1.- TỔNG QUAN
Chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 30 năm, từ 1946
đến 1975, có thể chia thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ 1946 đến 1949: Khi Pháp đưa
quân tái chiếm Việt Nam, Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh (VM) và
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) nhượng bộ và thỏa hiệp
với Pháp, ký liên tiếp hai thỏa ước để duy trì quyền lực của VM và
đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Tuy nhiên, Pháp không ngừng tiến
quân và ép VM đến đường cùng. Hồ Chí Minh liền họp trung ương đảng
CSĐD trong hai ngày 18 và 19-12-1946 tại Vạn Phúc (Hà Đông) để tham
khảo. Cuộc họp đi đến quyết định tấn công Pháp vào tối
19-12-1946.(1) Thế là chiến tranh không tuyên chiến bùng nổ. Từ năm
1946 đến năm 1949, VM vừa đánh, vừa đàm, vừa trốn chạy lên miền rừng
núi để chờ đợi thời cơ..
Giai đoạn thứ hai từ 1950 đến 1954: Trong cuộc tranh
chấp tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc
(CSTQ) thành công. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng chạy ra Đài
Loan. Mao Trạch Đông công bố thành lập chính thể Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc).
Hồ Chí Minh và VM cầu viện CSTQ. Nhờ sự giúp đỡ về
mọi mặt của của Trung Quốc, VM phản công từ năm 1950 và cuối cùng
chiến thắng năm 1954. Chẳng những VM, mà cả Việt Nam sẽ phải trả giá
cho sự cầu viện và chiến thắng nầy. Hiệp định Genève ngày 20-7-1954,
chia hai đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (tức VM cộng sản) ở miền Bắc, Quốc Gia Việt Nam (hậu thân
là Việt Nam Cộng Hòa) ở miền Nam. Trước khi ký hiệp định Genève, VM
đã đưa ra kế hoạch gài người ở lại miền Nam, trường kỳ mai phục để
chống lại QGVN.(2)
Giai đoạn thứ ba từ 1960 đến 1975: Từ năm 1955, Bắc
Việt bắt đầu kiếm cách gây hấn, đòi hỏi Nam Việt phải tổ chức tổng
tuyển cử vào năm 1956 theo dự kiến trong điều 7 bản "Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương" ngày 21-7-1954. Cần chú ý, bản tuyên bố cuối cùng nầy không
có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, kể cả phái đoàn VM tức VNDCCH.
Một bản tuyên bố không có chữ ký không thể là một
văn bản pháp lý có tính cưỡng hành, mà chỉ có tính cách dự kiến
tương lai mà thôi. Phái đoàn QGVN chẳng những không ký hiệp định
Genève, mà còn không tham dự vào bản "Tuyên bố cuối cùng... ", nên
tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của bản tuyên bố nầy và
không chấp nhận tổng tuyển cử.
Lấy lý do Nam Việt không chấp nhận tổng tuyển cử,
Bắc Việt quyết định tấn công Nam Việt. Đầu tiên, Ban Bí thư Trung
ương đảng Lao Động (LĐ, hậu thân của đảng CSĐD) ra chỉ thị ngày
24-5-1958, tổ chức học tập chủ thuyết Mác-Lê để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Bắc Việt và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Nam Việt.
Vào cuối năm nầy, Lê Duẫn được bí mật gởi vào Nam để
nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc, bản báo cáo của Lê Duẫn đã đưa
đến quyết định của Uỷ ban Trung ương đảng LĐ tại hội nghị lần thứ 15
ở Hà Nội ngày 13-5-1959, theo đó đảng LĐ ra nghị quyết thống nhất
đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến
lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên Nhân Dân ngày 14-5-1959)
Nghị quyết trên đây được lập lại trong Đại hội 3
đảng LĐ, khai diễn từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960 tại Hà Nội, mệnh
danh là "Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà", đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây
dựng miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và "giải phóng" miền Nam
bằng võ lực. (3) Thế là chiến tranh tái phát từ năm 1960 đến năm
1975. Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt ngày 30-4-1975.
