Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

3. Thách thức đối với Trung Quốc: Chiến tranh hay hòa bình

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Ba, ngày 18/12/2012
TTXVN (Hồng Công 14/12)
Theo báo mạng Asia Times Online, không có gì là bí mật khi biết rằng vấn đề chính đối với Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (vừa mới kết thúc) là cải cách chính trị, như các nhà lãnh đạo sắp mãn nhiệm là Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nhiều lần nhắc đến trong những tháng gần đây.
Chuyển tiếp chính trị tại Trung Quốc vô cùng quan trọng đối với thế giới. Sự liên quan quan trọng của toàn bộ vụ bê bối Bạc Hy Lai cũng là về cải cách chính trị. Trong một hệ thống chính trị cởi mở hơn, một người như Bạc Hy Lai, một Bí thư Thành ủy bị “ngã ngựa” tại Trùng Khánh, có thể bị ngăn chặn từ lâu trước khi có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, hoặc òng ta có thể thay đổi con đường của mình để vươn đến vị trí cao nhất với đầy đủ tính pháp lý.
Nhưng cải cách chính trị không phải là một vấn đề nội bộ Trung Quốc đơn thuần. Vì Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế số hai thế giới và tiếp tục đà tăng trưởng nhanh, vấn đề không chỉ là sự hội nhập toàn diện của Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới mà còn là sự hội nhập toàn diện vào hệ thống chính trị toàn cầu.
Sự hòa hợp của hệ thống chính trị Trung Quốc với phần còn lại của thế giới có vai trò tối quan trọng để thúc đẩy hòa nhập kinh tế và duy trì hòa bình. Việc được điều hành bởi các hệ thống chính trị tương đồng không bảo đảm cho hòa bình và sự hòa nhập chính trị. Đã có vài minh chứng lịch sử về chiến tranh giữa các nền dân chủ hay chiến tranh giữa các hệ thống chính quyền độc đoán. Sự khác biệt trong hệ thống chính trị là nguyên nhân của những ngờ vực và hiểu lầm và càng dễ dẫn đến xung đột, rạn nứt kinh tế và chiến tranh.
Tất nhiên, có nhiều điều thế giới có thể học từ Trung Quốc (chẳng hạn như chế độ đãi ngộ nhân tài, kỹ năng tổ chức), nhưng do thế giới đã bị lấn át và điều hành trong 300 năm qua bởi các nguyên tắc và quan điểm của phương Tây, vì vậy rất khó có khả năng trong vòng 30 năm tới thế giới đó sẽ chấp nhận các nguyên tắc thuần Trung Quốc.
Nếu như Trung Quốc trong giai đoạn này luôn muốn có được sức mạnh quân sự và chính trị lớn và cố gắng áp đặt nguyên tắc của mình lên thế giới, thì thế giới sẽ dễ dàng hợp lại cùng nhau để chống Trung Quốc và vì vậy sẽ chèn ép Trung Quốc và tham vọng của nước này.
Vì vậy, sự hòa hợp của Trung Quốc và thế giới phải xảy ra phần lớn theo nguyên tắc của phương Tây. Nhưng dân chủ không chỉ là một vài quy định về việc làm thế nào để giành phiếu. Nó là về các hệ thống phức tạp và nền văn hóa được thể hiện và củng cố cho những hệ thống này.
Trung Quốc bị chi phối mạnh mẽ bởi sự pha trộn đặc biệt giữa chế độ phong kiến cũ với cấu trúc và văn hóa XHCN. Rất khó để thay đổi cấu trúc này hay thậm chí thay đổi chúng mà không gây ra nguy cơ đối đầu với những nhóm lợi ích bất di bất dịch – và những mối đe dọa gây ra sự sụp đổ của cấu trúc này cũng như những lợi ích của chúng có thể tạo nên một sự kháng cự bằng vũ trang chống lại sự thay đổi.
