R. AILEAU
(ĐOÀN VĂN CHÚC dịch từ tiếng Pháp)
Từ “truyền thống”[1] (tiếng latin là traditio, “hành vi lưu truyền”) là từ động từ tradere, “chuyển sang cho người khác, giao, trao lại”. Littré[2] đã phân biệt bốn nghĩa chính:
1. “Sự giao một cái gì đó cho một người nào đó”;
2.
“Sự lưu truyền những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo, những
truyền thuyết, từ thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu
và không có bằng cớ chính thức và thành văn”;
3.
“Đặc biệt, trong giáo hội Giatô, sự lưu truyền từ thế kỷ này sang thế
kỷ khác sự hiểu biết những điều thuộc về đạo và không hề có trong thánh
thư”;
4. “Tất
thảy những gì người ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một
sự lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ nhờ ở lời nói hay làm mẫu”
(Từ vị ngôn ngữ Pháp).
Các
định nghĩa do Littré đưa ra phù hợp với nghĩa đặc biệt, nghĩa pháp lý
và lễ điển của traditio trong bộ luật Lamã và trong một số sử dụng của
luật xưa Pháp hoặc chỉ hoàn giao các giáo chức, hoặc theo nghĩa chung
của “sự lưu truyền”. Nhà tu từ học Quintilien, trong cuốn Thể chế diễn thuyết[3] giải nghĩa traditio là “giáo huấn” (enseignement).
Cần tránh lẫn lộn giữa hai động từ hàm ẩn trong khái niệm truyền thống: “trao” và “truyền” (remettre et transmettre; tiếng latin: tradere và transmittere). Động từ thứ nhất phù hợp với một vật được trao hay một vật được giao (chose
remise ou objet livré) theo quy ước hay khế ước giữa các bên. Động từ
thứ hai đáp ứng chính hành vi truyền cho nhau giữa các chủ thể, và chỉ
định không những các nội dung mà cả các quy trình và một chức năng có
tầm phổ biến, bởi, cũng giống như sự phát minh không thể quy giản vào sự
miêu tả, vào lịch sử hay sự phân tích các đối tượng được sáng tạo,
truyền thống không thể quy giản vào sự miêu tả, vào lịch sử hay sự phân
tích các đối tượng được sáng tạo, truyền thống không thể quy giản vào
những “nội dung” được truyền (contemus transmis), mà đó là các sự kiện,
các phong tục, các học thuyết, các hệ ý thức hay thiết chế đặc biệt.
Sự thật, truyền thống không tự giới hạn ở sự bảo tồn cũng như ở sự truyền những sở đắc trước đó: trên dòng đi của
lịch sử, truyền thống tích hợp các hiện thể mới (existants nouveaux)
bằng cách thích nghi chúng với các hiện thể cũ. Bản chất nó không chỉ có
tính giáo dục, cũng không thuần túy mang tính tư tưởng: nó còn hiện ra
là có tính biện chứng và tính bản thể (ontologique). Truyền thống làm thành mới cái đã là; nó không bị giới hạn ở làm cho biết một văn hóa, bởi nó đồng nhất hóa với chính cuộc sống của một cộng đồng.
Vậy quan trọng là nắm bắt lại một cách chủ động thực nghiệm cổ truyền qua ba mối quan hệ cơ hữu: với tư cách là sự trung gian và sự tích hợp các nền văn hóa trong những điều kiện biến đổi của thiên nhiên; với tư cách là
sự xuất hiện của một cộng đồng dưới mắt chính cộng đồng ấy qua sự tái –
sáng tạo liên tục, vô cùng vô tận của các giá trị của nó; với tư cách là mục đích của cái tuyệt đối trong những mối tương quan giữa cái tuyệt đối với thực nghiệm về cái thiêng[4].
