Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

39. Cấu trúc khu vực


Ảnh minh họa
LTS. Cấu trúc quốc tế là một hình thái quan hệ quốc tế, bao gồm các nhân tố an ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học -công nghệ mà trong đó các quốc gia đấu tranh và hợp tác với nhau. Cấu trúc quốc tế của khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương gần đây có nhiều chuyển biến. Nó đang hình thành kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc 20 năm về trước. Chùm Bài chủ lần này trân trọng giới thiệu những chia sẻ suy nghĩ của một nhà nghiên cứu trẻ về cấu trúc khu vực mà Việt Nam ta đang sống.

Nhu cầu hợp tác và điểm nóng an ninh
Trung Quốc đóng tàu sân bay và liên tục tập trận trên biển. Mỹ tuyên bố sẽ cung cấp cho Indonesia 24 chiến đấu cơ phản lực F-16, Singapore cho biết sẽ chi 23 tỉ USD mua trực thăng tuần tra. Malaysia mua 18 chiến đấu cơ đa năng. Việt Nam mua chiến đấu cơ của Nga. Ấn Độ đưa tàu chiến đến biển Thái Bình Dương... Gần đây nhất, trong chuyến công du châu Á, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố Washington sẽ triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ đến Australia... Nga tham gia tích cực hơn vào các diễn đàn khu vực Đông Á, ARF. Bên cạnh đó, nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi nhiều cấp, nhiều kênh đã được tổ chức để bàn về tình hình tại Biển Đông và vấn đề hợp tác an ninh khu vực.
Quả thực nhu cầu hợp tác để tiến tới xây dựng cấu trúc khu vực mới đang ngày càng trở nên cấp thiết. Tại cuộc họp của Đại hội đồng lần thứ 8 Hội đồng hợp tác an ninh châu Á-Thái Bình Dương (CSCAP) do Học viện Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội cuối tháng 11 vừa qua, nhiều đại biểu đã chứng minh tính hữu ích của việc xây dựng cấu trúc khu vực. Thứ nhất, có nhiều vấn đề vượt quá khả năng giải quyết của bất kỳ nước đơn lẻ nào như tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, an ninh, an toàn hàng hải, chủ nghĩa khủng bố, kiểm soát vũ khí, buôn bán người và ma túy, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, bệnh dịch, di cư và tị nạn, tình trạng mất cân đối tài chính và thương mại quốc tế. Thứ hai, do quy mô vấn đề và bản chất ở tầm khu vực nên lại càng được giải quyết thông qua các cơ chế cấp khu vực. Thứ ba, trong khi có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có sự phối hợp thông tin, chính sách và hành động ở cấp khu vực như vậy thì châu Á-Thái Bình Dương vẫn chưa có một cấu trúc để điều phối chung, thiên hướng ưu tiên cho chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa song phương tiếp tục tồn tại.
Trong quá trình xây dựng cấu trúc khu vực, một câu hỏi hóc búa đặt ra là hiện nay điểm nóng nào trong khu vực đang trở thành tiêu điểm về an ninh. Bởi việc đối phó hiệu quả với các thách thức chính là tiêu chí quan trọng của mọi cấu trúc khu vực.
Trước đây, các nhà phân tích nhấn mạnh tính nghiêm trọng của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ qua hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề Kashmir và Biển Đông và khi đề cập đến khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, người ta thường chú trọng khu vực Đông Bắc Á nhiều hơn. Tuy nhiên, giờ đây Đông Nam Á đang trở nên ngày càng quan trọng và như Hội nghị CSCAP vừa qua nhận định sự chú ý đang dồn sang vấn đề Biển Đông vì một số nguyên nhân chủ chốt. Thứ nhất, các sự kiện diễn ra dồn dập gần đây đều liên quan đến biển Đông, trong khi các vấn đề như tình hình bán đảo Triều Tiên phần nào lắng dịu đi còn quan hệ qua hai bờ eo biển Đài Loan có bước cải thiện. Thứ hai, gần đây việc có những đòi hỏi vô căn cứ, nhất là “đường lưỡi bò” đã vấp phải sự phản đối của một số nước trong khu vực, kể cả những nước không trực tiếp liên quan đến tranh chấp lãnh thổ chủ quyền ở Biển Đông và giới học giả. Thứ ba, nếu như ở bán đảo Triều Tiên đã có cơ chế đàm phán 6 bên, các nước hầu như đã thừa nhận chính sách một Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan thì vấn đề Biển Đông vẫn cần một cơ chế rõ ràng và hiệu quả hơn mặc dù đã có sự cố gắng và thiện chí của một số bên liên quan như việc thông qua bản Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và việc khởi động đàm phán COC gần đây. Thứ tư, bản thân vấn đề Biển Đông cũng phức tạp vì hàm chứa nhiều lợi ích của các bên liên quan như chủ quyền lãnh thổ, vị trí địa chiến lược, tâm lý dân tộc, vấn đề tự do an ninh, an toàn hàng hải, tiềm năng dầu khí, môi trường, cứu hộ, cứu nạn….