Trong 30 năm qua, Ngân hàng Thế giới (WB) đã trợ giúp sự tăng trưởng và chuyển đổi của nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng trong một vấn đề khó khăn và nhạy cảm hơn nhiều đối với cả Trung Quốc và thế giới – cải cách chính trị, Trung Quốc không nhận được sự hỗ trợ từ bất kỳ ai. Bắc Kinh cần sự hỗ trợ để bảo đảm rằng sự thay đổi chính trị trong nước sẽ giúp nước này hội nhập với thế giới và sẽ không bị tách ra làm hai phần. Vì vậy, đó là một vấn đề của sự cai trị trên toàn cầu, xét trên khía cạnh hòa bình và nền kinh tế toàn cầu.
Hơn thế nữa, hòa nhập chính trị cũng là cơ sở cho hội nhập kinh tế. Không có chính trị, kinh tế không thể một mình mang lại thống nhất và hòa bình, như châu Âu đã cho thấy trong những tháng gần đây. Cuộc khủng hoảng vẫn còn đang tiếp diễn tại châu Âu đã chứng minh rằng liên minh tiền tệ mà không có liên minh chính trị cuối cùng sẽ tạo ra một con quỷ.
Thậm chí, trong một môi trường ổn định và hòa bình, như tại châu Âu hiện nay, được định hình trong hàng thập kỷ bởi sự hợp tác chặt chẽ ở mọi cấp độ, trong đó có cả quân sự và chiến lược, sự thống nhất tiền tệ không có nền tảng tài khóa thống nhất (điều thực sự là cơ sở của thống nhất chính trị) sẽ không ngăn chặn được các thảm họa.
Thêm vào đó, trong thời gian khủng hoảng nghiêm trọng, không rõ liệu một liên minh tiền tệ không có sự thống nhất chính trị có giúp ích được không. Nhiều người tại Đức, Italia, Phần Lan, Tây Ban Nha và Hy Lạp tranh luận rằng nền kinh tế của họ sẽ tốt hơn nếu không có đồng euro.
Nếu sự thiếu thống nhất chính trị tạo ra những vấn đề lớn tại một nơi như châu Âu, nơi đã có sự hợp tác chặt chẽ ở mọi cấp độ trong hàng thế kỷ, chỉ có thể hình dung rằng sự thiếu hòa hợp chính trị có thể tạo được ra trong một môi trường như tại Trung Quốc trong quan hệ với phần còn lại của thế giới, Ở đây, chúng ta thấy rằng giữa Trung Quốc và phần còn lại của thế giới không có sự hợp tác quân sự và chiến lược chặt chẽ, có một sự khác biệt văn hóa lớn và tranh chấp lãnh thổ, sự ngờ vực sâu sắc, và sự trao đổi với phần còn lại của thế giới dựa trên hợp tác kinh tế mang lại lợi ích ngắn hạn (chẳng hạn việc sản xuất tại Trung Quốc hay mua các hàng hóa Trung Quốc là vì chi phí sản xuất tại đây thấp). Trong trường hợp chi phí sản xuất của Trung Quốc tăng và không song hành cùng tăng chất lượng, hàng hóa của Trung Quốc sẽ mất lợi thế và thị trường nội địa Trung Quốc sẽ không thể giành được sự quan tâm thích đáng từ nước ngoài – và khi đó Trung Quốc có thê bị cô lập và dẫn đến bị tấn công.
Tất nhiên, đồng euro là một nhân tố chính cho tăng trưởng và hòa bình tại châu Âu, nhưng nó tồn tại hai vấn đề: đồng euro không hòa hợp được các hệ thống tài khóa tại châu Âu, và vấn đề này hợp cùng với sự bất ổn định giá trị khi so sánh với USD (đồng tiền tiêu chuẩn kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai) và với đồng tiền có vai trò quốc tế sau đó, đồng nhân dân tệ. Các yếu tố này đã góp phần tạo ra sự bất ổn trong các hệ thống chính trị xã hội toàn cầu.
Tại một hội nghị trong tháng 11 ở Bắc Kinh, chuyên gia Robert Mundell đã ám chỉ rằng việc thiếu một đồng tiền toàn cầu sẽ gây ra các vấn đề lớn, gồm: Thiếu một đơn vị thanh toán quốc tế, thiếu một cơ sở cho sự ổn định tiền tệ, sự biến động bất định của tỷ giá hối đoái các đồng tiền chủ chốt, biến động lớn về giá các nguyên liệu thô, mức cần thiết của lượng dự trữ quốc tế”.