1. Truyền thống, cái trung gian và cái tích hợp các văn hóa
Hành
vi “truyền” và hành vi “phát minh” tạo thành hai hoạt động đặc thù của
người, vì không có một loại động vật nào có khả năng thích nghi tính
liên tục của những sở đắc thực nghiệm cũ của mình với tính gián đoạn của
những tìm tòi, những phát minh và những thực nghiệm mới của mình. Vì
vậy mà truyền thống không thể tự khuôn mình ở sự bảo tồn các yếu tố của
một nền văn hóa, tức là sự bảo tồn, duy trì chúng ở nguyên một trạng
thái. Một phát minh nếu không được truyền chắc hẳn sẽ phải không ngừng
phát minh lại. Ngược lại, khi vắng mặt tất thảy những phát minh, các
truyền thống của thời đại đồ đá cũ chắc hẳn sẽ vẫn cứ là chúng và các
nền văn hóa của chúng ta đã sẽ chẳng bao giờ xuất hiện được, cũng chẳng
khi nào kiến lập được.
Như
vậy, gia thêm vào khả năng thụ động của sự bảo tồn các truyền thống là
khả năng chủ động của sự tích hợp những hiện thể mới bằng sự thích nghi
hóa chúng với những hiện thể thiên nhiên. Sự phát minh và sự khám phá
không nhất thiết phải căn cứ vào trang thiết bị vật chất, cũng không
nhằm vào những thực tế hữu hình. Sự khám phá ra giá trị đạo lý và tâm
linh của tự do, thí dụ thế, đã gây ảnh hưởng đến các nền văn hóa của
chúng ta cũng sâu sắc như ảnh hưởng của sự phát minh ra lửa đối với các
cộng đồng người đầu tiên. Nói một cách lịch sử, quan điểm về tính bất tử
cá nhân và các hệ quả của nó đã sản sinh những biến đổi về văn hóa và
xã hội còn quan trọng hơn cả sự phát minh ra cái bánh xe. Nhà nghiên cứu
tiền sử V.G. Childe đã chỉ ra rằng khái niệm “trang thiết bị tâm linh”
(“équipement spirituel”) đóng vai trò quyết định trong sự tiến hóa của
nhân loại: “Các xã hội đã phản ứng lại môi trường tâm linh của chúng
cũng giống như với môi trường vật chất, và chính vì vậy chúng tự đem lại
cho chúng một trang thiết bị tâm linh không giới hạn ở một tư liệu vũ
khí và công cụ”.
Truyền
thống, với chức trách trang thiết bị tâm linh ấy, không thể chỉ được
nhìn như là một trung gian đơn giản của trang thiết bị nọ, còn phải nhìn
với tư cách nó tác động đến di sản truyền lại bằng cách thực hành sự
tuyển chọn và bằng những tác dụng nó tiến hành ở các giá trị mà nó thẩm
định là đáng truyền. Chính là như vậy nên nhiều phát minh kỹ thuật dù đã
có ích về phương diện kinh tế và xã hội song đã không được truyền thống
bảo lưu, mà bị đồng hóa vào những trò chơi dành cho những cuộc vui thú
công cộng hoặc tiêu khiển riêng tư.
Ngoài
ra, mỗi nền văn hóa phải thích nghi với một môi trường tự nhiên nhất
định, theo một truyền thống riêng hợp với các điều kiện sinh tồn riêng
biệt của nền văn hóa ấy. Mỗi cộng đồng được phân biệt với các cộng đồng
khác bởi các huyền thoại của mình và các giá trị của những huyền thoại
ấy cũng như bởi cây cỏ mình trồng, súc vật mình nuôi, bởi sự khác nhau
khi chọn địa điểm cho làng cư trú, bởi quy hoạch và phương thức xây dựng
nhà cửa, bởi sự khác nhau lớn hơn giữa tín ngưỡng, phong tục và phong
cách nghệ thuật. Bởi thế, các nhà nghiên cứu tiền sử đã nhận thấy không
phải chỉ có một nền văn minh, mà “một số vô hạn những nền văn minh đồ đá
mới” (V.G. Childe), tính đa dạng ấy nhất thiết được phản ánh trong các
truyền thống của chúng.