Các mô hình chủ đạo
Không thể phủ nhận khi nói đến chủ nghĩa khu vực ở châu Á-Thái Bình Dương, trước hết người ta phải nhắc đến tiểu khu vực Đông Nam Á và ASEAN. Từ năm 1963, nhà nghiên cứu khu vực William Henderson đã nói mối quan tâm về hợp tác chung ở châu Á không phải có mọi nơi, nó chỉ tập trung vào khu vực Đông Nam Á. Học giả khu vực Acharya Amitav cũng từng nói ASEAN thậm chí còn cung cấp hình mẫu ra quyết định cho các tổ chức khu vực khác, kể cả APEC. Các cơ chế hợp tác khác trong lịch sử, kể cả có sự tham gia của các nước lớn như ASPAC trước đây đều không thể tồn tại lâu. Trong khi đó các cơ chế đậm nét ASEAN như ASEAN+, ARF, ADMM+ và EAS lại đang là “bộ khung” tốt để từ đó xây dựng nên cấu trúc an ninh khu vực. Tính mở và linh hoạt của những diễn đàn này cho phép tạo cơ chế để đối phó với những diễn biến nhanh và khó lường của thế giới ngày nay. Vấn đề tiếp theo là xác định nội dung, cơ chế hợp tác cụ thể để sao cho các cơ chế này ủng hộ và bổ sung cho nhau, tạo nên mạng lưới nhiều tầng nấc, trong đó ASEAN ở vị trí trung tâm. Đó là chưa kể những giá trị “độc đáo” khác của ASEAN mà không phải nước và khu vực nào cũng có như tính trung lập, chủ trương không đe dọa, tin cậy trong vai trò trung gian hòa giải …
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tiến trình đi tới một cấu trúc an ninh khu vực chung không nhất thiết phải lấy xuất phát điểm từ ASEAN. Quan điểm này xuất phát từ nghi vấn năng lực quản lý xung đột của ASEAN, nhất là khi nhìn vào việc ARF trong giai đoạn ngoại giao phòng ngừa chỉ tập trung đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và việc ASEAN chỉ chủ trương thúc đẩy ARF phù hợp với tiến độ ưu thích của các nước thành viên.
Việc ASEAN đóng vai trò chủ đạo tuy là thực tế và có triển vọng song rõ ràng thách thức lại mệnh đề “chính trị do các nước lớn sắp đặt”. Vậy ASEAN là trung tâm hay sẽ có những nước đóng vai trò lãnh đạo khu vực? Đối với châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, đó là vai trò nổi bật của Mỹ và Trung Quốc. Dù sức mạnh tương đối của siêu cường Mỹ đang tiếp tục suy giảm nhưng quân sự, kinh tế vẫn vượt trội so với tất cả các quốc gia khác. Hơn nữa, Chính quyền Mỹ giờ đây đang thể hiện quyết tâm chính trị lớn là sẽ trở lại khu vực. Sự “trở lại” ở đây mang hàm ý chuyển hướng trọng tâm chiến lược, chứ không đơn thuần là yếu tố địa lý. Theo một số đánh giá, về phía các quốc gia châu Á, có thể có thoả thuận ngầm trong việc ủng hộ Mỹ đóng vai trò lớn hơn tại khu vực bằng cách tạo ra các thể chế mở, linh hoạt, và toàn diện. Một số đã có quan hệ liên minh còn một số khác đang thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương chặt chẽ hơn với Mỹ.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy nhanh chóng và tương đối toàn diện của Trung Quốc cũng đặt ra nhiều vấn đề đặc biệt đáng quan tâm. Bởi vậy, các nước yếu hơn cần khéo léo trong việc thúc đẩy quan hệ phù hợp với cả Mỹ và Trung Quốc. Bản thân Mỹ cũng chưa hề bày tỏ sẽ đóng một vai trò rõ ràng ở khu vực ngoại trừ tuyên bố sẽ trở lại. Một mặt Mỹ vẫn để các nước khác thúc đẩy quá trình thảo luận về cấu trúc an ninh chung, mặt khác lại không muốn thấy các cơ chế này làm giảm vai trò của Mỹ.