Trong ba giai đoạn trên đây của cuộc chiến ba mươi
năm ở Việt Nam, Trung Quốc đã giúp phía VM cộng sản từ giai đoạn thứ
hai tức từ năm 1950 trở đi. Sự giúp đỡ của Trung Quốc cho phe cộng
sản Việt Nam đã quá rõ ràng, không cần nhắc lại. Ở đây, chỉ xin thử
bàn Trung Quốc đã hưởng lợi gì sau khi giúp phe CSVN thắng thế?
2.- TRONG GIAI ĐOẠN 1950-1954
An ninh biên giới nam Trung Quốc: Khi CHNDTH được
thành lập ngày 1-10-1949, chiến tranh giữa VM và Pháp đã diễn ra
được ba năm. Cuối năm 1949, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện là Lý Bích
Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ.(4a) Theo sự thỏa
thuận giữa hai bên, chính phủ VNDCCH thừa nhận chính phủ CHNDTH ngày
15-1-1950. Ngay sau đó, CHNDTH công nhận trở lại chính phủ VNDCCH
ngày 18-1-1950.
Ngày 30-1-1950, Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh cầu viện.
Sau đó, Hồ Chí Minh tiếp tục qua Liên Xô ngày 3-2-1950 để xin Liên
Xô viện trợ, nhưng Joseph Stalin, lãnh tụ Liên Xô, trả lời với Hồ
Chí Minh rằng việc giúp đỡ VM bước đầu là công việc của CHNDTH.( 4b)
Nguyên lúc đó, Liên Xô mới ra khỏi thế chiến thứ hai, vừa lo tái
thiết đất nước, vừa lo tổ chức thống trị các nước Đông Âu mà Liên Xô
mới chiếm được sau thế chiến thứ hai, và Liên Xô ít có quyền lợi ở
Viễn đông, nên Liên Xô ít chú trọng đến Việt Nam.
Ngày 17-2-1950, Hồ Chí Minh rời Moscow, trở về Bắc
Kinh. Tại đây, một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa VM và Trung Quốc
được ký kết, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ (ám chỉ
Quốc Dân Đảng Trung Hoa và biệt kích Pháp).(5) Hiệp ước nầy cho thấy
rõ chủ đích phòng thủ biên giới của CHNDTH khi viện trợ cho VM.
Nguyên khi Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) chiếm được lục
địa, thì Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH) chạy ra
Đài Loan, cố thủ ở đây. Ngoài ra, khoảng 30,000 quân QDĐTH tràn qua
Việt Nam. Số quân nầy bị quân Pháp tước khí giới và tập trung ở vùng
mỏ than Đông Triều.(6)
Cần chú ý, cuối năm 1949, đảo Hài Nam (ở gần Việt
Nam) vẫn còn bất ổn. Cho đến ngày 1-5-1950, CSTQ mới đánh chiếm được
đảo Hải Nam. Từ đó Hải Nam chính thức thuộc Trung Quốc, trở thành
đặc khu trực thuộc tỉnh Quảng Đông của CHNDTH. Vì vậy, đảng CSTQ rất
lo ngại về tình hình biên giới phía nam, sợ Hoa Kỳ hay Pháp giúp tàn
quân QDĐTH trở về quấy phá biên giới phía NamTrung Quốc.
Trung Quốc gởi võ khí, đạn dược qua giúp VM chống
Pháp để giữ yên và tạo một vùng trái độn giữa Việt Nam và nam Trung
Quốc. Số võ khí, đạn dược nầy do quân QDĐTH bỏ lại lục địa trước khi
tháo chạy ra Đài Loan. Chẳng những thế, đảng CSTQ còn gởi cố vấn
chính trị và quân sự sang giúp VM.
Chính tướng Trần Canh (Chen Geng), một danh tướng
thân cận của Mao Trạch Đông, được gởi sang làm cố vấn cho Hồ Chí
Minh, đã giúp VM chiến thắng trận đầu tiên tại Đồng Khê ngày
16-9-1950. Đồng Khê ở phía nam Cao Bằng, phía bắc Thất Khê. (Thất
Khê ở phía bắc Lạng Sơn).
Cũng nhờ chiến thuật công đồn đả viện do Trần Canh
cố vấn, tại vùng Cao Bằng-Lạng Sơn, VM cử đại đoàn (sư đoàn) 308,
trung đoàn 209 và một tiểu đoàn độc lập, mở hai trận phục kích riêng
lẻ gần Đồng Khê, bắt được hai trung tá Lepage (8-10-1950) và Charton
(10-10-1950).(7) Số tù binh Pháp bị bắt trong các trận nầy lên đến
4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai sĩ quan
cấp trung tá.
