Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012

17.Thế giới 2011 - Bức tranh về hệ lụy của khủng hoảng kinh tế toàn cầu

13:42' 18/1/2012
TCCSĐT - Năm 2011 có lẽ là năm xảy ra nhiều sự kiện ẩn chứa nhiều nghịch lý: trong khi thế giới đang nói nhiều về sự bình đẳng, dân chủ thì những ngôn từ được nhắc đến nhiều nhất trong năm lại là những “lên án” hay “trừng phạt”, thậm chí là “cần có những biện pháp mạnh hơn, kể cả dùng vũ lực”; trong khi các nước khu vực đồng euro đang chìm đắm trong cuộc khủng hoảng nợ công thì một số chính phủ vẫn bỏ ra hàng trăm triệu euro cho các cuộc không kích vào quốc gia có chủ quyền...

Bài viết xâu chuỗi các sự kiện trong năm bằng một “sợi dây”, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hay nói cách khác, sẽ đặt những sự kiện hay tiến trình chính trong năm 2011 trong khuôn khổ bức tranh khủng hoảng kinh tế toàn cầu để phân tích.
“Giọt nước tràn ly” tại Bắc Phi - Trung Đông
Cuộc “cách mạng hoa nhài” bắt đầu tại Tunisia, tháng 1-2011, đã mau chóng lan rộng ra toàn bộ khu vực Bắc Phi - Trung Đông, đỉnh điểm là cuộc chiến tại Lybia, và trở thành tiến trình chiếm vị trí trung tâm của cả năm 2011. Sự việc bắt đầu từ vụ tự thiêu ngày 17-12-2010 tại Tunisia của người thanh niên 26 tuổi M. Buaadidi. Nếu ngọn lửa tự thiêu bốc cháy vào thời điểm trước năm 2008 thì chắc nó sẽ đơn giản chỉ là một đốm lửa thông thường, hoàn toàn không đủ khả năng tạo ra một đám cháy (với tên gọi “cách mạng hoa nhài”) trên quy mô rộng khắp khu vực Bắc Phi như vậy. Nhưng nó lại diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính dưới tác động của cuộc khủng hoảng này mà hành vi của các bên liên quan đã biến nó thành ngọn lửa đủ sức thiêu rụi cả cánh rừng. Tham gia tiến trình này có ba lực lượng chính: chính quyền sở tại, dân chúng và các lực lượng bên ngoài.  
Tại hầu hết các nước Bắc Phi, các chính quyền trải qua hàng chục năm đều được điều hành bởi những cá nhân. Trước khi xảy ra chính biến, tuy các số liệu về sự phát triển của các nước Bắc Phi không đến nỗi quá tồi tệ (ví dụ: kể từ năm 1999, kinh tế tăng trưởng hằng năm tại Ai Cập là 5,1%, ở Tunisia là 4,6%) nhưng tình trạng bất bình đẳng xã hội cũng tăng theo tốc độ tăng trưởng (hơn nửa số dân Ai Cập sống bằng 2 USD/ngày hoặc ít hơn trong khi lợi tức trung bình mỗi đầu người là 6.200 USD/năm)(1). Sự bức xúc của người dân đã âm ỉ từ lâu nhưng không có một cải cách nào hướng tới việc hóa giải. Mặt khác, sự tăng trưởng của những nước Bắc Phi chủ yếu nhờ vào việc xuất khẩu nguyên, nhiên liệu thô, các cơ sở sản xuất trong nước hết sức lạc hậu. Chính vì thế, khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, những quốc gia này bị ảnh hưởng rất nặng nề, trong khi các chính quyền ở đây vẫn tiếp tục điều hành theo kiểu cũ. Trước phản ứng của những người nổi dậy, hầu như họ chỉ biết đối phó bằng các biện pháp cứng rắn, kể cả bằng quân sự. Một trong những sai lầm nghiêm trọng của các chính quyền này là không theo kịp những biến đổi của thế giới từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, như vai trò của các tổ chức quốc tế, tiêu biểu là Liên hợp quốc; khả năng bị can thiệp từ bên ngoài vì những lý do nhân đạo, nhân quyền; khả năng chống đối của các lực lượng đối lập; ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông hiện đại, tiêu biểu như các trang mạng xã hội v.v.. Điều này chỉ có thể giải thích rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã thực sự làm tê liệt cách điều hành cổ điển của các chính quyền sở tại.