Điều này phù hợp với 3 điểm lo ngại về kinh tế toàn cầu trong suốt Hội nghị G20 năm 2010 tại Pari: “1. Sự mất ổn định quá mức của giá các nguyên liệu thô. 2. Sự mất ổn định quá mức của tỷ giá hối đoái. 3. Các hệ thống quản lý yếu kém”.
Sự cần thiết của hòa hợp chính trị Trung Quốc với thế giới không phải là một nhân tố bên ngoài. Mô hình của sự hợp pháp hóa quyền lực tại Trung Quốc đơn giản là các vấn đề sau trong các thế kỷ đã qua: một nhóm người với vai trò lãnh đạo thuyết phục có thể dẫn dắt một cuộc cách mạng hay xâm lược thành công có thể lật đổ triều đại đương đại và thành lập một triều đại mới.
Người cai trị hiện tại gánh vác một nửa trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình tại quốc gia này và phúc lợi của người dân cho tới một cuộc cách mạng mới, sau một hay hai thế kỷ, sẽ lật đổ triều đại của ông ta. Chu kỳ đặc trưng này cũng sẽ dẫn tới sự tái phân bổ đất đai dưới triều đại mới được thành lập và mở rộng diện nộp thuế (khi không ai có sức mạnh để buộc chính quyền chấp nhận rằng một ai đó không phải nộp thuế). Vì vậy, trong thời kỳ sau, có một sự tập trung hóa đất đai và thu hẹp diện nộp thuế, khi mà những địa chủ giàu có và quyền lực, những người tích lũy của cải và bóc lột người khác trên mảnh đất của họ, tập hợp đủ sức mạnh để không phải trả khoản thuế mà họ nợ. Sự tập trung hóa đất đai và thu hẹp diện nộp thuế sẽ khiến nhà nước phải tăng thuế trong khi dân chúng tăng sự chia rẽ giữa những người “có của cải” – các gia đình sở hữu đất với những người’ “không có gì” – những gia đình không có đất đai. Những người giàu có thể càng giàu thêm, những người nghèo lại càng nghèo đi. Tình trạng này sẽ khiến số người nghèo gia tăng, và họ trở nên giận dữ hơn vì vị trí xã hội của họ, và đến lượt nó, theo như quan điểm cổ xưa, có thể gây ra sự chia rẽ giữa người cai trị với sự thần thánh và người dân. Người dân, dưới sự trợ giúp của thần thánh, hoặc ông trời, có thể thể đánh đổ chế độ và lập nên một đứa con mới của trời, một người trị vì mới.
Đó là trong thời kỳ cổ đại, cho đến thời Mao Trạch Đông, người thực sự là người trị vì cuối cùng của Trung Quốc. Sau đó không còn người trị vì nào nữa, mà chỉ có đội ngũ lãnh đạo tập thể của một số nhân vật kỳ cựu xung quanh Đặng Tiểu Bình và các chế độ sau đó của các nhà kỹ trị Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông không dựa vào sự trợ giúp từ thần thánh hay thiên đình, khi ông nổi tiếng là người theo thuyết vô thần, và những người kế vị ông đã cố gắng nhận sự trợ giúp từ người dân. Nhưng khi thiếu đi chỗ dựa từ thần thánh hay từ các cuộc bầu cử hiện đại, sự hỗ trợ này quả là khó có thể đo lường và tin tưởng.
Các chế độ cũ của phương Tây cũng dựa vào Chúa và người dân. Theo những câu nói của người xưa, “Tiếng nói của người dân là tiếng nói của Chúa”, Khi, trong thời kỳ khai sáng, Chúa tách rời khỏi hình ảnh chính trị, các nước phương Tây tìm thấy một nguồn mới về sự thần thánh trong sự sùng bái của sự ủy thác của công chúng đối với việc bầu cử. Những tiếng nói hiện đại cũng có thể là “Tiếng nói của người dân là tiếng nói của Chúa”.
