Thưa
Bộ trưởng, năm qua, tình hình thế giới và các khu vực xuất hiện nhiều
diễn biến phức tạp mới, như bất ổn ở Trung Ðông - Bắc Phi, thảm họa
thiên tai hoành hành, khủng hoảng kinh tế- tài chính chưa được khắc
phục... Đây là những thách thức lớn đối với ngành Ngoại giao. Song với
những hoạt động phong phú, tích cực, Ngoại giao Việt Nam vẫn đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Điều này cũng đã được tổng kết tại Hội
nghị Ngoại giao lần thứ 27. Theo Bộ trưởng, đâu là những điểm sáng nhất
trong công tác ngoại giao của Việt Nam trong năm qua?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đúng là năm
2011 thế giới trải qua nhiều khó khăn và thách thức. Nhưng tôi cho rằng
thuận lợi cũng rất cơ bản. Những thuận lợi đó được tạo bởi sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Nhà nước, bởi xu thế vận động theo hướng dân chủ
hóa của mối quan hệ quốc tế, bởi thế và lực của đất nước đang lên cao.
Nắm bắt được cơ hội, vượt qua khó khăn thách thức, đất nước ta đã giành
được nhiều thành tựu quan trọng:
1) Thành công của Đại hội Đảng lần thứ
XI là điểm sáng nhất về chính sách đối ngoại. Đại hội đã sáng suốt đánh
giá và dự báo chính xác tình hình thế giới với những khó khăn và thuận
lợi cơ bản đối với đất nước ta. Tình hình thế giới diễn ra cho tới nay
đã minh chứng cho những đánh giá đúng đắn này. Đại hội đã đề ra đường
lối đối ngoại đổi mới theo hướng tích cực và chủ động hơn nữa hội nhập
quốc tế, trong khi vẫn quán triệt chủ trương lớn là độc lập, tự chủ, vì
hòa bình, hợp tác và phát triển; Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế.
2) Đường lối đối ngoại đúng đắn đã tạo
tiền đề cho những điểm sáng tiếp theo trong việc thực thi chính sách
đối ngoại của đất nước: Hoạt động đối ngoại đã triển khai rất tích cực,
toàn diện cả về song phương và đa phương; đặc biệt là các chuyến thăm
của Lãnh đạo Cấp cao tới các nước láng giềng, khu vực, các đối tác chủ
chốt đã đưa quan hệ nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất,
hiệu quả hơn, mở ra cơ hội to lớn nhằm nâng tầm quan hệ với một số đối
tác quan trọng khác. Sự tham gia tích cực, chủ động của nước ta tại các
tổ chức và diễn đàn quốc tế và khu vực quan trọng như ASEAN, APEC, WTO…
đã đem lại nhiều kết quả cụ thể, thiết thực, nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3) Tình hình Biển Đông năm qua có
nhiều biến động, nhưng Ngoại giao đã góp phần tích cực bảo vệ chủ quyền
biển đảo, toàn vẹn lãnh thổ, trong khi chúng ta vẫn duy trì và tăng
cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước liên quan, hòa bình, ổn
định ở khu vực.
4) Trong bối cảnh kinh tế thế giới có
nhiều tác động không thuận đến kinh tế nước ta, ngoại giao kinh tế được
đẩy mạnh, tham gia cùng với những ngành kinh tế đối ngoại tranh thủ
những nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho đất nước. Lần đầu tiên trong
lịch sử, xuất khẩu của đất nước đạt gần 200 tỷ USD. Mặc dù các nước tài
trợ khó khăn nhưng vẫn cam kết viện trợ ODA cho Việt Nam gần 8 tỷ USD,
nguồn FDI vẫn được đăng ký ở mức gần 14 tỷ USD.
5) Công tác bảo hộ công dân năm qua đã
làm được nhiều việc quan trọng: đưa được gần 10.000 lao động trở về an
toàn từ Libya, sơ tán an toàn toàn bộ học sinh và người Việt Nam ra khỏi
vùng ảnh hưởng hạt nhân do động đất sóng thần ở Nhật Bản,... Công tác
bảo vệ ngư dân và ngư trường truyền thống của nước ta tiếp tục là trọng
tâm của ngành Ngoại giao. Cùng với đó là công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài vẫn được thường xuyên chú trọng.
