Từ
trên
ba thập niên nay, mỗi khi tháng tư trở lại, thì giới truyền thông
Hoa kỳ, khối diaspora Việt và chính phủ Hànội đều đồng thanh nhắc
đến cuộc chiến VN với những nhận xét khác biệt và không thay đổi.
Năm 2008 đánh dấu kỷ niệm thứ 33 ngày Miền Nam thất thủ, vì thế khơi
lại – gay gắt hơn lúc nào hết – vết thương của quá khứ. Các đài
truyền hình trên thế giới, nhân dịp này, cho chiếu lại các phim
thương mãi và giả tưởng Deer Hunter, Platoon, Apocalypse Now,
Full Metal Jacket...Ngoài ra, một số tài liệu gọi là “quân sử”
cũng được họ xử dụng để bình phẩm về 15 năm thảm kịch ở Đông
Dương,từ 1961 đến 1975, gây thiệt mạng cho 58.000 lính Mỹ và trên 3
triệu người Việt.
Nhà cầm quyền Bắc Việt dựng ra Mặt trận Giải phóng Miền Nam ngày
20.12.1960, lối sáu tuần lễ sau khi John F. Kennedy đắc cử Tổng
thống. Qua năm sau, các lực lượng đặïc biệt Hoa kỳ tham chiến. Và
sau đó, cuối thập niên 60, dưới thời Lyndon B. Johnson, chiến tranh
leo thang với vụ oanh tạc Miền Bắc và Hànội. Tiếp theo là kế hoạch
Richard Nixon “Việt nam hóa “ chiến tranh, Hiệp ước Paris và bi
kịch Miền Nam sụp đổ ngày 30.4.1975.
Chiến tranh Việt Nam là đề tài được Hollywood khai thác lâu nhứt
trong lịch sử truyền hình Hoa kỳ. Tạp chí Journal of
Broadcasting có đăng một bài khá tường tận của nhà xã hội học
George Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti- vi Mỹ
ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965 cho đến 1970. Theo
ông, gần phân nửa tài liệu chiến tranh liên hệ đến hoạt động của bộ
binh và không lực trên chiến trường ; lối 12% gồm có các bản văn
tuyên bố của chính quyền Hoa Thịnh Đốn và Sàigòn; và sau hết, 3%
dành cho tin tức lấy từ đối phương Bắc Việt. Ảnh hưởng của chiến
tranh đối với quần chúng Mỹ và những vụ đi bộ cổ võ cho hòa bình,
dân chúng xuống đường, sinh viên biểu tình..v..v.. của phong trào
phản chiến tại Hoa kỳ được trình bày giới hạn, với tài liệu phát
xuất phần lớn từ Ngũõ Giác Đài. Chỉ trong năm 1971, chi phí dể hình
thành kho “sử liệu” loại này lên đến gần 200 triệu mỹ kim.
Năm 1968, quân đội Mỹ tàn sát 407 thường dân tại Mỹ Lai .Vụ này xãy
ra hai tháng trước ngày CS Miền Bắc vượt vỹ tuyến 17 và giết trên
5.000 dân Huề trong dịp Tết Mậu Thân. Khi khám phá ra thảm cảnh Mỹ
Lai hai chục tháng sau, giới truyền thơng Hoa kỳ , đặc biệt các đài
ti-vi, tố cáo ầm ỉ trước cơng luận phản chiến của thế giới . Họ
khơng đá động một tiếng đến việc Việt Cộng tàn sát dã man tập thể
thường dân vơ tội ở Huế mà họ coi như một tin tức tầm thường trong
một xứ đang chiến tranh.
Năm 1998, hảng Associated Press hợp tác với Radio Association tổ
chức trưng bày những hình ảnh tiêu biểu nhứt trên 150 năm đã qua.
Đệ nhị Thế chiến và chiến tranh Cao Ly được để
ý với bức ảnh dựng cờ tại đảo Iwo Jima, ảnh Quân đội Mỹ khải hồn
chiến thắng trở về và ảnh cánh tay của một tử sĩ Hoa kỳ giơ qua lướp
tuyết mùa đơng. Đề tượng trưng cho chiến tranh VN, AP và RA chọn
tấm ảnh của phĩng viên chiến trường Eddie Adams chụp tướng Nguyễn
Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát, dùng súng lục bắn vào đầu một cán
bộ khủng bố Cộng sản. Loan chết tại Mỹ
năm 1998 sau khi bị đe dọa đưa ra trước Tịa án và trục xuất khỏi Hoa
kỳ. Giải thưởng Pulitzer tặng cho Út Nick vì y tình cờ thu hình được
một bé gái Việt bị bom napalm đốt cháy, khĩc chạy trần truồng trên
xa lộ. Bằng cách hành động theo khuynh hướng cầu an của dân, truyền
thơng đại chúng Mỹ vơ hình chung đã giúp giáo cho giặc.