Từ đây, VM làm chủ vùng Cao Bằng, Đồng Khê, Thất
Khê, khai thông hoàn toàn khu vực biên giới giữa Trung Quốc và chiến
khu Việt Bắc của VM, tạo một vùng an toàn cho VM dọc biên giới Việt
Hoa, giúp việc chuyển vận hàng viện trợ của Trung Quốc cho VM được
dễ dàng.
Sau trận nầy, Trung Quốc yên tâm rằng từ đây tàn
quân QDĐTH không còn ẩn trốn trong vùng rừng núi biên giới giữa
Trung Quốc với Việt Nam, liền rút đại tướng Trần Canh về Bắc Kinh
tháng 11-1950. Lúc đó, chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên) bùng nổ ngày
25-6-1950. Tháng 6-1951, Trần Canh được lãnh đạo Trung Quốc gởi qua
cầm quân ở Cao Ly.
Như thế, đảng CSTQ giúp VM và đảng CSĐD chống Pháp ở
Việt Nam năm 1950 trước tiên vì nhu cầu an ninh biên giới phía nam
của Trung Quốc, như trước đây nhà Thanh gởi quân qua đánh Pháp ở Bắc
Kỳ để cầm chân và không cho quân Pháp tràn qua biên giới của nhà
Thanh.
Ngang hàng với các cường quốc: Đảng CSTQ làm chủ lục
địa và thành lập chế độ CHNDTH ngày 1-10-1949. Lúc đó, Trung Quốc
chỉ là một nước chậm tiến, nông nghiệp lạc hậu, bị các cường quốc
tây phương xem nhẹ, chưa được cho thay thế ghế hội viên của Trung
Hoa Dân Quốc ở Liên Hiệp Quốc.
Sau khi hiệp ước đình chiến ở Cao Ly (Triều Tiên)
được ký kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon) ngày 27-7-1953, và khi
chiến tranh Việt Nam càng ngày càng quyết liệt, Liên Xô đề nghị với
Hoa Kỳ, Anh, Pháp họp cùng Trung Quốc vào tháng 8-1953 để giải quyết
những tranh chấp còn lại ở Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Đề
nghị nầy bị tam cường tây phương bác bỏ, vì cả ba nước không thừa
nhận Trung Quốc là một cường quốc ngang hàng với họ.(8a)
Tháng 2-1954, Liên Xô lập lại ý kiến nầy. Trước tình
hình ở Đông Dương càng ngày càng xấu về phía quân đội Liên Hiệp Pháp
và càng ngày càng thắng thế về phía bộ đội VM, Hoa Kỳ, Anh, Pháp
đành phải chấp nhận mời Trung Quốc đến họp để giải quyết chuyện Đông
Dương.( 8b)
Dầu vậy, các nước Tây phương vẫn chưa xem trọng
Trung Quốc. Trưởng phái đoàn Hòa Kỳ đầu tiên tại hội nghị Genève là
ngoại trưởng John Foster Dulles. Khi gặp trưởng phái đoàn Trung Quốc
tại Genève là thủ tướng kiêm ngoại trưởng Châu Ân Lai, John Foster
Dulles vẫn không thèm bắt tay xã giao.(9)
Như thế, từ một nước mới được thành lập, kinh tế lạc
hậu, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được ngồi ngang hàng với
các cường quốc Tây phương tại hội nghị Genève. Đây là một thắng lợi
ngoại giao quan trọng của Trung Quốc mà Trung Quốc không đóng góp
xương máu trên chiến trường.
Trong sách Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên
viết rằng trong chiến tranh chống lại miền Nam từ năm 1960, Lê Duẫn,
bí thư thứ nhất đảng LĐ (năm 1976 đổi là tổng bí thư), đã từng nói:
"Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc."(10) Thật ra,
ngay từ năm 1950, VM cũng đã đánh cho Trung Quốc.
Cố vấn hay chỉ huy: Vào thế kỷ 19, Pháp đến xâm lăng
và bảo hộ Việt Nam. Nước Pháp xa Việt Nam, nằm ở miền ôn đới. Người
Pháp thuộc chủng tộc da trắng, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa và văn
minh khác hẳn người Việt. Người Pháp đến Việt Nam để khai thác và
bóc lột, nhưng người Pháp không thích hợp với phong thổ Việt Nam,
nên người Pháp ít ở lại Việt Nam.
