lực hượng hải quân viễn
chinh đã giúp nước này có thể giành quyền kiểm soát lớn hơn đối với các
tuyến đường biển, đặc biệt là ở Biển Đông trong mấy năm gần đây. Việc
tăng cường đưa ra các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc, đặc biệt là
chiến lược biển trong thời gian qua của nước này, theo đánh giá của Mỹ
là đã tạo ra một thách thức đối với những lợi ích quan trọng của Mỹ ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, buộc Mỹ không thể đứng ngoài cuộc.
Nâng cấp quan hệ đồng minh
Vậy Mỹ sẽ triển khai chiến lược trở
lại châu Á như thế nào? Kurt M. Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ
trách các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương, mới đây có bài phát biểu tại
Viện nghiên cứu các vấn đề an ninh và quốc tế Đại học Chulalongkorn ở
Bangkok, Thái Lan, về chính sách can dự của Mỹ với châu Á-Thái Bình
Dương. Theo ông Campbell, cơ sở và ưu tiên số 1 để nước Mỹ thúc đẩy các
lợi ích của mình ở châu Á là duy trì mối quan hệ an ninh hùng mạnh với
các đồng minh hoặc đối tác chính trị như với Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philippines, Australia và Singapore. Mỹ cũng sẽ có những bước đi
trong thời gian tới để xây dựng một mối quan hệ tương xứng hơn với Thái
Lan. Bên cạnh việc tiếp tục tìm cách củng cố và nâng cấp các mối quan hệ
đồng minh ở trên, Mỹ cũng nhận thức đầy đủ rằng cần phải mở rộng quan
hệ với các đối tác khác trong khu vực như Indonesia, Ấn Độ, Malaysia,
New Zealand và kể cả Việt Nam.
Bên cạnh các mối quan hệ quan trọng
này, theo ông Kurt Campbell: "Rõ ràng việc Mỹ và Trung Quốc hợp tác với
nhau trong thế kỷ 21 cũng là điều quan trọng sống còn." Đây là một trong
những mối quan hệ quan trọng nhất của Mỹ. Theo ông Campbell: "Chúng tôi
hoàn toàn thừa nhận đây là một trong những mối quan hệ phức tạp nhất mà
Mỹ chưa bao giờ có với bất kỳ quốc gia nào và chúng tôi sẽ có những nỗ
lực lớn để bảo đảm một chương trình hướng tới tương lai trong quan hệ
giữa hai nước". Mỹ và Trung Quốc đang tập trung nỗ lực tìm cách ngăn
chặn sự leo thang của những biến cố và những diễn biến có thể đe dọa mối
quan hệ rộng lớn hơn giữa hai cường quốc này và "Mỹ cam kết mạnh mẽ với
việc bảo đảm và duy trì một mối quan hệ đối tác tiến bộ hơn giữa Bắc
Kinh và Washington".
Bên cạnh các mối quan hệ chính trị và
chiến lược này, ông Campbell cho rằng một trong những điều quan trọng
nhất mà khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhìn vào Mỹ, đó là việc Mỹ sẽ
tiếp tục đóng vai trò là một đối tác lạc quan, mở cửa về buôn bán và
kinh tế trong khu vực. Ngoài ra, ông Kurt Campbell cũng bày tỏ hy vọng
APEC sẽ có những nỗ lực to lớn hướng tới việc ký kết một hiệp định khung
giữa tất cả các đối tác quan trọng trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). "Chúng tôi coi đây là một hiệp định buôn bán quan
trọng của thế kỷ 21 với những tiềm năng to lớn cho khu vực và cho các
quốc gia tham gia trong tổ chức chung này..."
Ngoài những vấn đề trên, Mỹ cũng muốn
duy trì một trong những đóng góp quan trọng nhất đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, đó là sự hiện diện về an ninh: "Chúng tôi sẽ tiếp tục
nỗ lực này và đa dạng hóa nó. Do vậy, các bạn sẽ chứng kiến những nỗ lực
của Mỹ trong vài tháng tới và vài năm tới nhằm đa dạng hóa khả năng của
mình từ một số lượng nhỏ các căn cứ của mình ở khu vực Đông Bắc Á thành
một loạt các dàn xếp dưới nhiều hình thức khác nhau ở khắp khu vực Đông
Nam Á cùng với Australia" - ông Campbell cho hay.
Chính sách trở lại châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ chắc chắn sẽ khiến vũ đài chính trị - kinh tế của khu vực
này vốn đã sôi động sẽ càng trở nên nóng bỏng hơn bởi lợi ích của nhiều
quốc gia trong khu vực chắc chắn sẽ có những tác động nhất định. Tuy
nhiên, sự trở lại châu Á của Mỹ lần này chỉ có thể thành công khi mà lợi
ích chính đáng của tất cả các nước trong khu vực được tính đến một cách
công bằng thỏa đáng và bằng biện pháp hòa bình.
Trung Nguyên
|