Trong bối cảnh đó, một số học giả đề xuất mô hình “hòa hợp quyền lực”, tức là một dạng mô hình mở rộng của an ninh hợp tác. Theo đó các trung tâm quyền lực, kinh tế lớn trong khu vực (8-10 thành viên của G20) sẽ tạo nên một trật tự mà trong đó các nước dù có nghi ngờ nhau nhưng cam kết sẽ không tạo nên các mối đe dọa trực tiếp. Trong hệ thống đó, các quốc gia thành viên sẽ tìm cách để giảm thiểu các nguy cơ hiểu lầm về nhau, những yếu tố có thể gây nên sự bất an và qua đó tạo nhiều cơ hội hơn để tăng cường hợp tác và cùng đối phó với các thách thức xuyên quốc gia. Nhưng đây chính là mô hình Cộng đồng Châu Á-Thái Bình Dương do Australia đề xuất, mô hình do một số lý do khách quan và chủ quan đã không còn được thảo luận nhiều tại các diễn đàn khu vực. Tuy được đánh giá cao và có vai trò tích cực của Thủ tướng Kevin Rud lúc đó và nay là Ngoại trưởng, nó chỉ dừng lại như báo chí mô tả là đóng góp thêm một “mặt trận” cho cuộc chiến các ý tưởng tại khu vực.
Các mô hình cân bằng
Theo những người theo chủ thuyết hiện thực mới, sự xáo trộn về cán cân lực lượng trong khu vực là tình huống nguy hiểm. Đồng thời họ cũng dự báo các quốc gia yếu hơn trong khu vực sẽ tìm cách tập hợp để cân bằng lại ảnh hưởng của quốc gia nổi trội hơn. Như vậy, trong khi không mấy tin tưởng vào khả năng hợp tác giữa các quốc gia trong dài hạn, trường phái hiện thực mới lại cho rằng các quốc gia sẽ tìm mọi biện pháp cần thiết để tránh một tình huống mất cân bằng nghiêm trọng. Hay nói cách khác, các quốc gia sẽ tìm cách “không để” quốc gia nào khác đóng vai trò chi phối trong khu vực.
Dĩ nhiên, nếu lấy xuất điểm là lợi ích quốc gia, độ bền vững của cấu trúc cân bằng còn tùy thuộc vào tính toán của các bên, nhất là của các nước lớn như Mỹ, Trung, Nhật, Ấn và Nga. Cũng do yếu tố lợi ích, các nước sẽ từ bỏ hoặc điều chỉnh tính chất của liên minh cân bằng một khi tình thế thay đổi. Đó là câu chuyện của SEATO trước đây. Hơn nữa, thực tế của khu vực hiện nay cho thấy, hòa bình, ổn định và hợp tác tiếp tục là xu thế chủ đạo, như vậy động cơ để thiết lập một cơ chế cân bằng quyền lực mới chưa phải quá câu thúc. Điều này có nghĩa là trạng thái cân bằng hiện tại chưa phải đã hoàn toàn hết tác dụng ở châu Á-Thái Bình Dương. Cũng chính vì vậy, có ý kiến cho rằng việc hướng tới một cấu trúc an ninh khu vực dựa vào mô hình cân bằng quyền lực mới sẽ khó thành hiện thực ngay.