Sau thế chiến thứ hai tức sau năm 1945, tuy Pháp
muốn tái chiếm Việt Nam, nhưng người Việt Nam luôn luôn có tinh thần
độc lập, sẵn sàng đứng lên chống Pháp, như trước đây đã từng chiến
đấu chống Pháp. Cuộc kháng chiến có thể khó khăn nhưng trào lưu
chung trên thế giới lúc đó là giải trừ thuộc địa, nên trước sau gì
nước ta cũng có thể tự lực đánh đuổi được người Pháp, mà không nhất
thiết phải dựa vào Trung Quốc mới có thể thành công. Các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm trong lịch sử trước đây rất cam khổ, nhưng dân
tộc Việt luôn luôn tự lực bảo vệ nền độc lập dân tộc mà không cần
ngoại quốc viện trợ. Còn những lần các triều đại Việt Nam nhờ đến
Trung Quốc, đều bị Trung Quốc xâm lăng. Ví dụ cuối đời Trần và cuối
đời Lê là những bài học rõ nét nhất.
Trong sách Mặt thật, tác giả Thành Tín, tức Bùi Tín,
nguyên đại tá bộ đội cộng sản, nguyên phó tổng biên tập báo Nhân
Dân, đã viết: “...Nếu như hồi ấy đường lối đấu tranh đại loại như
của cụ Phan [Châu Trinh] đề xướng được chấp nhận và thành hiện thực
thì đất nước ta có thể khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất,
có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh và tránh bị
cỗ máy nghiền mà chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao đã đưa đến thông
qua đảng cộng sản với biết bao hậu quả nặng nề mà chưa biết đến bao
giờ mới khắc phục được...” (11)
Lịch sử bang giao Việt Hoa cho thấy rằng các nhà cầm
quyền Trung Quốc nguy hiểm không kém gì thực dân Pháp, nếu không
muốn nói là nguy hiểm hơn. Bằng chứng là vào thế kỷ 15, nhà Minh xâm
lăng, khai thác và bóc lột Đại Việt tàn bạo không khác gì thực dân
Pháp (xin xem Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Nhà Minh còn rất
thâm độc, tịch thu hết sách vở, tài liệu, bia đá, nhân tài của Đại
Việt đem về Trung Hoa, nghĩa là nhà Minh chủ trương tiêu diệt toàn
bộ văn hóa Đại Việt.
Từ thời cổ xưa, các triều đại quân chủ Trung Quốc
không ngừng bành trướng lãnh thổ. Trung Quốc đã xâm chiếm và đồng
hóa tất cả các nước chung quanh Trung Quốc, như Mãn Châu, Tân Cương,
Mông Cổ, Tây Tạng, Vân Nam, nhưng Trung Quốc chỉ xâm lăng Việt Nam
chứ không xâm chiếm được Việt Nam vĩnh viễn.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc luôn luôn tự tôn, cho
rằng Việt Nam là phiên thuộc của Trung Quốc. Tác giả Sở Cuồng Lê Dư
kể lại rằng, ngay cả nhà cách mạng Tôn Dật Tiên (Trung Quốc) cũng đã
nói với chính khách Nhật Bản là tử tước Khuyển Dưỡng Nghị, tức
Inukai Ki, rằng: “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị
chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có
tương lai.” (12) Dầu Tôn Dật Tiên phát biểu như thế, Việt Nam là
nước duy nhất nằm sát Trung Quốc và kháng cự lại được nền đô hộ của
Trung Quốc.
Người Trung Quốc thuộc chủng tộc da vàng, có nền văn
hóa và văn minh gần giống người Việt. Vì vậy, khác với người Pháp,
người Trung Quốc rất dễ hòa lẫn với người Việt, nghĩa là người Trung
Quốc đến Việt Nam, và có thể ở lại sinh sống tại Việt Nam.
Dưới thời quân chủ, khoảng từ 2 đến 4 năm, do yếu
thế, triều đình Việt cử sứ thần sang Trung Hoa triều cống một lần,
nhưng vua nước Việt, tức nguyên thủ quốc gia, chưa bao giờ sang Bắc
Kinh bệ kiến các hoàng đế Trung Hoa, trừ lần Lê Chiêu Thống lưu vong
năm 1789, và Phạm Công Trị giả vua Quang Trung sang Thanh năm 1790.
