22:5' 27/1/2012
Vào thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ đầy đủ tính chất dã man, phi nhân
đạo, đó là: chế độ sở hữu tư bản tư nhân dẫn đến bần cùng hóa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động; thị trường tư bản tự do dẫn đến những
cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, hủy hoại cơ sở vật chất, của cải xã hội
và gây nên những tai họa cho nhân dân lao động; các nước đế quốc đem
quân đi xâm lược các nước lạc hậu, biến các nước này thành thuộc địa, áp
bức, bóc lột dã man nhân dân các nước thuộc địa; các nước đế quốc gây
ra các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh chia lại thị
trường thế giới, hủy hoại nghiêm trọng của cải vật chất, các nền văn hóa
và biết bao sinh mạng con người.
Chống lại sự dã man,
thực hiện chủ nghĩa nhân đạo là giải pháp của nhân loại trên con đường
tiến hóa và phát triển. Sự ra đời của mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet
chính là nhằm thực hiện giải pháp ấy. Chống lại những sự dã man của chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội Soviet mang những đặc trưng và vận hành
đối lập với chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn như:
- Chủ nghĩa tư bản dựa
trên chế độ tư hữu, thì chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết
lập chế độ công hữu trên phạm vi toàn xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản vận
hành theo thị trường tự do, thiếu sự quản lý, điều tiết của nhà nước,
thì chủ nghĩa xã hội xóa bỏ thị trường tự do, quản lý nền kinh tế theo
kế hoạch; nhà nước trực tiếp điều hành mọi hoạt động của đời sống kinh
tế - xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản xâm
lược, áp bức, bóc lột các nước thuộc địa, thì chủ nghĩa xã hội giúp các
nước này đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc, giành độc lập dân
tộc.
- Chủ nghĩa tư bản gây ra chiến tranh đế quốc, thì chủ nghĩa xã hội chống lại chiến tranh đế quốc.
Ra đời và tồn tại gần
74 năm (1917-1991) chủ nghĩa xã hội theo mô hình Soviet (chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô) đã đạt được những thành tựu to lớn:
Thứ nhất, trên
phạm vi toàn xã hội không còn giai cấp bóc lột. Mọi người lao động đều
làm công ăn lương dưới sự lãnh đạo, quản lý của những người cộng sản hết
lòng vì sự nghiệp chung, nhất là trong giai đoạn đầu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; qua đó, khơi dậy được cao trào lao động quên mình
trong đời sống xã hội, tạo nên bước phát triển nhảy vọt về kinh tế - xã
hội. Chỉ sau hai kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hóa (1929 -
1939), đã tạo ra tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đủ sức đánh trả
chiến tranh phátxít. Những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô
trở thành cường quốc về quân sự và kinh tế, đi đầu trong lĩnh vực chinh
phục không gian vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác.
Thứ hai, mọi
nguồn lực xã hội đều do Nhà nước quản lý nên có thể tập trung phát triển
nhanh công nghiệp nặng, xây dựng kết cấu hạ tầng, giải quyết các vấn đề
giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Dưới thời Soviet, nhiều ngành công
nghiệp hiện đại được hình thành, phát triển; hệ thống giao thông, liên
lạc được xây dựng và hoàn thiện; hàng loạt công trình văn hóa, trung tâm
khoa học - công nghệ được mọc lên; giáo dục không phải trả tiền, mọi
người đều được đi học, ai có khả năng thì học cao hơn, trở thành kỹ sư,
bác sĩ, phó tiến sĩ, tiến sĩ để đóng góp tài năng cho đất nước; chữa
bệnh không phải trả tiền, người già được chăm sóc, nuôi dưỡng; mọi người
thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau... Với trình độ kinh tế - xã hội
như Liên Xô trước đây, có thể nói, không có một quốc gia nào lại giải
quyết được những nhiệm vụ ấy và có quan hệ giữa người và người tốt đẹp
như thế.
Thứ ba, toàn
xã hội đoàn kết thành một khối, chung một ý chí, dưới sự chỉ huy thống
nhất, tạo nên sức mạnh có thể đánh bại tất cả các cuộc tiến công của các
thế lực đế quốc từ bên ngoài, càng đánh càng mạnh và chiến thắng. Ngay
từ khi còn non trẻ, chính quyền Soviet đã phải chống lại sự can thiệp
của 14 nước đế quốc bên ngoài và giành thắng lợi. Trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô đã đánh bại phátxít Đức và đánh tan đội
quân Quan Đông của Nhật Bản.