Ở
các dân cư nông nghiệp, tầm quan trọng của lao động nữ cắt nghĩa những
truyền thống mẫu hệ và những mối quan hệ thân tộc đặc biệt của các dân
cư ấy. Ở những dân tộc du mục, vai trò thống trị của đàn ông trong đời
sống cộng đồng đã có những kết quả, ngược lại, là những truyền thống phụ
hệ. Hơn nữa, các dân tộc bị chinh phục và đi chinh phục đã sáng tạo ra
những nền văn minh lai pha mà các truyền thống xuất xứ từ các môi trường
khác nhau không phải ít có khả năng tích hợp vào một văn hóa mới,
thường là giàu có hơn những nền văn hóa trước đó.
Tuy
nhiên, chức năng phức tạp của truyền thống không giới hạn ở phần nền
văn hóa của một nhóm xã hội được quyết định chỉ bởi những điều kiện cư
trú và môi trường tự nhiên của nhóm ấy. Một số cộng đồng của những người
chuyên môn, và, thí dụ, những thợ thủ công lưu động, thợ đúc, thợ rèn,
thợ gốm nhóm họp nhau lại thành thị tộc hay thành phường hội mà các
truyền thống dựa trên cơ sở những quan hệ đặc biệt về họ hàng, như trên
những huyền thoại và những bí mật được giấu kỹ đối với những nhóm xã hội
mà các người chuyên môn nọ bán sản phẩm nghệ thuật của họ với sự giữ
gìn cẩn thận bí mật nhà nghề của mình.
Một
truyền thống cũng có nguy cơ tích hợp thái quá các giá trị huyền thoại
cũ vào những phát minh mới. Sự thừa nhận tiền bằng kim khí đã đánh dấu
sự chuyển bước từ một nền kinh tế tự nhiên, trong đó các đối tượng được
trao đổi nhau theo định thẩm, sang một nền kinh tế nhân tạo trong đó tất
cả các sản phẩm được định giá trị tương xứng với cùng một đơn vị ước lệ
và như thế có thể sánh theo định lượng. Tuy nhiên, từ nền kinh tế Lưỡng
Hà (économie mésopotamienne: hiện nay là vùng Irak, có hai con sông
chảy qua, sông Tigre và sông Euphrate – N.D.) đến thời đại hiện nay,
tiền nhân tạo đã giữ một cách nghịch lý giá trị huyền thoại của những
của cải tự nhiên do nông nghiệp và chăn nuôi tạo thành. Giống như lúa
hoặc mục súc, của cải ấy có thể tái sản sinh và được bội tăng do lợi tức
và lãi. Mối quan hệ hàm ẩn huyền thoại khá tất nhiên ấy không phải kém
tương ứng với những sự kiện kinh tế hiện thực và đủ để chỉ ra rằng sự
bảo tồn các truyền thống của một nền văn hóa trong những điều kiện lịch
sử hoàn toàn khác biệt không phải bao giờ cũng cần thiết cho sự tiến hóa
của nhân loại.
Đáp
trở lại, nên nhắc lại rằng, ở các dân tộc sơ khai, các truyền thống tôn
giáo đóng vai trò căn bản trong sự sống còn của một cộng đồng. Bằng các
giá trị huyền thoại và biểu tượng của mình, các truyền thống cho phép
một cộng đồng kháng cự nội tại chống những tấn công và những áp lực của
môi trường tự nhiên. Sự thăng bằng tế nhị và thường bấp bênh ấy có thể
bị phá hoại bởi những can thiệp xâm lược, mặc dầu đôi khi chúng có “ý đồ
tốt” là giáo hóa và văn hóa, chúng đã là những kẻ thực sự gánh tội diệt
chủng.
Các
nhà dân tộc học đã nghiệm thấy thế ở nhiều trường hợp và thí dụ như
trường hợp dân cư đảo Eddystone trên Thái Bình Dương. Khi chấm dứt
truyền thống ma thuật – tôn giáo là “săn đầu người”, người Ănglê đã thủ
tiêu một thể chế bắt rễ sâu trong đời sống văn hóa và tự nhiên của các
dân cư nọ. Người bản xứ đã phản ứng lại cấm đoán đó bằng một ác cảm gần
như toàn phần: năng suất đẻ giảm đi nhanh chóng và dân cư đảo ấy cứ mòn
mỏi dần.