Khác với những cuộc “cách mạng màu” ở không gian hậu Xô viết vào những năm 2005-2006 được kích hoạt bởi xung đột lợi ích giữa các đảng phái, các cuộc biểu tình, bạo động diễn ra ở Bắc Phi được châm ngòi và thổi bùng từ tình trạng bất bình đẳng, chênh lệch giàu - nghèo trong xã hội kéo dài. Khủng hoảng kinh tế khiến các chỉ số về giá cả, lạm phát, thất nghiệp v.v.. tăng vọt (ở Tunisia là hơn 14%), đẩy các mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền đến đỉnh điểm. Giới trẻ là nhóm người bị chịu thiệt thòi nhất trong xã hội (như ở Ai Cập, tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ tăng 10 lần)(2). Đây lại là nhóm người rất nhạy cảm với những biến đổi của thế giới, với sự bất bình đẳng trong phân chia của cải hay khác biệt trong tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục. Giới trẻ là lực lượng chính trong các chính biến tại Bắc Phi.
Sẽ không quá ngạc nhiên về sự can thiệp của nhiều nước phương Tây hay Liên hợp quốc nếu nhìn lại những sự kiện từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc như ở Somali (năm 1993), Bosnia - Herzegovina (1993-1995), Kosovo hay Đông Timor (năm 1999) v.v.. vì các lý do nhân đạo hay nhân quyền. Điều khó lý giải ở đây là, trong bối cảnh còn đang gặp vô vàn khó khăn bởi cuộc khủng hoảng nợ công (đối với các thành viên của EU) hay tình trạng kinh tế tiếp tục trì trệ (tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn ở ngưỡng trên 9% năm 2011), nhưng nhiều nước phương Tây vẫn rất tích cực can thiệp vào tình hình Bắc Phi, cho dù họ biết sẽ hết sức tốn kém. Trong nhiều lý do thì rõ ràng, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu chiếm vị trí hàng đầu. Bởi lẽ, tình hình Bắc Phi sẽ giúp chính quyền các nước phương Tây phân tán bớt sự bất mãn của người dân trong nước và không loại trừ niềm hy vọng của một số nước về khả năng kích thích phục hồi kinh tế nhờ sự can thiệp này (ví dụ như tại Lybia, Anh, Pháp và Mỹ đều hy vọng thao túng các nguồn dầu mỏ chất lượng cao tại đây). Liên hợp quốc cũng thể hiện vai trò trong các vấn đề tại Bắc Phi, bằng việc Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 1973 (Nghị quyết về thiết lập vùng cấm bay đầu tiên trong lịch sử 66 năm tồn tại của Liên hợp quốc). Nghị quyết này còn cho thấy sự thỏa hiệp của nhóm P5 - điều chỉ có thể đạt được trong bối cảnh thế giới đang trong khủng hoảng kinh tế.
Lẽ dĩ nhiên, sự sụp đổ nhanh chóng của các chính quyền này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng, khủng hoảng kinh tế có ý nghĩa như đòn đánh tổng hợp chí mạng cuối cùng, kích thích sự nảy sinh các cuộc “cách mạng hoa nhài” chính là giọt nước cuối cùng làm bùng nổ những biến động tại khu vực này trong năm 2011.
Điều phân tích trên cũng thể hiện trong cả tiến trình hòa bình Trung Đông. Tiến trình này vốn đã bế tắc từ đầu năm 2008 do chính sách cứng rắn của chính quyền Israel. Những thay đổi tại khu vực dường như là một cơ hội cho dân tộc Palestin và họ đã tận dụng nó. Ngày 23-9, việc Tổng thống Palestin M.Abbas đệ đơn xin gia nhập Liên hợp quốc đã thực sự tạo ra một bước đột phá đối với tiến trình hòa bình Trung Đông. Trên thực tế, hành động này của chính phủ Palestin đã đạt được kết quả, dù chưa phải như mong đợi, vào tháng 11-2011, Palestin đã trở thành thành viên chính thức của UNESCO.
Liều thuốc thử đối với các tiến trình liên kết tại châu Âu
Trong năm 2011, tại châu Âu, đồng thời diễn ra hai quá trình trái ngược nhau nhưng đều mang dấu ấn của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu:
Một là, nhằm đối phó với những khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế và hy vọng sẽ tạo đà cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo, ngày 18-10-2011, tại St Petersburg (Liên bang Nga), 8 nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) đã ký thỏa thuận thành lập liên minh kinh tế Âu - Á mà nòng cốt là Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan. Trong 2 thập niên qua, các nước thành viên SNG vẫn loay hoay tìm kiếm một mô hình hợp tác có tính hiệu quả và thực chất hơn. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã đặt các thành viên SNG vào tình thế bắt buộc phải tăng cường hợp tác. Tham vọng của các thành viên liên minh Âu - Á không chỉ dừng lại ở không gian SNG, mà còn hy vọng tạo dựng được một thị trường thương mại tự do bao phủ rộng lớn hơn, kéo dài từ châu Âu sang châu Á - Thái Bình Dương. Như vậy, một liên kết mới đã được hình thành dưới sức ép của khủng hoảng kinh tế.