Hiện tại, Trung Quốc không có Chúa và không có sự ủy thác rõ ràng và có thể đo đếm được của một cuộc bầu cử phổ thông. Thực tế là Trung Quốc không có thiên đường và không có người dân. Hơn thế nữa, quan hệ sở hữu, phân phối và tập trung đất đai truyền thống cổ đại – quan hệ đã điều chỉnh và định hướng chu kỳ triều đại trong quá khứ – cũng đã không còn, vì một lý do đơn giản là kinh tế điền địa đã không còn quan trọng tại Trung Quốc.
Trong quá khứ, hơn 90% dân số Trung Quốc sống tại các làng quê, trong khi hiện tại chỉ chưa đến 50% sống tại các khu vực này, và tỷ lệ đang ngày càng giảm. Tỷ trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế cũng giảm và do vậy chu kỳ thịnh, suy của các triều đại cũng đã kết thúc hoàn toàn. Nếu quyền lực Cộng sản bị lật đổ, nó sẽ không xảy ra với các cuộc nổi dậy của nông dân như trong quá khứ. Điều này khiến cho hệ thống chính trị của Trung Quốc như một quả bóng bay trên không trung: không có ai, không có thiên đường và không có chu kỳ đất đai và không có những mối đe dọa lớn đối với giới cầm quyền – nhưng cũng không có hỗ trợ lớn, không có điểm tựa chính.
Nó có thế được xem là một điểm rất mạnh, nhưng cũng có thể xem là một điểm cực kỳ yếu kém, với nền tảng rất nhỏ. Nền tảng hỗ trợ thực tế duy nhất là cấu trúc của nó: một hệ thống Xôviết lồng ghép với hệ thống phong kiến cũ của Trung Quốc, cấu trúc này tự nuôi sống mình và đất nước. Nó cũng là rào cản chính đối với quá trình cải cách và những thành tựu khác của đất nước. Cải cách cấu trúc nhà nước này là cực kỳ khó, bởi nó dựa trên và ăn sâu vào văn hóa đã trải rộng trên toàn đất nước.
Nhưng Trung Quốc cần cải cách để tiến lên và thế giới cần Trung Quốc cải cách cấu trúc để làm cho hệ thống chính trị của Trung Quốc hòa hợp với thế giới. Hòa hợp chính trị có thể tạo chỗ dựa cho kinh tế toàn cầu và thúc đẩy kinh tế toàn cầu tiến lên một bước mạnh hơn. Nó cũng có thể giúp kiểm soát giá nguyên liệu thô, giúp đổi mới công nghệ và kiểm soát khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Một thỏa thuận về tỷ giá đồng USD – nhân dân tệ có thể là dễ dàng bởi vì chỉ cần sự tham gia của hai chính quyền trung ương trong khi có thể kiểm soát 35% kinh tế toàn cầu và có thể là một nửa tăng trưởng toàn cầu. Nó cũng có thể dễ dàng hơn bởi sự ràng buộc kéo dài giữa hai đồng tiền. Nhưng để đạt được thỏa thuận này trước hết cần có một sự hòa hợp chính trị.
Một thỏa thuận về tỷ giá đồng USD – euro có thể sẽ khó khăn hơn bởi các hệ thống không chỉ bao gồm hai thực thể chính trị có thể đối thoại song phương. Đằng sau ban lãnh đạo “ảo” tại Brúcxen, có những tiếng nói không hòa hợp tại châu Âu, mỗi tiếng nói có ưu tiên riêng mà sẽ không suy giảm bất chấp nguy cơ khủng hoảng lớn về chính trị, xã hội và kinh tế.
Nhưng nếu một thỏa thuận kinh tế và chính trị giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra, châu Âu có thể cũng tham gia, và một lực hấp dẫn tương tự có thể xảy ra với đồng yên Nhật và đồng bảng Anh. Nó cũng có thể giúp ổn định giá nguyên liệu thô như dầu và khí đốt tại Trung Đông và Nga. Nó có thể là cơ sở cho một hệ thống tài chính quốc tế Bretton Woods mới về kinh tế và chính trị. Nó cũng có thể hỗ trợ cho sự hội tụ chiến lược và quân sự. Ấn định tỷ giá hối đoái và hội tụ quân sự chiến lược-chính trị có thể tạo ra một cấp độ mới cho các nhà cải cách và các doanh nhân vươn ra tầm thế giới.