Với
tư cách là hành vi của một cộng đồng, mọi truyền thống nhập thành cơ
chế của cộng đồng và với cách riêng biệt của mình truyền thống xuất hiện
trước mặt chính bản thân cộng đồng qua những giá trị chủ yếu của mình.
Truyền thống không chỉ là cái trung gian và cái tích hợp bức thiết đối
với mọi nền văn hóa. Bằng cách bảo tồn và truyền đạt lại cái mình biết,
một cộng đồng “tự tái sáng tạo” bản thân nó và “làm thành mới” cái nó đã
là theo như nó muốn là.
2. Truyền thống, sự tái – sáng tạo các giá trị của một cộng đồng
“Truyền”
(Transmettre) nghĩa là làm tồn tại cái gì đã tồn tại rồi, và “bảo lưu”
là “giữ gìn cái đã được truyền”. Hai dạng vẻ ấy, chủ động và bị động,
không được lẫn lộn khi phân tích chức năng phổ biến của truyền thống,
nhất là khi thuộc về những mối quan hệ của nó đối với đời sống của một
cộng đồng.
Trong
các nền văn minh cổ truyền, cộng đồng không được xây dựng trên cơ sở
một ý thức dứt khoát và lý tính về sự đoàn kết con người. Nó được thành
lập tự phát bởi ngoại phóng toàn phần (projection totale), vào thế giới
khả tri giác hoặc vào thế giới tâm lý – kinh nghiệm, của những mối quan
hệ tâm linh, huyền thoại và biểu tượng, là những mối quan hệ, đối với
các thành viên của cộng đồng ấy, tái chỉnh đốn lịch sử và thời gian hoặc
tái phân phát địa vực và không gian trong mối tương quan với các dấu
hiệu và các đối tượng hiện hình của cái thiêng liêng. Khác biệt với các
nền văn minh hiện đại, các cộng đồng cổ truyền chỉ tính kể đến các diễn
viên; chúng loại bỏ khán giả cũng như khoảng thời gian nội suy phê phán.
Bởi thế chẳng có gì khác hơn hoạt động sân khấu, vì sự thật người ta
không thể vừa xem kẻ khác đóng trò lại vừa tham gia thực sự vào trò. Sự
diễn đạt tự phát của cộng đồng cổ truyền là tết, nguồn gốc của
những lễ hội mà bằng chứng mỗi người được hòa hợp với tất cả, mà vẫn một
tính thống nhất phi thời gian tác động tất cả trong mỗi người và hòa
giải thiên nhiên và các thần linh với người.
Bởi
thế, không thể giới hạn các phương tiện của truyền thống ở những giao
lưu của nó bằng lời nói hay chữ viết. Các thái độ, các ứng xử, các mẫu
dụ của các thành viên một cộng đồng cổ truyền, trong đời sống hữu thể
hằng ngày cũng như trong đời sống đạo lý và tâm linh, chứng minh năng
lực của họ trong tái sáng tạo ý nghĩa huyền thoại và biểu tượng của một
cư xử hay của những cử chỉ đặc biệt, ở mỗi lúc và ở vô vàn trường hợp.
Đó không phải những sự lắp lại máy móc các hành vi khuôn mẫu, mà chúng
biểu thị một sự tương ứng sâu sắc giữa cái đã được tin với cái được tái
sáng tạo như thế. Có cách ăn, uống và ngủ theo đạo Hồi; sự pha trà của
một tông đồ đạo Phật tu tại gia có ý nghĩa truyền thống không kém một
diễn từ dài.
Sự
thật, chính bằng hành vi nghi thức và bằng lễ điển mà sự tương niệm và
sự truyền cái “làm tồn tại” (du faire être), do đòi hỏi của mọi truyền
thống thực sự của thực nghiệm về cái thiêng, được hoàn thành.