Hai là, ngược lại với khu vực SNG, Liên minh châu Âu (EU) - một liên kết vốn luôn được coi là hình mẫu hợp tác khu vực thành công nhất thời hậu Chiến tranh lạnh, đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Gần hai thập niên qua, EU đã có lúc tưởng như tiến rất gần tới ngưỡng của nhất thể hóa với việc hình thành Ngân hàng Trung ương (ECB), sử dụng duy nhất một đồng tiền (đồng euro), chung một quốc kỳ v.v.., thậm chí đang tiến tới một chính sách đối ngoại và quân đội chung (theo lộ trình của Hiệp ước Lisbon năm 2009).
Cuộc khủng hoảng nợ công bắt đầu bùng phát từ cuối năm 2009, đầu tiên tại Hy Lạp, và ngày càng có nguy cơ lan rộng ra toàn bộ các nước thành viên EU, đã làm đảo lộn mọi sự sắp đặt trước đó. Trong suốt thời gian qua, từ EU đến Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đều nỗ lực bơm tiền cứu nền kinh tế Hy Lạp nhưng kết quả thu được vẫn ảm đạm: đất nước này vẫn đứng trước nguy cơ vỡ nợ; bản thân Thủ tướng George Papandreou phải từ chức; làn sóng phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng theo yêu cầu của EU ngày càng dâng cao.
Sau hàng loạt cuộc đàm phán, các nhà lãnh đạo EU tại cuộc gặp thượng đỉnh trong hai ngày 8 và 9-12-2011, cuối cùng đã đạt được thỏa thuận lập một “Liên minh tài chính” với những chế tài nghiêm ngặt hơn nhằm tháo gỡ tình trạng khủng hoảng. Tuy thỏa thuận này khó có thể cứu vãn tức thì tình trạng nợ công hiện nay của EU nhưng cũng cho thấy quyết tâm không để liên kết này tan vỡ của các nước thành viên.
Khủng hoảng nợ công nói riêng và khủng hoảng kinh tế nói chung “giúp” cho những vấn đề còn bị che khuất của EU bộc lộ rõ nét. Thứ nhất, vấn đề chủ quyền quốc gia vẫn chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Cuộc tranh chấp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích của khối vẫn hết sức gay gắt. Thủ tướng Anh Đ. Cameron tuyên bố không tham gia Liên minh tài chính và trước đó đã có những tuyên bố về khả năng rút khỏi EU. Lý do được đưa ra là lo mất chủ quyền. Thứ hai, khoảng cách giữa các thành viên vẫn là trở ngại vô cùng to lớn cản trở tiến trình nhất thể hóa. Xét cho cùng, Hy Lạp hay Ireland (sắp tới là một loạt nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia v.v..) rơi vào tình trạng hiện nay, một phần, cũng có lỗi của toàn bộ cơ chế của EU. Đơn cử như việc ECB đã áp dụng một chính sách tài chính duy nhất cho mọi thành viên, những khác biệt giữa các quốc gia thành viên đã được châm chước với mong muốn có được một liên kết hoàn hảo nhanh nhất. Thứ ba, mọi thành viên của EU, đặc biệt là những thành viên mới thuộc khu vực Đông Âu sẽ phải xem xét lại chính sách hội nhập của mình. Nỗi “ám ảnh Hy Lạp” sẽ gây áp lực không nhỏ đối với những giấc mơ “đốt cháy giai đoạn” của những nền kinh tế thành viên kém phát triển hơn. Thứ tư, bản thân EU cũng còn rất nhiều việc phải làm nếu muốn tiếp tục hiện thực hóa hiệp ước Lisbon (chắc chắn sẽ được chỉnh sửa), bởi khủng hoảng kinh tế lại làm nảy sinh, chí ít, một nhiệm vụ mới: hàn gắn những rạn nứt mới xuất hiện giữa các thành viên EU trong cuộc chiến chống khủng hoảng.
Như vậy, khủng hoảng kinh tế không chỉ thúc đẩy vấn đề nợ công bùng phát mà còn buộc các nước của châu lục phải đánh giá lại toàn bộ chính sách hội nhập quốc tế. Một liều thuốc thử không dễ chịu chút nào cho những cố gắng liên kết tại đây.