Nếu như cơ chế cân bằng quyền lực có phần cứng nhắc, cách tiếp cận của hệ phái hiện thực phòng thủ gợi ý nên ưu tiên mô hình cân bằng lợi ích, hàm ý các nước dù có tin tưởng lẫn nhau hay không cũng nên linh hoạt lựa chọn cách ứng xử bởi việc liên kết hay cân bằng đều có thể đem đến những lợi ích thiết thực về an ninh hay phát triển.
Quan điểm thực tiễn
Mọi lý thuyết cần lấy thước đo thực tiễn để kiểm nghiệm. Vấn đề cốt tử là liệu trên thực tế các nước có tìm được tiếng nói chung? Cuộc họp Cấp cao EAS tháng 11 vừa qua tại Bali cho thấy điều này phụ thuộc rất lớn vào thiện chí của các bên liên quan, nhất là các nước lớn và ASEAN. Về mặt nguyện vọng, tất cả các nước đều muốn duy trì một khu vực châu Á-Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, thuận lợi cho hợp tác và phát triển. Một cấu trúc khu vực lý tưởng ổn định sẽ có tác dụng điều hòa lợi ích giữa các nước, tránh va chạm không đáng có.
Tuy nhiên, góc nhìn không vì thế mà giống nhau trong thực tiễn chính sách. Chẳng hạn, đối với châu Âu, việc Mỹ chuyển trọng tâm sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương xét theo một nghĩa nào đó có nghĩa là Mỹ sẽ “bỏ rơi” đồng minh lâu năm bên kia bờ Đại Tây Dương. Ngoài ra, sự trở lại của Mỹ không phải được hoan nghênh với mức độ như nhau ở mọi nước. Tương tự như vậy, quá trình trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc gây nên sự tranh luận giữa giới học thuật và chính sách trên thế giới, nhất là đối với câu hỏi sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ đem lại gì, Trung Quốc sẽ tìm kiếm vai trò và muốn gây tác động như thế nào để tiến tới cấu trúc khu vực mong muốn.
Xét về mặt chuẩn tắc, cấu trúc an ninh khu vực phải là quá trình từng bước, dựa trên cơ sở lòng tin xây dựng giữa các nước ASEAN/ARF và các nước trong khu vực. Việc xây dựng cấu trúc an ninh, theo ý kiến một số học giả, cũng nên hướng tới việc xây dựng cộng đồng khu vực. Đây là các tiêu chí mà ít nhiều các tiến trình trong khu vực đã hướng đến, nhất là với vai trò chủ đạo và điều phối tích cực của ASEAN. Đồng thời, mọi tiến trình khu vực muốn vững chắc phải có sự tham gia phù hợp của các nước lớn, bắt đầu bằng quá trình tham vấn và phối hợp.
Mặc dù, về lý thuyết, sẽ chẳng có một mô hình cấu trúc an ninh nào có thể được gọi là tối ưu trong việc hóa giải các thách thức của khu vực châu Á-Thái Bình Dương năng động, nhưng có lẽ bằng sự đoàn kết và thống nhất trong nội bộ, ASEAN có thể tạo thêm một câu chuyện thành công về chủ nghĩa khu vực trong bối cảnh mới.
Lê Đình Tĩnh

Cấu trúc an ninh tại châu Á - Thái Bình Dương
Châu Á - Thái Bình Dương đang được nhìn nhận là điểm sáng của thế giới do duy trì được đà phát triển cũng như môi trường hòa bình và ổn định. Tuy nhiên, khu vực này vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn, đó không phải một nguy cơ đơn lẻ nào, mà là tổng thể các thách thức đối với môi trường an ninh khu vực, bao gồm cả các thách thức an ninh truyền thống và các thách thức an ninh phi truyền thống như an ninh biển, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh mạng...
Mặc dù các nước trong khu vực đã có những nỗ lực đáng kể để tìm kiếm và xây dựng một cấu trúc an ninh khu vực hiệu quả; song cho đến nay khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn chưa có đủ các cơ chế hợp tác phù hợp để ứng phó hiệu quả với các thách thức nêu trên.