Trong khi đó, từ năm 1950 đến năm 1954, Hồ Chí Minh,
nguyên thủ nhà nước VNDCCH, bốn lần sang Bắc Kinh hội kiến các lãnh
tụ CSTH để xin cầu viện. Đó là các lần: 1) Đến Bắc Kinh 30-1-1950
rồi qua Moscow. 2) Đến Nam Ninh ngày 5-2-1951. 3) Đến Bắc Kinh cuối
tháng 9-1952, rồi đi Moscow. 4) Đến Bắc Kinh cuối tháng 3-1954, rồi
đi Moscow.
Ngang nhiên hơn nữa, năm 1954, Châu Ân Lai gọi Hồ
Chí Minh sang Liễu Châu nói là hội họp và thảo luận, nhưng thực chất
là ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải ký hiệp định Genève chia hai nước
Việt Nam. Thế là Hồ Chí Minh đành nghe theo.(13) Chưa có thời đại
nào mà chính quyền Trung Hoa chi phối mạnh mẽ, gần như chỉ huy nhà
nước Việt Nam như CHNDTH đối với VNDCCH.
2.- TRONG GIAI ĐOẠN 1960-1975
Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Sau khi nhờ CSTQ để
chống Pháp, nhất là chuẩn bị cầu viện để tiến đánh miền Nam, đương
nhiên VNDCCH phải biết điều với Trung Quốc. Sự biết điều nầy thấy rõ
qua công hàm ngày 14-9-1958 do Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt ký,
tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Phạm Văn Đồng ký công hàm
trên phải được sự chuẩn thuận của Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng
Lao Động.
Trong khi giúp đỡ Bắc Việt để tiến đánh Nam Việt,
Trung Quốc theo dõi diễn tiến tình hình chiến tranh Việt Nam, sẵn
sàng chuẩn bị ra tay để thủ lợi. Ngày 27-1-1973, tại Paris bốn bên
lâm chiến ở Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam) ký kết “Hiệp định
chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”, theo đó Hoa Kỳ
rút quân hoàn toàn ra khỏi Việt Nam.
Đây là thời cơ thuận tiện để Trung Quốc ra tay, vì
Hoa Kỳ rút đi, VNCH bận rộn một mình chống đỡ những cuộc tấn công
của VNDCCH và MTDTGPMN. Trung Quốc liền đưa hạm đội hùng hậu đánh
chiếm hải đảo Hoàng Sa của VNCH. Biết rằng khó thắng, nhưng Hải quân
VNCH do Ngụy Văn Thà chỉ huy, cương quyết bảo vệ quê hương, tiếp nối
truyền thống anh dũng của tổ tiên chúng ta.
Ngụy Văn Thà và đồng đội hy sinh. Trung Quốc một lần
nữa xâm lăng Việt Nam. Bắc Việt cộng sản im lặng, không lên tiếng.
Đây là khởi đầu của thời kỳ Trung Quốc tiến xuống các hải đảo phía
nam.
Trung Quốc bắt tay với Hoa Kỳ và vào Liên Hiệp Quốc:
Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vào Việt Nam nhắm mục đích
giúp Nam Việt chận đứng sự bành trướng của khối cộng sản. Sau một
thời gian có mặt tại Việt Nam, từ thập niên 60, Hoa Kỳ nhận ra hai
điều:
Thứ nhất, các nước cộng sản không phải là một khối
chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi
mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách
khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô
và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại
gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính
sách toàn cầu của Hoa Kỳ.
Thứ hai, nếu Hoa Kỳ càng giúp VNCH (Nam Việt) chống
lại VNDCCH (Bắc Việt), thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết
để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh
thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song
phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản thứ ba. Nói cách
khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên
Xô và Trung Quốc xích lại với nhau.
Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics),
vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra
rằng "Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc
tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển
nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa
ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần
còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo
của họ."(14 a)
Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn
đi xa hơn, cho rằng "hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn
là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống
đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận
thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù
thực sự là Liên Xô."(14b)
Chính vì vậy, Hoa Kỳ đã thay đổi chiến lược toàn
cầu, bắt đầu rút lui khỏi Việt Nam và kiếm cách bắt tay với Trung
Quốc. Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ
trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trong
một cuộc phỏng vấn, đã cho biết kết quả cuộc chuyển hướng ngoại giao
của Hoa Kỳ: "Làm cho người Trung Quốc tách rời khỏi Liên Xô và
nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều
việc chiến thắng ở Việt Nam." (14b)
Sự giao thiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu bằng
cuộc đấu bóng bàn giao hữu giữa hai đội bóng bàn Hoa Kỳ và Trung
Quốc ngày 14-4-1971 dưới sự tiếp đón và chứng kiến của thủ tướng
Châu Ân Lai tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh. Sau đó, ngày
9-7-1971, Henri Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống
Hoa Kỳ, có mặt ở Bắc Kinh và được Châu Ân Lai tiếp kiến.
Ngày 25-10-1971, Đại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp
Quốc biểu quyết chấp nhận CHNDTH được giữ ghế đại biểu Trung Quốc
thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết,
nghĩa là Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để
bắt tay với CHNDTH. Cần để ý thêm là Trung Quốc là hội viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, có quyền bỏ phiếu phủ quyết
những vần đề quan trọng đưa ra trước Liên Hiệp Quốc.
Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm
Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà Nixon cho rằng đây
là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới.”(15) Cuộc viếng thăm nầy
đưa đến "Thông cáo chung Thượng Hải" ngày 28-2 theo đó hai bên đưa
ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng
nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải
thiện bang giao song phương.
Như thế, rõ ràng Trung Quốc lợi dụng Bắc và Nam Việt
Nam đang đánh nhau trong giai đoạn từ 1960 đến 1975 để đánh chiến
hải đảo Hoàng Sa, mở đầu cuộc bành trướng xuống phương nam. Đồng
thời cũng nhờ chiến tranh Việt Nam lần nầy, Trung Quốc bắt tay được
với Hoa Kỳ, được vào Liên Hiệp Quốc, được giữ ghế thường trực tại
Hội đồng bảo an. Từ đó, quan trọng nhất là Trung Quốc thoát ra khỏi
tình trạng bị cô lập, mở mang giao dịch với các nước trên thế giới
và càng ngày càng thăng tiến trong sinh hoạt chính trị quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong chiến tranh ba mươi năm vừa qua trên đất nước
Việt Nam (1946-1975), có thể nói Trung Quốc đã hưởng lợi tối đa nhờ
Trung Quốc đã viện trợ võ khí, đạn dược, quân trang quân dụng và làm
cố vấn về chính trị lẫn quân sự cho VNDCCH từ 1950 trở đi.
Thành lập năm 1949, tuy vẫn còn là một nước lạc hậu
về kinh tế, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được xếp ngang hàng
với các cường quốc Tây phương năm 1954, bắt tay với Hoa Kỳ và vào
Liên Hiệp Quốc năm 1971, giải tỏa thế cô lập, và thăng tiến nhanh
chóng trên đường giao thương quốc tế.
Riêng đối với Việt Nam, cả ngàn năm qua, các triều
đại Trung Quốc phải đem binh hùng tướng mạnh để chinh phục nước
Việt, nhưng đều thất bại. Người Việt luôn luôn bảo vệ chủ quyền đất
nước, gìn giữ độc lập dân tộc. Từ năm 1950, khi cầu viện Trung Quốc
để chống Pháp, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD đã tự hạ mình làm phiên
thuộc, thần phục Trung Quốc, hoàn toàn vâng lệnh Trung Quốc, từ
những phong trào chính trị như rèn cán chỉnh quân (chỉnh huấn), cải
cách ruộng đất (thổ cải), đến những chiến dịch hành quân, kể cả
chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.(16) Chưa bao giờ nhà cầm quyền
Trung Quốc kiểm soát Việt Nam chặt chẽ như vậy.
Cũng cả hàng ngàn năm qua, biết bao nhiêu lần Trung
Quốc muốn chinh phục Việt Nam để tìm đường xuống Đông Nam Á, nhưng
đều bị đẩy lui. Cho đến thế kỷ 20, vì thần phục Trung Quốc, Hồ Chí
Minh, Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động đã ký công hàm tán thành quyết
định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng hải phận 12
hải lý của Trung Quốc, mở đường cho Trung Quốc xuống phía nam. Sau
đó, năm 1974 Bắc Việt và đảng Lao Động đồng lõa làm ngơ để Trung
Quốc thôn tính hải đảo Hoàng Sa, cam tâm nhìn người nước ngoài xâu
xé một phần lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam kính yêu.