6) Ngoại giao văn hóa cũng giành được
nhiều thành tựu lớn: năm qua 3 di sản văn hóa của đất nước đã được
UNESCO công nhận: Thành Nhà Hồ được công nhận là Di sản văn hóa thế
giới, hát Xoan được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ
khẩn cấp, Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên được mở rộng thành khu dự trữ
sinh quyển Đồng Nai.
7) Hội nghị Ngoại giao 27 thành công
cũng là niềm tự hào của ngành Ngoại giao. Hội nghị đã chuẩn bị hành
trang cho những người làm công tác đối ngoại trong năm 2012 và những năm
tiếp theo, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng XI.
Nhìn chung, với nỗ lực và quyết tâm
rất lớn trong năm qua, ngành ngoại giao đã đóng góp vào những thành tựu
chung của cả nước, góp phần tạo thế và lực mới để đất nước đứng vững và
phát triển trước những thử thách của thời cuộc. (…)
Năm 2011 được nhận định là một năm
mà xu hướng thế giới đa cực trở nên rõ nét hơn, sự chuyển dịch trọng
tâm từ Tây sang Đông cũng trở nên rõ ràng với vai trò nổi bật của khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Nằm ở khu vực này, Việt Nam có những cơ hội
và thách thức gì ?
Còn quá sớm để cho rằng thế kỷ 21 là
Thế kỷ Thái Bình Dương. Nhưng điều dễ nhận thấy là châu Á-Thái Bình
Dương đang nổi lên như một khu vực năng động về kinh tế. Quá trình liên
kết kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ, cấu trúc khu vực với nhiều
tầng nấc, nhiều cơ chế đang được hình thành và phát triển, trong đó vai
trò đầu tàu và hạt nhân của ASEAN được củng cố. Các nước lớn đều đang
tập trung sự chú ý vào khu vực, nhiều nước đã coi châu Á – Thái Bình
Dương là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của mình.
Tuy nhiên, khu vực cũng đứng trước
những thách thức mới, nhất là cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích giữa các
nước lớn ngày càng gay gắt, tranh chấp biên giới lãnh thổ, nguồn tài
nguyên gia tăng; tình hình nội trị nhiều nước diễn biến phức tạp và các
vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng.
Là thành viên tích cực của các cấu
trúc khu vực như ASEAN, APEC, EAS... chúng ta cần phát huy vai trò chủ
động, tích cực, đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề chung, cùng
nhau hợp tác để phát triển. Những cơ hội thường không lặp lại. Trong một
khu vực năng động như vậy, các nước đều tranh thủ cơ hội phát triển
nhanh, nếu ta bỏ lỡ cơ hội, chậm chân, nguy cơ tụt hậu sẽ là nguy cơ lớn
nhất mà chúng ta phải đối mặt. Ngành Ngoại giao sẽ phải chủ động tích
cực hơn nữa để phát huy vai trò của đất nước trong khu vực (…).
Bối cảnh khó khăn chung của toàn
cầu sau khủng hoảng tài chính đang đặt ra nhiều vấn đề đối với quá trình
hội nhập kinh tế của Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xác định
rằng Việt Nam phải xây dựng một chiến lược tổng thể, bài bản hơn về hội
nhập kinh tế quốc tế. Vậy Bộ Ngoại giao dự định như thế nào để triển
khai kế hoạch này?
Việc xây dựng chiến lược hội nhập kinh
tế quốc tế tổng thể là hết sức cần thiết và cấp bách. Chiến lược tổng
thể sẽ giúp chúng ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế với tầm nhìn
dài hạn, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên, lộ trình và biện pháp rõ
ràng, đồng thời giúp chúng ta chuẩn bị ở trong nước chủ động và bài bản
hơn, nhất là năng lực thực hiện các cam kết quốc tế.
Đây là một trong các nhiệm vụ trọng
tâm của ngành Ngoại giao trong thời gian tới. Phát huy thế mạnh của mạng
lưới các cơ quan đại diện ta trên thế giới và trên góc độ chính trị đối
ngoại, Bộ Ngoại giao sẽ tập trung tích cực cùng các Bộ, ngành xây dựng
Chiến lược tổng thể này, đặc biệt là trong việc tham mưu, đánh giá xu
thế tình hình, tương quan lực lượng để có thể đề xuất lựa chọn đúng đối
tác kinh tế - thương mại, các bước đi phù hợp, xác định đúng lộ trình,
thời điểm, đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm, bài học các nước về hội nhập.