Tuy nhiên, Mỹ và châu Âu cũng có trách nhiệm lớn. Trong khu vực đồng euro và USD, các quốc gia đang bị các núi nợ đè nặng, Tuy nhiên, một sự tái định giá tài sản của các nước này và một bản cân đối mới cho các quốc gia, đề cập đến quyền sở hữu và kêu gọi đầu tư tư nhân vào tài sản nhà nước, có thể thay đổi hình ảnh tại Mỹ, châu Âu và Trung Quốc.
Nhưng mọi thứ xoay quanh Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không bắt đầu tiến trình hòa hợp chính trị với thế giới, tất cả các nước khác sẽ bị kẹt. Và vì vậy, các hệ quả có thể là khắc nghiệt đối với Trung Quốc và tất cả các nước khác.
Đây là một giấc mơ, nhưng cũng có thể có giá trị sau cơn ác mộng – khả năng đối đầu dữ dội với Trung Quốc, vấn đề của Trung Quốc luôn bao gồm hai yếu tố, một yếu tố đại diện bởi nguy cơ đối với bản thân Trung Quốc với tư cách là một thực thể địa chính trị và yếu tố còn lại là do Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chúng ta có thế tách riêng hai vấn đề bởi nếu không có Đảng Cộng sản, Trung Quốc với tư cách là một nền dân chủ có thể gây ra một số nguy cơ đối với thế giới. Giả định rằng sự vươn lên của Trung Quốc sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu, nó sẽ làm giảm quyền lực của Mỹ. Chúng ta có thể thấy những lựa chọn khác nhau mà Mỹ có thể dùng để ngăn chặn hay làm chậm sự vươn lên của Trung Quốc, điều có thể gây ra nhiều vấn đề cho Mỹ. Lựa chọn đầu tiên là chiến tranh chống lại Trung Quốc. Mỹ có thể phát động một cuộc chiến lớn chống lại Trung Quốc, Tron2 trường hợp này Mỹ đương nhiên sẽ thắng khi giết được 400 triệu người Trung Quốc, số lượng này lớn gấp 8 lần số người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Gây ra số lượng thương vong quá lớn tại Trung Quốc có thể tạo nên những vết thương về tinh thần và đạo đức lớn tại Mỹ, làm giảm năng lượng của Mỹ trong nhiều thế kỷ, điều có thể khiến Mỹ đi xuống ngay cả khi là kẻ thắng trận. Mặt khác, nếu nhìn vào Trung Quốc, chúng ta sẽ thấy rằng từ năm 1980 đến 2010, chính sách một con tại Trung Quốc đã lấy đi của dân số nước này 400 triệu người. Tức là nếu không có chính sách đó, dân số Trung Quốc hiện có thể đã lên đến 1,8 tỷ người. Vì vậy, nếu Trung Quốc, sau thất bại đẫm máu đó, sẽ bỏ chính sách một con và dân số có thể tăng trở lại lên 1,4 tỷ người trong khoảng 30 năm. Trong trường hợp này, Trung Quốc sẽ cực kỳ giận dữ với Mỹ và sẽ dẫn đến việc trả thù vào một thời điểm nào đó khi mà Mỹ có thể vẫn bị tổn thương về phương diện đạo đức vì đã giết hại 400 triệu người.
Có thể có lựa chọn thứ hai, đó là chia rẽ Trung Quốc thành nhiều nhà nước cạnh tranh của người Trung Quốc. Lựa chọn này có thể xua đi một số căng thẳng trong cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ, đồng thời có thể đem lại cho Mỹ lựa chọn chiến đấu với một Trung Quốc nhỏ hơn. Trên thực tế, Trung Quốc có thể bị chia tách thành 4 – 5 nước nhỏ, mỗi nước có dân số ngang bằng Mỹ. Điều đó có nghĩa là mỗi nước Trung Quốc nhỏ cuối cùng có thể trở thành một đối thủ mạnh của các nước kia.