Kiến trúc an ninh ở châu Á - Thái Bình Dương hiện nay bao gồm các thỏa thuận an ninh song phương và cơ chế hợp tác an ninh đa phương. Các hiệp định hợp tác an ninh giữa Mỹ với các đồng minh khu vực như Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Australia, New Zealand... là nền tảng của chính sách châu Á của Mỹ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh nhằm chống lại sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô. Trong vòng một năm trở lại đây, có thể nói xu hướng các nước trong khu vực tăng cường hợp tác an ninh song phương là một xu thế nổi bật. Hàng loạt hiệp định hợp tác an ninh song phương đã ra đời như hiệp định giữa Indonesia và Australia, hiệp ước "Đối tác chiến lược cho thế kỷ 21" giữa Nga và Trung Quốc hay Hiệp ước an ninh giữa Singapore và Thái Lan.
Cùng với xu thế tăng cường hợp tác an ninh song phương giữa các nước khu vực, hợp tác an ninh đa phương khu vực dưới các hình thức diễn đàn đối thoại, đối thoại chính phủ và phi chính phủ, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), ASEAN + 3, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), Đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và những cơ chế đối thoại khác. Các cơ chế hợp tác an ninh đa phương ở châu Á - Thái Bình Dương ngày càng thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều cường quốc về an ninh quốc phòng.
Kiến trúc an ninh khu vực hiện nay khó có thể nói là đã ổn định và có khả năng đối phó được với những vấn đề an ninh bởi vì vẫn còn tiềm ẩn một số thách thức, trong đó phải kể đến sự cọ xát chiến lược ngày càng lớn giữa các cường quốc. Trong một môi trường an ninh chưa rõ ràng và đầy bất trắc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đặc biệt là trật tự khu vực còn ở trong giai đoạn quá độ, các nước trong khu vực sẽ phải sử dụng tất cả những công cụ có thể có trong tay mình. Các thỏa thuận an ninh khu vực song phương và đa phương, chính thức và không chính thức, sẽ tiếp tục chi phối các mối quan hệ trong khu vực. Trong tương lai gần từ 10 đến 15 năm tới, rất ít khả năng những thỏa thuận an ninh song phương sẽ nhường chỗ cho một cơ chế an ninh toàn khu vực có khả năng giải quyết các thách thức chiến lược mà các nước trong khu vực đang phải đương đầu. Những thay đổi trong tương lai đó sẽ phụ thuộc nhiều vào chính sách "Trở lại khu vực" của Mỹ và nhân tố Trung Quốc.
Khai Tâm




Mỹ - Trung và sự chuyển dịch quyền lực ở châu Á
Sự chuyển dịch quyền lực hiện nay ở châu Á được thúc đẩy bởi sự nổi lên của Trung Quốc. Phản ứng của Mỹ tuy chậm nhưng mạnh mẽ trước quyền lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc có thể đem lại hệ quả lớn hơn nhiều so với những biến động trong quan hệ giữa các cường quốc trước đây. Trong khi đó, việc ASEAN mời Mỹ và Nga tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á thường niên đã chấm dứt một ảo tưởng từ lâu rằng châu Á có thể tự xây dựng một trật tự khu vực cho riêng mình. Với việc mời Mỹ và Nga, ASEAN đã tuyên bố rằng an ninh châu Á chỉ có thể được xây dựng trong một khuôn khổ rộng lớn hơn.
Lo ngại trước một Trung Quốc đang nổi lên, Đông Á có xu hướng xích lại gần Mỹ. Trên lĩnh vực kinh tế, Đông Á đã chấp nhận vai trò trung tâm của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực thông qua cơ chế "ASEAN+3". Khu vực đang tích cực cân nhắc một lựa chọn thay thế là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hiện TPP được coi là một khuôn mẫu tương lai bởi các quốc gia như Mỹ, Nhật, Australia, Malaysia và Việt Nam, trong khi Bắc Kinh cho đây là một cơ chế nhằm loại bỏ Trung Quốc trên cơ sở các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về tự do hóa thương mại.