Năm 1991, 38 cơng dân Hoa kỳ được báo giới hoan nghinh khi họ bay
qua Hà Nội bắt đầu một cuộc đi bộ xuyên xứ hai tuần để gây “tình hữu
nghị Mỹ- Việt”. Họ viếng thăm Hà Nội, Đà Nẳng, Vinh, Vũng Tàu, Mỹ
Lai và Sàigon. Họ tránh đề cập đến tội ác CSVN, khơng tìm hiểu và
điều tra về các nạn nhân Tết Mậu Thân. mà nhiều mồ tập thể đã tìm ra
ngày 26.2.1968 khi Quân đội Quốc gia tái chiếm Huế. Vơ số xác chết
được tìm thấy mất đầu hay với tay bị trĩi bằng dây kẻm gai, dây
thừng
Từ đầu tháng tư đến nay, cũng như mọi năm, trong khi công luận Hoa
kỳ cố quên đi giặc giả, một loạt phim tài liệu xuất hiện trên truyền
hình Mỹ dưới tên “Viet Nam, a televised history “, đề cao
chiến thắng của Cộng sản Hànội và nhãi đi nhãi lại các
tội ác chiến tranh của Hoa kỳ và Quân đội VNCH , căn cứ vào những
lời tường thuật sặt mùi xã hội chủ nghĩa của một số nhân chứng và
cán bộ gốc Miền Bắc. Đòn tuyên truyền cũ rích này không làm cho
chính quyền George W Bush thay đổi cảm nghĩ đối với chiến tranh Việt
Nam.
Hơn
nữa
thế kỷ đã trôi qua. Hoa Thịnh Đốn vẫn bị ám ảnh bởi “ hội chứng
Việt Nam” và Hậnội tiếp tục sống phập phồng trong ác mộng “
diễn biến hòa bình”. Hai căn bịnh trầm kha này – nói gì thì nói
– không giúp họ hoàn toàn gột bỏ các thành kiến đối với đối phương
cũ và cã hai cố gắng giải thích cuộc tranh chấp xưa theo nhãn quan
riêng: Côïng sản cho rằng họ đã thắng lớn năm 1975 nhờ Mác, Lê và Hồ.
Phía Hoa kỳ thì lại xem cuộc chiến tại Đông Dương chỉ là giai đoạn
chuẫn bị sự sụp đổ toàn diện của xã hội chũ nghĩa mà xứ Cờ Hoa chủ
trương từ đầu., Trong hậu trường cuộc chiến Việt Nam, còn nhiều bí
mật chưa được tiết lộ. Nhà cầm quyền Mỹ và Việt sẽ không được bình
ổn tâm thần và hơn thế, khó thể tìm ra giãi pháp thích hợp và bền
vững cho đến khi cã hai có đủ can đãm nhận và nói ra sự thật đã và
đang phân cách họ.
Đến nay tại Hoa kỳ, đã có một số người liên hệ mật thiết đến chiến
tranh VN và thức giả lương thiện mổ xẻ thẳng thắn vấn đề. Thí dụ,
nhiều cộïng tác viên với chính quyền Mỹ trước 1975 không ngại dùng
những danh từ như “lừng khừng, nóng nảy, vô năng “ để
phê bình chính sách của Kennedy và Johnson. Paul Kattenburg, cựu Chủ
tịch Khối Nghiên cứu về VN, VN Task Force, kể lại: Trong phiên nhóm
Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 31.8.1963,do TT Kennedy chủ toạ, ông
đã đề nghị , nhưng vô hiệu quả, Hoa kỳ rút khỏi VN “trong danh dự”.