3. Truyền thống và thực nghiệm về cái thiêng
Thực
nghiệm của con người trong sự thâm nhập vào thế giới tâm lý – kinh
nghiệm của một cái gì đó không thuộc thế giới này, thuộc cái “khác hẳn”
(du tout sutre) không lĩnh hội được và không nắm bắt được, tương ứng,
như R. Otto đã chỉ ra, với thực nghiệm về cái thiêng.
Ngay
khi diễn ra sự tiếp xúc với cái chưa biết đặc biệt, con người, kẻ muốn
bảo chứng cho sự hiện tồn của một thực tế mà con người không thể phủ
nhận được nó, song cũng lại chẳng thể khẳng định được sự cống hiến nào
của nó cả, thì nhất thiết phải che phủ nó bằng cách phát hiện nó ở những
biểu tượng, các biểu tượng ấy, đến lượt chúng, lại phủ đắp cũng bằng
như gỡ mở những cái mà chúng phải truyền.
Một
truyền thống văn hóa phi đạo không có khả năng lưu truyền lại cái gì
khác ngoài những ký hiệu được gọi là những “chủ đề tổng hợp”
(synthèmes). Chỉ có truyền thống thụ môn[5]
và tôn giáo là có thể truyền lại những biểu tượng. Những cái thứ nhất
gợi ra những mối liên hệ lẫn nhau mang bản chất xã hội hoặc những mối
quan hệ xây dựng trên những ký hiệu ước lệ tạo nên một hệ ngôn ngữ mà,
do nguồn gốc, sự tiến hóa và sự sử dụng nó, bao giờ cũng được nhận thức
và sáng tạo bởi con người và chỉ có ý nghĩa đối với con người. Thí dụ,
chữ O không phải là biểu tượng của oxy, mà là một chủ đề tổng hợp kiểu
lược giảm (type abreviatif), nó không có ý nghĩa gì khác ngoài ý nghĩa
sở thuộc, theo ước lệ, vào một toàn bộ logich chặt chẽ, trong một thời
kỳ nào đấy của lịch sử các khoa học về văn hóa. Các ký hiệu do máy điện
tử sử dụng là những chủ đề tổng hợp; đấy không phải những biểu tượng.
Sự
khác biệt ấy là dễ hiểu vì lẽ tính chất của thực nghiệm về “cái khác
hẳn” là phi nhân sinh (non humain), đa số tuyệt đối các truyền thống thụ
môn và tôn giáo đem lại cho cái “khác hẳn” sự khám phá và vì thế của
những biểu tượng, từ ấy phải dành riêng cho các ký hiệu của cái thiêng.
Nhà triết học R. Guénon, người đã có công lao chủ yếu trong việc canh
tân những nghiên cứu về truyền thống, trong thời hiện đại, đã không ngớt
nhắc nhở chân lý cơ bản này: “Tất thảy các méo mó về ý niệm truyền
thống có một tính chất chung là hạ thấp quan niệm truyền thống xuống
trình độ thuần túy nhân sinh (purement humain), trong khi ấy, hoàn toàn
ngược lại, chỉ có và chỉ có thể có cái thực sự truyền thống khi cái ấy
bao hàm một yếu tố thuộc phương diện siêu – nhân sinh (d’ordra supra –
humain)[6].
Sự thật, đấy là điểm chủ yếu, điểm tạo thành, có thể nói, ngay cả định
nghĩa về truyền thống và tất cả những gì quan thuộc vào nó.
Các
rào chắn của ngữ ngôn không cho phép chúng ta dễ dàng dùng những từ còn
chưa được ai dùng. Tuy nhiên vẫn nên phân biệt các dạng “tổng hợp chủ
đề”[7]
của “hành vi truyền lại” là các dạng cuối cùng quan thuộc vào sự giáo
dục của một nền văn hóa, với các dạng biểu tượng là những dạng không thể
tách rời khỏi thực nghiệm bản thể. Các dạng tổng hợp chủ đề có thể phải
được soi sáng bằng sự phân tích và bằng lịch sử theo cách duy lý thuần
túy. Các dạng biểu tượng lại chỉ có thể hiểu được bằng những thực thi
của chúng (leurs opérative), hoặc nếu thích thì gọi là bằng một biện
chứng và một sự tái – sáng tạo thực thi (une re-création opérative) của
cái hiện tại vĩnh hằng. Các dạng thứ nhất của quan thuộc vào những hiện
thể riêng biệt, cũ và mới. Các dạng biểu tượng chỉ có một đối tượng phổ
biến: bản thân cái tồn tại hiện tại nọ qua muôn hình vạn trạng biểu thị
của nó và tính nhiều chiều trong các ý nghĩa của những biểu thị ấy mà
chúng tái hướng dẫn chỉ vào duy nhất một biểu hiện ý nghĩa
(significateur).