Cơ hội khẳng định vai trò mới của châu Á
Giống như các khu vực khác, trong năm 2011, tại châu Á cũng đầy ắp các sự kiện, trong số đó đều liên quan đến một sự kiện: sự lớn mạnh của Trung Quốc.
Trước hết, xét từ phía Trung Quốc, trong bối cảnh hầu hết các nền kinh tế hàng đầu vẫn bị cơn bão khủng hoảng tàn phá thì quốc gia đông dân nhất thế giới vẫn duy trì được đà tăng trưởng đáng kinh ngạc. Những hoạt động của Trung Quốc trong năm 2011 cho thấy, quốc gia này đã tận dụng được bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu để khẳng định vị thế mới của mình. Trung Quốc bắt đầu thể hiện sức mạnh tài chính bằng việc mua trái phiếu chính phủ của Mỹ (theo thông báo của Bộ Tài chính Mỹ, tính đến hết tháng 7-2011, Trung Quốc nắm giữ tới 1.170 tỉ USD trái phiếu chính phủ Mỹ và trở thành chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ)(3). Các nhà đầu tư Trung Quốc đang đẩy mạnh việc đầu tư vào đất đai ở nhiều khu vực trên thế giới như Ireland, Trung - Nam Phi v.v.. Tại các hội nghị quốc tế quan trọng trong năm, như G20 (Cannes, tháng 11-2011), APEC 19 (Hawai, tháng 11-2011), Trung Quốc đã chỉ trích, những bất cập của hệ thống tài chính - tiền tệ hiện nay do chủ yếu dựa vào đồng đô la. Một loạt hoạt động trên biển của Trung Quốc trong năm 2011 đã tạo ra ấn tượng rằng, Trung Quốc cũng đang sở hữu một sức mạnh quân sự tương xứng với sức mạnh kinh tế. Có lẽ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu mới chỉ giúp các nhà lãnh đạo Trung Quốc giải quyết về mặt lý luận vấn đề cần phải can dự sâu hơn vào các vấn đề quốc tế để tiến tới vai trò lãnh đạo toàn cầu. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tại G20 (Cannes) về việc “Trung Quốc sẽ phải cân nhắc kỹ trước khi tham gia cứu trợ khu vực đồng euro, bởi dù sao Trung Quốc vẫn chỉ là một nước đang phát triển” cho thấy, dường như Trung Quốc chưa thực sự chuẩn bị đầy đủ về mặt thực tiễn vai trò mới của mình.
Xét từ phía các nước, tâm lý lo ngại trước sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc có lẽ là cách giải thích hợp lý nhất cho những sự kiện diễn ra trong khu vực. Mỹ đã triển khai một loạt hoạt động mà cái đích nhắm tới là Trung Quốc. Tuyên bố về một chiến lược Đông Á mới của ngoại trưởng H.Clinton; nỗ lực thúc đẩy mở rộng Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại APEC 19 của Tổng thống B.Obama; triển khai quân đội tại Australia; cùng với chiến dịch tuyên truyền về một cuộc chiến tranh tiền tệ, tháng 5-2011, Thượng viện đã thông qua đạo luật cải cách giám sát tỷ giá hối đoái. Đạo luật này cho phép chính phủ Mỹ áp đặt thuế đối với các sản phẩm từ các quốc gia được cho là trợ cấp xuất khẩu bằng cách hạ giá đồng tiền của mình, mà thực chất là mở đường cho những biện pháp trừng phạt đối với hàng hóa của Trung Quốc v.v..
ASEAN tỏ ra mềm mỏng hơn trước sự lớn mạnh của Trung Quốc. Một mặt, ASEAN đẩy mạnh triển khai hiệp định tự do thương mại với Trung Quốc (China - AFTA), mặt khác, tăng cường hợp tác với Mỹ qua nhiều cơ chế, tiêu biểu như đối thoại cấp cao hằng năm ASEAN - Mỹ. Khẩu hiệu “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng quốc tế” của Hội nghị cấp cao ASEAN - 11 thể hiện rất rõ chính sách cân bằng của ASEAN. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, các nước trong khu vực đều hiểu rằng, hợp tác và liên kết vẫn là liều thuốc hợp lý nhất giúp tất cả có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Hoạt động ngoại giao đa phương tích cực của Ấn Độ, một cường quốc đang nổi lên khác của châu Á là một ví dụ minh họa thêm về nhận định này. Trong năm qua, lãnh đạo của tất cả các nước lớn đã tới thăm New Dehli và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh cũng đã đáp lễ. Thông qua các hiệp ước trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ hay Nga, có lẽ các nhà lãnh đạo Ấn Độ muốn gửi đi thông điệp, thế giới cần phải thích ứng với sự nổi lên của các nền kinh tế mới, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ, và, cách tốt nhất là mở rộng quan hệ, hợp tác với tất cả.