Bị mất chức tháng giêng 1964, Kattenburg nhận định chua chát như sau
về Bộ Tham mưu chiến tranh của Kennedy: “ Không có một người nào
trong nhóm nắm vững những vấn đề thão luận Họ không
biết gì về Việt Nam.. Họ không thấu triệt quá khứ. Họ quên hết lịch
sử. Họ không hiểu sự phân biệt giữa chủ thuyết quốc gia và chủ nghĩa
Cộng sản. Tôi tự nhủ: “Trời ơi, chúng ta đang đi vào nguy nan to
lớn!” Trong hồi ký muộn màng “ In Retrospect’, cựu Bộ
trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara thú nhận rằng các “ đỉnh cao trí
tuệ” của nước Cờ Hoa – trong số này tác giả được dư luận xếp vào
hàng đầu! - đều mù tịt về Việt Nam được xem như một “ vùng đất lạ,
terra incognita “ và họ “ không nhận diện nổi để phân biệt
chủ thuyết quốc gia và chủ thuyết cọng sản.” (!). Trong
phiên họp ngày 31.8.1963, tại Bộ Ngoại giao, Hoa Thịnh Đốn, khi biết
tin âm mưu lật đổ TT Diệm thất bại tuần lễ trước , Phó Tổng thống
Lyndon Johnson bộc trực tuyên bố : “ Chúng ta nên chấm dứt cái
trò vừa la làng, vừa ăn cướp! “
Trong bốn ngày liên tiếp, từ 12 đến 15 tháng 3 vừa qua, Trung tâm
Việt Nam, VN Center, thuộc Đại học Texas Tech University, tổ chức
tại thành phố Lubbock một Hội luận về chiến tranh VN và cĩ đề cập
đến vai trị của truyền thơng Hoa kỳ. Một số ký
giả kỳ cựu như Don North (hệ thống NBC, ABC), Peter Arnet, Richard
Pyle, George Esper (Associated Press)… cĩ tham gia. Tất cả đều nhìn
nhận rằng, khác với Đệ nhất Thế chiến và chiến tranh Triều tiên,
cuộc chiến ở VN được trình bày mau chĩng, dưới những khía cạnh dữ
dằn, trên các màn ảnh TV và qua bài phĩng sự trên báo và ra-dơ hay
máy fax của ký
giả ngọai quốc. . Phương tiện kỷ thuật lúc ấy tương đối thơ sơ vì
chưa cĩ máy vi tính và hệ thống vệ tinh tân kỳ. Ký
giả chiến trường được Quân đội dành cho những dễ dãi di chuyển nhưng
khơng được chính quyền Hoa kỳ tổ chức quy củ - như trong chiến
tranh Irak và Afghanistan hiện nay – thành một hệ thống ghép theo
các đơn vị chiến đấu và xữ dụng những phương tiện kỹ thuật vơ cùng
tối tân. Khi bị các hội thảo viên gốc Việt chất vấn, những ký
giả nêu trên khơng phủ nhận rằng trong một vài trường hợp, các
phĩng viên chiến trường đã khơng hồn tồn trung thực vì đa số cĩ cảm
tình với cánh phản chiến.
Ngay từ đầu cuộc chiến, chính phủ HK và VN Cộïng hòa đều quan niệm
sai lầm liên hệ đồng minh giữa hai nước. từ đó sinh ra những bất
đồng dẫn đến bất hòa và sự bức tử oan uổng của Miền Nam. Thật vậy,
quyền lợi của Mỹ và VN không tương quan: Miền Nam chủ trương chống
Bắc Việt để tồn tại như một quốc gia dân chủ và độc lập, trong khi
HK muốn dùng VNCH như con cờ thí để thực hiện quân bình chiến lược
tại Á châu bằng cách ngăn Bắc Kinh bành trướng thế lực và đồng thời,
chia rẽ Nga sô và Trung cộng. Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi VNCH không luyến
tiếc sau khi Nixon hội kiến với Mao năm 1972. Hoa kỳ không bao giờ
chủ trương cho phép (hay giúp) Miền Nam tấn công Bắc Việt để tránh
làm phật lòng Bắc kinh và Mạc tư khoa. Hoa kỳ cũng không phản ứng
khi Hànội vi phạm trắng trợn Hiệp ước Bá lê sau 1973. Hoa kỳ còn ép
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ký văn kiện này để có lý do rút quân dưới
chiêu bài “việt nam hóa chiến tranh”. Vã chăng, Hoa kỳ không coi sự
thất trận của Pháp tại Điên Biện Phủ như một tai biến đối với Thế
giới tự do, căn cứ vào những tài liệu ngoại giao của nguyên Đại sứ
Pháp tại Sàigon Jacques de Folin.
Vì quyền lợi tương phản, Mỹ đã dành hết trách nhiệm trong cuộc chiến
để dễ bề thao túng. Quyền lợi và trách nhiệm trở nên quá chênh lệch
nên sự tương cẩn và tương kính không còn nữa. Hai đồng minh như “
đôi đũa lệch”. Cảnh đồng sàn dị mộng chấm dứt thê thảm. Nạn nhân
trực tiếp trong thảm kịch trên đây là gần ba triệu người Việt di cư
hiện tản lạc khắp nơi trên thế giớí. Đồng thời, họ cũng là chứng
nhân lịch sử mang trên thân xác và trong tâm tư mối hờn vong quốc.