Như vậy, ngành Ngoại giao cần đổi mới
tư duy, cách tiếp cận, để chuyển từ "phục vụ, hỗ trợ" sang "triển khai"
hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm chính trị đối ngoại gắn kết chặt chẽ
với kinh tế đối ngoại, bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế là nền tảng, nội
hàm then chốt của hội nhập quốc tế toàn diện.
(…)
Việt Nam đã chuyển sang một thời
kỳ hội nhập sâu hơn với thế giới. Không chỉ hội nhập về kinh tế, chúng
ta sẽ hội nhập toàn diện. Ngành Ngoại giao sẽ tham gia thúc đẩy quá
trình này như thế nào? Theo ông, trong quá trình này, chúng ta phải chú ý
những vấn đề gì?
Đại hội XI của Đảng đã đề ra đường lối
đưa nước ta bước sang thời kỳ hội nhập toàn diện với thế giới, từ hội
nhập kinh tế thuần túy, chúng ta sẽ mở rộng hợp tác sâu rộng sang các
lĩnh vực chính trị, an ninh, quân sự, văn hóa, xã hội…
Tại Hội nghị Ngoại giao 27 vừa qua,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi giao nhiệm
vụ cho ngành Ngoại giao cũng đã nhấn mạnh như vậy. Lãnh đạo Đảng và Nhà
nước đã giao Bộ Ngoại giao cùng các Bộ, ngành khác chuẩn bị xây dựng
nhiều văn kiện quan trọng cho tiến trình này, trong đó có Chiến lược
tổng thể về hội nhập quốc tế từ nay đến 2020.
Tôi muốn nhấn mạnh một số nội dung chính của Hội nhập quốc tế:
- Hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là ưu
tiên hàng đầu nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất
nước. Trong 5 năm tới, chúng ta sẽ phải xây dựng các kế hoạch, mục tiêu,
tập trung thu hút các nguồn lực đầu tư, ODA, mở rộng thị trường xuất
khẩu du lịch… phù hợp với các định hướng phát triển mới của đất nước.
- Đồng thời thúc đẩy quan hệ chính
trị, an ninh, quân sự văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật… nhằm góp
phần tạo dựng môi trường thuận lợi phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và
nâng cao thế và lực của Việt Nam.
Trong quá trình đó, chúng ta cũng phải
có nghiên cứu, đề xuất, xây dựng những quyết định dài hạn về hội nhập;
chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực;
đưa ra những sáng kiến vừa phù hợp với lợi ích của ta, vừa đóng góp vào
việc giải quyết các công việc quốc tế, qua đó bảo vệ tốt nhất cho các
lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế toàn diện
đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Hội nhập toàn diện đòi hỏi
khối lượng công việc khổng lồ để bổ sung, hoàn thiện thể chế, cải cách
và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực… Tuy
nhiên, cần khẳng định một điều, mọi mối quan hệ quốc tế trong bất kỳ
điều kiện nào cần phải tôn trọng sự khác biệt về thể chế chính trị như
một sự tự do lựa chọn mô hình phát triển của nhân loại.
(…)
Thưa Bộ trưởng, một trong những
trọng tâm của đối ngoại của Việt Nam là tham gia tích cực nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kể cả trên biển, góp phần duy trì môi
trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Có thể nói rằng, một trong những thành tựu ngoại giao năm 2011 là đã xử
lý “vững tay” về vấn đề Biển Đông. Điều này được nguyên Phó Thủ tướng Vũ
Khoan đánh giá cao. Ông suy nghĩ như thế nào trước ý kiến này?
Lãnh thổ, chủ quyền quốc gia là thiêng
liêng đối với mỗi dân tộc. Trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc
gia là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành và của mỗi người dân Việt
Nam, trong đó ngành Ngoại giao có sứ mệnh rất quan trọng.
Ngoại giao Việt Nam trong thời gian
qua đã chủ động làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ về thực trạng tình hình
Biển Đông, về chủ trương chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta
trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Bạn bè quốc tế chia sẻ và
đồng tình với những quan điểm của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp
Biển Đông bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước
LHQ về Luật Biển 1982. Đây là một trong những thành quả của công tác
ngoại giao. Trong năm 2011, Việt Nam cùng với các nước ASEAN và Trung
Quốc đã chính thức thông qua Quy tắc hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp
tục nỗ lực cùng các nước ASEAN khác thúc đẩy việc xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC). Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
việc duy trì hoà bình ổn định ở Biển Đông và phù hợp với lợi ích chung
của tất cả các nước./.
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/xuan2012/2012/1/C9F36F5C7F0C581E/
|