Thứ tư, Liên
Xô là thành trì của cách mạng thế giới, là chỗ dựa và ủng hộ, giúp đỡ
phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ, tiến bộ của
nhân loại; là lực lượng đối trọng với chủ nghĩa tư bản, đế quốc, khiến
chúng không thể "làm mưa làm gió" trên trường quốc tế. Đó cũng là nhân
tố khiến cho chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh mình, nếu không sẽ dẫn đến
nguy cơ tan rã.
Như vậy, mô hình chủ
nghĩa xã hội Soviet đã có sự đóng góp lớn lao cho sự phát triển của nhân
loại, có giá trị vẻ vang trong cả một chặng đường lịch sử. Mặc dù mô
hình ấy đã sụp đổ, nhưng những giá trị nhân đạo, nhân văn của nó không
mất đi, mà hòa vào dòng tiến hóa chung của nhân loại trên con đường tiến
tới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa - xã hội nhân đạo
hoàn bị.
Do ra đời trong điều
kiện đặc biệt - trong vòng bao vây của chủ nghĩa đế quốc, luôn có nguy
cơ bị tiêu diệt bởi chiến tranh đế quốc, trong khi cơ sở vật chất còn ở
trình độ thấp (công nghiệp cơ khí, "văn minh công nghiệp ống khói") - và
cũng do sai lầm chủ quan, ảo tưởng của các đảng cộng sản về sự quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, mà mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet, ở Liên Xô cũng
như ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đã mang tính chất "dân
chủ quân sự", phi tự nhiên, đó là:
- Xóa bỏ mọi hình thức
sở hữu tư nhân, xác lập chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế dưới
hai hình thức: toàn dân và tập thể. Trong điều kiện lực lượng sản xuất
phát triển chưa đầy đủ, sở hữu tư nhân tất yếu còn tồn tại, vì nó còn
tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Và khi lực lượng sản xuất
phát triển chưa đầy đủ, trình độ xã hội hóa chưa cao thì cũng không thể
xác lập chế độ công hữu trong phạm vi toàn xã hội, có chăng chỉ xác lập
được ở một số bộ phận của nền kinh tế. Mặt khác, xóa bỏ sở hữu tư nhân
cũng có nghĩa là xóa bỏ lợi ích tư nhân của con người gắn liền với sở
hữu ấy, mà lợi ích tư nhân chính là động lực hoạt động của con người và
cũng chính là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Và như vậy, đã xóa
bỏ động lực phát triển, gây nên trạng thái trì trệ. Còn chế độ công hữu
được xác lập không dựa trên xã hội hóa sản xuất thì cũng không có cơ sở
khách quan để xác lập thể chế kiểm soát, quản lý có hiệu quả, dẫn đến
tình trạng vô chính phủ, "cha chung không ai khóc", gây nên tham nhũng,
sử dụng không có hiệu quả tư liệu sản xuất, lãng phí của cải xã hội.
- Xóa bỏ thị trường tự
do, trên thực tế đã hạn chế, triệt tiêu tác động của quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, cạnh tranh; cũng chính là hạn chế, triệt tiêu động
lực đổi mới kỹ thuật - công nghệ, động lực phát huy sức sáng tạo của con
người. Và do vậy cũng xóa bỏ cơ chế tự điều chỉnh, tự cân đối, phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, xóa bỏ "bàn tay vô hình", sự
tự điều tiết của thị trường. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế phi thị
trường của Liên Xô trước đây, việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật
vào sản xuất so với các nước phương Tây có nền kinh tế thị trường diễn
ra rất chậm, mặc dù sự phát minh khoa học - kỹ thuật của Liên Xô đứng
vào hàng đầu thế giới. Chỉ có ngành công nghiệp quốc phòng, không gian
vũ trụ là ứng dụng nhanh, còn các ngành khác, đặc biệt là công nghiệp
hàng tiêu dùng, rất ít có sự thay đổi. Mặt khác, nền kinh tế kế hoạch
hóa, phi thị trường cũng không thể thiết lập được sự cân đối liên ngành,
một cơ cấu hợp lý, phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế luôn
vận động, phát triển; bởi nó thiếu "bàn tay vô hình" tự điều tiết kinh
tế phù hợp với quy luật khách quan, trong khi cân đối liên ngành theo kế
hoạch hóa chỉ là sản phẩm chủ quan. Sự mất cân đối của nền kinh tế, cơ
cấu kinh tế bất hợp lý phát sinh trong nhiều năm, không thường xuyên
được khắc phục, tồn đọng lại và bộc lộ ra rõ nhất trong thời kỳ Liên Xô
khủng hoảng và sụp đổ, dường như phải phá hủy toàn bộ và cấu trúc lại
toàn bộ.