Khối diaspora này – dù thành công đến đâu ở hải ngoại – vẫn hướng về
Đất Mẹ. Thành phần lớn tuổi – sắp giã từ cuộc đời - có trách nhiệm
nói lên kịp thời , và nói lớn, cho thế giới biết những sự thật
không tô điểm, không phấn son, về cuộc chiến gian khổ của Nhân dân
và Quân đội Việt nam Cộng hòa vì chính nghĩa. Đúng thế, một số rất
đông trong lớp người này từng nắm giữ vai trò then chốt trong các
chế độ đõã qua. Họ cần nói sự thật, không phải để tự đề cao mà để
vinh danh những anh hùng đã hy sinh và tuẫn tiết trong bóng tối,
chống Côïng sản, Độc tài và Thực dân.
Cuộc chiến gian khổ tại VN đã dạy chúng ta biết bao kinh nghiệm bổ
ích. Về bạn và thù. Về Điểm và Diện trong chiến lược đấu tranh. Về
nhân tình thế thái và vô số vần đề khác.
Chúng ta sẽ ghi mãi trong tâm khảm một điều chán chường là “không
một xứ nào sẳn sàng sống chết vì mục tiêu chiến đấu để tồn tại của
một nước khác. Không ai thương tổ quốc của chúng ta hơn chúng ta.
Dân chủ và nhân quyền là thành quả của một sự tự lực tranh thủ kiên
trì, quả cảm và có kế hoạch của một dân tộc bất khuất”. Một điều
không thể quên khác là “sự liên minh với bất luận một đại cường nào,
dù mạnh đến đâu, rồi cũng sẽ đưa đất nước vào ngõ cụt nếu không có
dân tộc hậu thuẩn. Cái thế dân tộc vô địch và vô song. Không
tin,không tạo và không xử dụng triệt để “thế dân tộc” thì thất bại
đương nhiên, thất bại thê thảm.
Bởi thế, để dựng lại nước, cần lắng nghe rất nhiều nhân chứng trung
thực. Điều này hệ trọng hơn là đốt đuốc đi tìm lãnh tụ giữa ban ngày.
Thật vậy, lãnh đạo là gì nếu không phải là tìm cách thấu triệt ý
muốn của đại chúng và phục vụ hết lòng nhu cầu chính đáng của dân?
Nếu không nhầm mục tiêu đào sâu thêm hố hận thù thì sự thật có phép
lạ nhiệm mầu: Sự thật giải thoát, Sự thật hàn gắn và Sự thật hòa
giải. Và nếu biết sám hối và tránh tái phạm lổi lầm thì Dĩ vãng là
một trường đời dạy nhiều bài học vô giá. Theo lời của học giả George
Santayana, “kẻ nào không thể nhớ dĩ vãng, bị phạt dựng lại
quá khứ.” Kinh nghiệm, vã chăng, từng chứng minh : Chính trị hủy
diệt nhiều hơn đơm hoa. Các thời đại chứng nhân trong lịch sử nhân
loại thường tạo nên những nhà lãnh tụ xuất chúng vì họ được trui
rèn trong thử thách. Trước khi chỉ huy, họ đã là nạn nhân và nhân
chứng.
*****
Năm 1975, CSVN đã thắng. Bằng võ lực, bằng đàn áp. Năm 2008, CSVN
đang thua - và thua đậm – một trận chiến mới: trận chiến thu phục
nhân tâm và giải quyết nạn nghèo đói, kém phát triển của dân tộc.
CS xa dân , phản dân và mất dân. CS thất bại. Người công bộc xã
hội chủ nghĩa thoái hóa đã biến dạng thành chủ nhân ông chễm chệ. CS
có thể gạt một số người nhẹ dạ trong một thới gian nhưng không thể
gạt mãi mãi tất cả mọi người.
Vì thế, phải nói sự thật. Để giúp ý và mở mắt các lãnh tụ sắp đến
của một nước Việt tiến bộ và dân chủ. Nói sự thật để hướng dẫn lớp
trẽ VN, chất xám quý hóa và hy vọng cuối cùng trong kế hoạch phục
hồi xứ sở. Để tránh những lổi lầm và vấp ngã của các thế hệ trước.
Để xóa cái nhục chậm tiến mà Hồ Chí Minh và bè đảng trong Chính trị
bộ Hà-nội đang phủ lên giang sơn gấm vóc Việt Nam từ trên nửa thế kỷ
nay. Chúng ta không còn một chọn lựa nào khác.
Thủy Hoa Trang
California
20.4.2008