Cả ngàn năm qua, các vua chúa Trung Hoa không chiếm
được một tấc đất của Việt Nam, không làm sụp đổ ải Nam Quan. Chỉ đến
thế kỷ 20, CSTQ chiếm đất, chiếm đảo của chúng ta, không phải do tài
ba của CSTQ, mà do Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo CSVN, rước voi
về giày mộ tổ, đúng theo kế hoạch thâm độc của cường quyền phương
Bắc là “dĩ Việt chế Việt” (dùng người Việt chế ngự người Việt).
Như thế, trong chiến tranh ba mươi năm vừa qua trên
đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD nhờ CSTQ để đánh Pháp,
không khác gì nhờ một kẻ cướp đuổi một tên trộm. Tên trộm bỏ chạy
thì kẻ cướp vào nhà. Đây không phải chỉ là những sai lầm chiến lược
của Hồ Chí Minh và đảng Lao Động Việt Nam, mà đây chính là tội lỗi
phản quốc lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim. Những tội
lỗi nầy hiện đưa đến những hậu quả tai hại mà người Việt Nam ngày
nay đang phải đối mặt.
TRẦN GIA PHỤNG
______________________________________
CHÚ THÍCH
1. Trung Tâm Từ Điển Bách
Khoa Quân Sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân
Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.
2. Tiền Giang, “Chu Ân Lai
và Hội nghị Genève”, Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã,
chương 27, bản dịch của Tam Dương, "Hội nghị Liễu Châu then chốt",
tạp chí Thế Kỷ 21, California: số 219 (7-2007) và số 220 (8-2007).
3. Chính Đạo, Việt Nam
niên biểu 1939-1975, Tập I-C: 1955-1963, Houston: Nxb. Văn Hoá,
2000, tt. 152, 180.
4. Qiang Zhai, China &
Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press,
2000, tr. 13 (4a), tr. 17 (4b).
5. Bernard Fall, Le
Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.
6. Đoàn Thêm, Hai mươi năm
qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, California: Nxb Xuân Thu tái bản,
không đề năm, tr. 62.
7. Qiang Zhai, sđd. tt.
29-31.
8. Chính Đạo, Việt Nam
niên biểu 1939-1975, Tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hoá, 1997,
tr. 334 (8a), tr. 370 (8b).
9. Henry Kissinger, White
House Years, Toronto: Little, Brown and Company, 1979, tr. 1054.
10. Vũ Thư Hiên, Đêm giữa
ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb.
Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.
11. Thành Tín, Mặt thật,
USA: Nxb. Saigon Press, 1993, tr. 102.
12. Hoàng Văn Chí, Từ thực
dân đến cộng sản, [nguyên bản bằng Anh văn], bản dịch của Mạc Định,
Paris: 1962, tr. 22.
13. Tiền Giang, báo đã
dẫn.
14. Roger Warner, Shooting
at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont,
1996, tr. 333-334 (14a), 336 (14b).
15. John S. Bowman, tổng
biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc
từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190.
16. Được tin Pháp chiếm
Điện Biên Phủ (ĐBP) ngày 22-11-1953, tướng Vi Quốc Thanh, đứng đầu
bộ tư lệnh cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam, một mặt yêu cầu
VM đưa quân bao vây ĐBP, một mặt báo về Bắc Kinh. Bắc Kinh cho rằng
chiến dịch ĐBP chẳng những quan trọng về quân sự và chính trị, mà
còn ảnh hưởng quốc tế, nên hứa hẹn sẽ viện trợ cho VM tối đa để tấn
công ĐBP. Từ đó, Bắc Kinh tăng viện võ khí, cao xạ, gởi cả những
chuyên viên đào chiến hào đã có kinh nghiệm trong chiến tranh Triều
Tiên sang giúp VM. Đồng thời Bắc Kinh và bộ tư lệnh cố vấn Trung
Quốc chỉ huy thật sát chiến dịch ĐBP.(Qiang Zhai, sđd. tt. 46-49.)