Trên thực tế, chúng ta có thể thấy rằng thế giới, bao gồm nền văn minh Trung Quốc cổ đại, đã bị chia rẽ. Ngoài bản thân Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), chúng ta có Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Đài Loan và Xinhgapo, tất cả đều là những quốc gia và vùng lãnh thổ rất cạnh tranh. Tuy nhiên, Nhật Bản, quốc gia lớn nhất trong số đó, có dân số chỉ bằng một phần ba so với Mỹ và so với một quốc gia giả định Trung Quốc nhỏ hơn. Trong những năm 1980, Nhật Bản đã gần như vượt qua kinh tế Mỹ và đặt ra một điều khi đó được xem là mối đe dọa chiến lược lớn. Từ đó, chúng ta có thể dự đoán nguy cơ của nhiều nước Trung Quốc trên thế giới. Có nghĩa là, nhiều nước Trung Quốc có thể đặt ra một thách thức lớn hơn, thách thức lớn về kinh tế, đối với Mỹ hơn là một nước Trung Quốc thống nhất.
Lựa chọn thứ ba có thể là một cuộc chiến hủy diệt chống lại Trung Quốc, khi đó 1,4 tỷ người bị thảm sát. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại ngày nay, điều này là cực kỳ khó xảy ra. Nỗ lực của Hitler nhằm tiêu diệt 10 triệu người Do Thái đã chứng minh đó là điều không thể. Trên thực tế, nỗ lực của Hitler đã giúp tái sinh Nhà nước Do Thái Ixraen sau 2000 năm, và sức mạnh cũng như ảnh hưởng của người Do Thái hiện lớn hơn so với những năm 1930 – thời kỳ xảy ra chiến dịch tiêu diệt người Do Thái của quân phát xít.
Người Trung Quốc đã chứng minh sức tái sinh rất lớn tại nhiều nước Đông Nam Á. Ví dụ, tại Inđônêxia, trong khi chỉ chiếm thiểu số (có thể là nhỏ hơn 5% dân số) hay tại Philippin (khoảng 1% dân số), nhưng họ kiểm soát khoảng 90% nền kinh tế. Diệt vong 1,4 tỷ người Trung Quốc là khó khăn hơn gấp bội so với nỗ lực của Hitler và gần như chắc chắn sẽ kết thúc với thất bại khủng khiếp.
Lựa chọn thứ tư là chiến lược hiện nay của Mỹ, chính sách ngăn chặn/can dự, mang lại kết quả hỗn hợp. Chiến lược ngăn chặn toàn diện mà Mỹ áp đặt chống lại Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh gặp khó khăn vì nền kinh tế Liên Xô rất ít hoặc là không trao đồi với các nền kinh tế tư bản. Trong tình huống đó, các nền kinh tế tư bản có thể gây áp lực lên Liên Xô và khiến nền kinh tế của Liên Xô phải gánh chịu mà bản thân họ không phải chịu tổn hại gì. Kiềm chế Liên Xô trên thực tế có thể mang lại lợi ích cho các nước tư bản.
Ngược lại, hiện nay Trung Quốc hội nhập toàn diện với các nền kinh tế tư bản. Bất kỳ sự kiềm chế thực tế nào đối với Trung Quốc cũng có thể gây tổn hại cho Trung Quốc, nhưng cũng ảnh hưởng xấu đến các nước tư bản. Sự hội nhập kinh tế ở mức độ cao giữa Trung Quốc và phần còn lại của thế giới cho thấy có một số lượng ngày càng nhiều người ngoài Trung Quốc có thể bị tác động xấu trong trường hợp có chính sách ngăn chặn, và vì vậy họ sẽ chống lại chính sách này.
Hơn nữa, Trung Quốc có thể dễ dàng chống lại bất kỳ chính sách ngăn chặn nào trên hai mặt trận. Thứ nhất, bằng cách tăng những lợi ích ủng hộ cho Trung Quốc tại Mỹ và các quốc gia khác. Các quốc gia khác có thể bị gây áp lực trong việc lựa chọn quan hệ với Mỹ hay Trung Quốc, và những nước đó có thể tận dụng tình thế khó khăn này để tăng cường thu hút vốn và “bán mình” cho người trả giá cao hơn – hay thậm chí là cho cả hai người trả giá. Vì vậy, thực tế họ có thể được lợi trong cuộc chiến giữa hai cường quốc này.