Bằng
sự hiển nhiên hóa các dạng vẻ khác nhau của truyền thống, người ta sẽ
thấy rõ hơn rằng một nền văn hóa không thể được tạo thành một cách hoàn
toàn phi đạo phụ thuộc vào sự loại trừ cái không – duy lý hay cái “khác
hẳn” mà lại không tha hóa con người khỏi thực nghiệm khả thể sâu sắc
nhất của nó, thực nghiệm của năng lực hiện diện ở cái tồn tại phổ biến.
Ngược lại, bằng sự thừa nhận ấy tính hoàn toàn chính đáng của lý trí
trong các giới hạn của bản chất con người, người ta cũng phải tránh nguy
cơ của khuynh hướng giáo điều tôn giáo thường hay tranh cãi với cái
quyền nọ của con người. Ít ra, về điểm ấy, với sự giáo hóa của bí truyền
thư[8],
cũng cần phải nhắc đến sự hài hòa giữa các “uy lực hữu hạn phán xử” với
các “uy lực tràn vượt tha thứ” (“des puissances limitantes qui jugent”
et des “puissances déberdantes qui pardonnent”), cái hài hòa của những
“hội hè thiêng liêng” trong đó có mặt mọi truyền thống thực sự thụ môn
và tôn giáo.
Nguồn: http://lifeartvietnam.org
[1] Từ tradition tương ứng với từ H – Việt truyền thống. Các
từ điển và từ vị của ta xuất bản trước Cách mạng tháng Tám không có từ
“truyền thống”, chỉ có các từ vị “truyền” và “thống”. Đại Nam quốc âm tự
vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, Sài Gòn xuất bản 1895 giải nghĩa: Truyền = Trao lại; Thống = Mối, Giềng; Việt Nam tự điển, Khai trí Tiến Đức xuất bản 1931, Hà Nội, giải nghĩa: Truyền = Trao lại; Thống = Mối. “Truyền thống” là một từ mới, xuất hiện sau Cách mạng tháng Tám. Ghép hai từ vị truyền thống lại nghĩa của chúng là: trao lại mối đường, song cách ghép từ của tiếng Việt lại đã biến động từ truyền thành động tính từ quá khứ nên truyền thống có nghĩa là cái mối đường được trao lại hoặc được truyền lại, như vậy truyền thống là một danh từ mang đúng ý nghĩa như hiện nay ta đang dùng.
[3] Quintilien, nhà tu từ học Latin ở thế kỷ thứ I, giáo sư tu từ học. Trong cuốn De institutione oatria (Thể
chế diễn thuyết), ông chống lại xu hướng của những người đồng thời sử
dụng tài hùng biện để làm nghề pháp luật học và nghề thầy cãi. Cuốn sách
gồm những nghiên cứu đầy đủ để đào tạo một diễn giả và ở một số khía
cạnh cũng là một chương trình giáo dục luân lý và văn học. Văn phong
cuốn sách đẹp nổi tiếng và sự phê bình đúng đắn và xác đáng.
[4] Khái niệm “cái thiêng” ở đây không ý nghĩ tôn giáo, le sacré ở đây tương ứng với cái intangible, tức
là cái khôn hiểu thấu, khôn lý giải bằng duy lý; ấy là những hiện tượng
trong đời sống mà con người cứ phải chấp nhận chúng là thế, như sự may
mắn tự nhiên đến với người này, sự bất hạnh đến với người khác, v.v.