Trên lĩnh vực chính trị, cách đây chỉ vài năm, ngay cả những đồng minh thân cận nhất của Mỹ như Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc đều hướng tới vai trò trung lập giữa Washington và Bắc Kinh. Ngày nay, tất cả đều mong muốn củng cố mối quan hệ đồng minh lâu năm với Mỹ. Các quốc gia Đông Nam Á với truyền thống không liên kết cũng đang xích lại gần hơn với Mỹ khi tính tới một tương lai Đông Á dưới cái bóng của Trung Quốc. Về phần mình, Washington sẵn sàng xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược mới với những quốc gia như Việt Nam, Indonesia và Malaysia. Washington cũng đang ủng hộ những quốc gia nhỏ hơn tại châu Á trước sự gia tăng các tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc. Tuy không đứng về phe nào trong tranh chấp nhưng Mỹ nhấn mạnh lợi ích của nước này trong việc giải quyết hòa bình những tranh chấp tại Biển Đông theo các nguyên tắc đã được chấp nhận của luật pháp quốc tế.
Về quân sự, đã có nhiều quan ngại tại châu Á về sức mạnh quân sự của Mỹ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và sức ép cắt giảm ngân sách quốc phòng ngày càng gia tăng. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama đã vạch ra kế hoạch tái tổ chức lực lượng quân sự toàn cầu nhằm đảm bảo sự hiện diện đáng kể tại châu Á và các vùng biển trong khu vực. Trước việc phải đối đầu với sức mạnh hải quân và khả năng về tên lửa đang gia tăng của Trung Quốc tại Tây Thái Bình Dương, Lầu Năm Góc đã công bố một khái niệm mới với tên gọi Air-sea battle (cuộc chiến hải-không), có thể chống lại nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đẩy hải quân Mỹ xa hơn khỏi vùng biển Châu Á.
Nhất Lam (Theo Indian Express)



Ý kiến
Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa: ASEAN đã bàn bạc và quyết định chính thức kết nạp Mỹ và Nga vào Cấp cao Đông Á (EAS) tại Hội nghị cấp cao ASEAN 17. Trong bối cảnh đó, chúng ta có một cấu trúc khu vực rất độc đáo với ASEAN là trung tâm. Nếu chúng ta quan sát vai trò của ASEAN trong EAS, chúng ta có thể thấy mối quan hệ gần gũi với tất cả 8 đối tác. Điều này được gọi là một sự cân bằng năng động. Điều mà chúng tôi quan tâm hiện nay chính là việc ASEAN phải giữ vai trò chủ đạo.
The Nation (Thái Lan): Nguyện vọng xây dựng một cơ cấu khu vực mở rộng do ASEAN đóng vai trò lãnh đạo đang bị thách thức mạnh mẽ bởi các nước thành viên EAS không thuộc ASEAN. Các nước thành viên EAS không thuộc ASEAN đều đưa ra các đòi hỏi được đối xử bình đẳng và điều này gây lo ngại làm suy yếu vai trò trung tâm của ASEAN cũng như đường lối đối ngoại mà tổ chức khu vực này đã áp dụng trong vòng 4 thập kỷ qua. Tuy nhiên, do tất cả các thành viên EAS không thuộc ASEAN đều có nhu cầu giữ một vai trò trong sự định hình cơ cấu khu vực nên sẽ không có thành viên EAS nào chống lại việc ASEAN đóng vai trò động lực thúc đẩy tiến trình này.
Project Syndicate: Ở khắp châu Á, một cấu trúc an ninh mới đang dần được xây dựng. Có thể dự báo ít nhất bốn kịch bản về tình hình an ninh châu Á trong những năm tới. Đầu tiên là sự vươn lên của châu Á với trọng tâm là Trung Quốc. Bắc Kinh theo đuổi chính sách đa cực trên thế giới, nhưng một cực tại châu Á. Ngược lại, Mỹ vẫn theo đuổi chính sách một thế giới đơn cực, nhưng một châu Á đa cực. Kịch bản thứ hai là Mỹ tiếp tục đóng vai trò chỗ dựa an ninh chính của châu Á, dù có hay không viễn cảnh thứ ba: sự nổi lên của một nhóm các quốc gia châu Á với những lợi ích chung cùng hợp tác để bảo đảm châu Á không đơn cực về an ninh. Kịch bản cuối cùng là sự trỗi dậy của một số quốc gia trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia… sẽ bảo đảm cho một châu Á đa cực.
Kịch bản đầu tiên tạo ra sự ngột ngạt nhất. Kịch bản thứ ba và thứ tư có thể xảy ra ngay cả khi Mỹ vẫn là người bảo đảm chính cho an ninh ở châu Á.
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2011/12/C65473D43BA39C5A/