- Nền kinh tế dựa trên
chế độ công hữu và kế hoạch hóa dưới sự điều hành, chỉ huy trực tiếp của
nhà nước. Nhà nước vốn là tổ chức quan liêu, trong khi kinh tế - xã hội
lại luôn sống động, thay đổi, phát triển. Để có thể điều hành được kinh
tế - xã hội, bộ máy nhà nước phải phình to lên, và càng phình to lên
thì nó lại càng quan liêu, bất lực. Nhà nước ấy lại là một bộ phận của
hệ thống chính trị được tổ chức theo kiểu hình tháp, trong đó Đảng ở
đỉnh cao quyền lực, còn nhà nước và các tổ chức chính trị khác chỉ là
cánh tay nối dài thực hiện mệnh lệnh của Đảng. Đó là một hệ thống chính
trị tập trung quyền lực, nhưng lại thiếu cơ chế cân bằng và kiểm soát
quyền lực. Do vậy, không chỉ hạn chế sự thích ứng và tự điều chỉnh của
hệ thống, mà còn nảy sinh quan liêu, tham nhũng, lạm quyền, tha hóa
quyền lực. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước vốn là của nhân dân,
trở thành xa lạ, đối lập với nhân dân.
Những khuyết tật trên
đã manh nha xuất hiện ngay từ khi mô hình Soviet mới được xác lập. Nhưng
trong thời kỳ đầu của một chế độ mới, khi khí thế cách mạng của quần
chúng còn đang dâng cao, những người cộng sản giữ vai trò lãnh đạo hết
lòng vì nhân dân, xã hội đang cần sự đoàn kết, nhất trí, chỉ huy thống
nhất để chống lại sự xâm lược từ bên ngoài, thì những khuyết tật trên ít
biểu hiện ra hoặc bị che lấp đi. Hơn nữa, trong điều kiện của cuộc cách
mạng công nghệ lần thứ nhất, cơ sở vật chất là nền công nghiệp cơ khí,
"văn minh công nghiệp ống khói", sự phát triển sản xuất chủ yếu theo bề
rộng, thì mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet còn có khả năng thích ứng.
Những khuyết tật vốn có
của mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet cứ âm thầm diễn ra trong nhiều thập
kỷ và ngày càng trầm trọng là nguyên nhân nội sinh dẫn đến khủng hoảng
của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Song, sự khủng hoảng còn do nguyên nhân
sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và bối cảnh quốc tế thay
đổi. Từ sau thập kỷ 60 của thế kỷ XX, thế giới diễn ra cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chuyển sang xã hội hậu
công nghiệp, sản xuất cần phát triển theo bề sâu bằng việc ứng dụng
khoa học - công nghệ hiện đại, thì mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet không
còn thích ứng được nữa. Thực tế cho thấy, các nước tư bản với nền kinh
tế thị trường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ rất nhanh, còn các
nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế hành chính, bao cấp lại ứng dụng
rất chậm. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, các nước tư bản có bước tiến
nhảy vọt về kinh tế - xã hội, còn các nước xã hội chủ nghĩa thì chững
lại. Vấn đề ai thắng ai quyết định bởi năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khiến cho xu hướng
đối đầu giữa hai hệ thống thế giới không còn phù hợp và chuyển sang đối
thoại, hợp tác giữa các quốc gia dân tộc, các hàng rào ngăn cách bị xóa
bỏ, mở đường cho giao lưu, hội nhập toàn cầu. Do vậy, vào những năm 80
của thế kỷ XX diễn ra cuộc khủng hoảng toàn bộ hệ thống xã hội chủ
nghĩa. Các nước trong hệ thống này thực hiện công cuộc cải tổ, cải cách,
đổi mới để chuyển đổi mô hình xã hội.
Sự chuyển đổi mô hình
chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, nhưng có dẫn đến sụp đổ hay
không lại trực tiếp phụ thuộc vào nhân tố chủ quan.