Cơ hội tách khỏi “cái ô” của Mỹ cho Mỹ Latin
Ngày 2-12-2011, tại Caracas (Venezuela), 33 nguyên thủ các quốc gia khu vực đã ký kết hiệp định thành lập Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latin và Caribe (CELAC), đánh dấu một bước phát triển mới của khu vực. Theo Tổng thống nước chủ nhà H.Chavez, CELAC sẽ trở thành một “liên minh chính trị với mục tiêu xây dựng một trung tâm quyền lực lớn trong thế kỷ XXI”(4). Phải chăng đây là sự thể hiện: các nước Mỹ Latin muốn tách dần khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ? Suốt một thời gian dài, những cơ chế khu vực (kiểu như MERCOSUR) luôn chịu sự chi phối của mối quan hệ giữa khu vực với Mỹ. Những khó khăn mà nước Mỹ đang phải loay hoay tìm giải pháp khắc phục khiến chính quyền của Tổng thống B.Obama phải thi hành một chính sách “nhượng bộ” đối với các nước Mỹ Latin.
Kể từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bùng nổ đến nay, các nước Mỹ Latin vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao (4,5%/ năm). Sự thành công của các nền kinh tế Mỹ Latin (như Brazin, Argentina, Chile) đã thu hút các nhà đầu tư tiềm năng đến từ Trung Quốc, Nga, Nhật Bản. Sự tăng trưởng trong bối cảnh khủng hoảng còn giúp các nước Mỹ Latin tự tin hơn trong việc hiện thực mong muốn thành lập một cơ chế độc lập, không chịu sự ràng buộc với Mỹ.  
Kết quả của Hội nghị tại Durban mang nặng tính thỏa hiệp tạm thời
Hội nghị về chống biến đổi khí hậu tại Durban (Nam Phi) đã diễn ra trong bối cảnh thời hạn chót 2012 của Nghị định thư Kyoto đang cận kề cộng với sự bế tắc của các hội nghị tại Copenhagen (năm 2009) và Cancun (năm 2010). Quá trình đàm phán căng thẳng 14 ngày của hội nghị Durban và kết quả cuối cùng (ngày 11-12-2011) của nó phản ánh khá rõ nét mối quan hệ giữa các quốc gia thời khủng hoảng. Đại diện của 194 quốc gia tham gia hội nghị đều nhận thức đầy đủ về mức độ nguy hiểm của việc nhiệt độ Trái Đất đang nóng lên từng ngày. Tuy nhiên, trong tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những nguy hại do hiệu ứng nhà kính hay chất thải CO2 phải nhường chỗ cho những mưu sinh thường nhật cũng là điều dễ hiểu. Mâu thuẫn gay gắt giữa các quốc gia tại hội nghị, cũng giống như đối với vấn đề nợ công tại Eurozone, đã khiến kết quả đạt được tại hội nghị Durban mang nặng tính thỏa hiệp tạm thời và hướng tới tương lai nhiều hơn(5). Biện minh cho kết quả không như mong đợi của cộng đồng quốc tế, người ta lại viện dẫn bằng cụm từ quen thuộc “lợi ích quốc gia”. Diễn biến của hội nghị Durban cho thấy cuộc đấu tranh giữa cái “Tôi” và cái “Chúng ta” vẫn vô cùng căng thẳng và còn lâu mới đi đến hồi kết.
Tóm lại, những diễn biến trong năm 2011 cho thấy, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn còn rất sâu đậm. Tuy nhiên, hai quá trình trái ngược nhưng lại có tính bổ trợ nhau: đề cao lợi ích quốc gia song hành với nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế như là hệ lụy tất yếu của cuộc khủng hoảng này, cho phép chúng ta hy vọng bức tranh thế giới năm 2012 sẽ ít ảm đạm hơn, cho dù còn rất nhiều thách thức ở phía trước./.

________________

(1) CIA World Fact Book, 18-1-2011
(2) Duncan Green: What caused the revolution in Egypt, The Guardian, 17-2-2011
(4) Hội nghị thành lập Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latin và Caribe, báo Nhân Dân  ngày 4-12-2011
(5) http://dangcongsan.vn/CPV/, Hội nghị Durban thoát khỏi thất bại vào giờ chót, ngày 18-12-2011
Đỗ Sơn Hải TS, Học viện Ngoại giao