Thực tế cho thấy, ở
những nơi mà những người cộng sản còn kiên định cách mạng, chưa bị tha
hóa, như Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác, thì công cuộc cải
cách, đổi mới giành thắng lợi. Bởi vì, khi có đội ngũ cán bộ kiên định
cách mạng, sẽ đề ra được đường lối cải cách, đổi mới đúng đắn: cải cách,
đổi mới để thay đổi mô hình chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập, nhưng
vẫn giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu ấy bằng
phương thức mới; có bước đi đúng đắn trong thực hiện công cuộc cải cách,
đổi mới; mở rộng dân chủ và không chấp nhận đa đảng đối lập; giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hội nhập quốc tế, nhưng giữ vững độc
lập về chính trị, tiếp tục thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội… Thành công trong thực tiễn công cuộc cải cách, mở cửa của Trung
Quốc và công cuộc đổi mới của Việt Nam đã mở ra một triển vọng mới của
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thành công ấy có vai trò quan trọng
của người đứng đầu các đảng cộng sản.
Còn ở những nơi mà lực
lượng cầm quyền đã tha hóa, như ở Liên Xô trước đây, thì công cuộc cải
tổ gặp phải thất bại. Bởi vì, khi đội ngũ cán bộ đã tha hóa, đặc biệt là
cán bộ cấp cao, thì sẽ đề ra đường lối sai lầm và áp dụng vào thực tiễn
thất bại - vì thực hiện cải tổ mô hình chủ nghĩa xã hội mà lại từ bỏ
mục tiêu xã hội chủ nghĩa; thiếu nhất quán về trình tự thực hiện cải tổ;
muốn dựa vào các nước đế quốc bên ngoài để thực hiện cải tổ… Ở Liên Xô
trước đây, sai lầm trước hết thuộc về Gorbachop, nguyên Tổng Bí thư Ủy
ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Do thực hiện đường lối cải tổ sai
lầm của Gorbachop mà từ khủng hoảng kinh tế - xã hội đã dẫn đến khủng
hoảng chính trị - xã hội, và sau đó, khủng hoảng chính trị lại làm trầm
trọng thêm khủng hoảng kinh tế. Bất lực trước hiện thực, Gorbachop đã đi
từ sai lầm đến phản bội, áp dụng những giải pháp chống phá Đảng Cộng
sản - dùng phương tiện thông tin đại chúng tấn công vào hệ tư tưởng,
xuyên tạc truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc; xóa bỏ Điều 6 Hiến
pháp Liên Xô, thực chất là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản về
mặt pháp lý; thừa nhận đa nguyên, đa đảng, thực chất là tạo điều kiện
cho các lực lượng chính trị đối lập lên nắm quyền lực chính trị; vô hiệu
hóa các cơ quan chuyên công tác Đảng (Thường trực Ban Bí thư và các ban
của Đảng); trung lập hóa lực lượng vũ trang (quân đội, cảnh sát), thực
chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ
trang; rồi cuối cùng, giải tán Đảng Cộng sản Liên Xô… Kết quả là, chủ
nghĩa xã hội sụp đổ, Liên Xô tan rã và Đảng Cộng sản mất vai trò cầm
quyền, lãnh đạo.
Từ những sự phân tích
trên cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet, chủ nghĩa xã hội dân chủ
hoặc bất cứ mô hình xã hội nào khác đều không thể là mô hình hoàn
thiện, hoàn mỹ. Có thể coi đó là những phương án của loài người nhằm
giải quyết những vấn đề đặt ra từ đời sống xã hội trong những điều kiện
lịch sử nhất định. Những phương án này có những thành công, nhưng cũng
có không ít khiếm khuyết, và khi điều kiện xã hội thay đổi thì cần có sự
đổi mới hoặc được thay bằng phương án khác. Có thể nói, sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội theo mô hình Soviet ở Liên Xô và Đông Âu là thất bại
lớn của chủ nghĩa xã hội. Song điều đó không có nghĩa là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội đã đi vào “ngõ cụt”, là “con đường sai lầm” của
lịch sử. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tiến tới xã hội nhân đạo hoàn bị,
khắc phục mọi tha hóa, áp bức, bóc lột, bất công, bảo đảm điều kiện cho
sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Với mục tiêu ấy, chẳng lẽ
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội lại là sai lầm của lịch sử. Nếu con
đường ấy dẫn đến "ngõ cụt" thì nhân loại sẽ đi đến đâu?./.