Chính sách ngăn chặn và ràng buộc này tạo ra một tình thế rất phức tạp xung quanh Trung Quốc với các quốc gia không đứng về phía Trung Quốc nhưng cũng không hoàn toàn đứng về phía Mỹ. Do đó, trong dài hạn, chính sách này tạo ra một tình thế mà trong đó Trung Quốc sẽ không hoàn toàn bị kiềm tỏa và các nước xung quanh Trung Quốc có thể trở thành một thách thức đối với Mỹ.
Cuối cùng, kết quả có thể là: A – Trung Quốc bị kiềm tỏa, nhưng Mỹ phải đối đầu với nhiều nước hung hăng xung quanh Trung Quốc; hoặc B – Trung Quốc không bị kiềm tỏa và bị chọc giận bởi sự cạnh tranh này.
Ngoài ra, có một bầu không khí hoài nghi trên thế giới, nơi mà mọi người cạnh tranh với nhau và vai trò của Mỹ có thể suy giảm. Đó là một tình huống hoàn toàn giống với sự cạnh tranh toàn diện của thời kỳ Chiến Quốc hay của châu Âu với sự suy thoái của Đế chế Habsburg sau Vương triều Philip II và trước sự nổi lên của các siêu cường Pháp và Liên hiệp Anh.
Tất nhiên, có những cách khác mà Mỹ có thể tìm ra chính sách đúng của mình để ngăn chặn/can dự. Tuy nhiên, thực tế là 10 năm thực hiện những chính sách như vậy của Mỹ đã không hiệu quả trong việc kiềm tỏa Trung Quốc. Chính sách đó tạo ra một sự ngờ vực gia tăng giữa hai nước và góp phần vào tăng trưởng của các nước và các nền kinh tế rất hung hăng và cạnh tranh với cả Trung Quốc và Mỹ.
Thực tế là cho dù chính sách ngăn chặn có thành công hoàn toàn, thì Mỹ cũng có thể phải đối đầu với áp lực lớn hơn từ các nước trước đây đã chống lại Trung Quốc, một vài trong số các nước đó có thể thấy rằng, sau khi Trung Quốc thất bại, họ sẽ bắt đầu với chính sách chống Mỹ. Tất nhiên, hoạt động chính trị là đánh bại các kẻ thù vào lúc đó. Tuy nhiên, có thể dễ dàng hơn để tránh việc đối đầu vói một kẻ thù trong khi tạo ra một kẻ thù mới.
Trong bất cứ trường họp nào, Trung Quốc cũng đại diện cho một mối đe dọa ngoài vấn đề về Đảng Cộng sản. Khi nhìn vào phong trào dân tộc chủ nghĩa và phong trào chống Nhật Bản, có người sẽ nghĩ rằng một Trung Quốc dân chủ có thể dễ dàng trở nên hung hăng hơn và chuyển sang chủ nghĩa phát xít. Có lẽ trong trường hợp này, đối vói Mỹ, Đảng Cộng sản lại là hữu ích chứ không phải là một kẻ thù.
Có lẽ, với những phân tích đơn giản và ngắn gọn trên. Oasinhtơn nên nghĩ về các hướng rất khác nhau. Kế hoạch là xây dựng một cục diện Trung-Mỹ mới. Kế hoạch này cũng có thể loại trừ hoàn toàn cuộc chơi bập bênh trên lĩnh vực địa chính trị – và tại Trung Quốc. Nó được hỗ trợ bởi ý tưởng của Trịnh Tất Kiên về xây dựng một cộng đồng có lợi ích chung. Chỉ có thông qua hợp tác giữa hai nước mới bảo đảm cho vai trò chính trị của Mỹ trong thế kỷ này và thế kỷ tiếp theo. Không có nó, bất kỳ giải pháp nào cũng kéo Mỹ cùng với Trung Quốc đi xuống.
Hợp tác với Trung Quốc ở thời điểm hiện tại là quá dễ dàng, trong điều kiện Trung Quốc là một quốc gia phân cấp rõ ràng, nơi mà một đảng lãnh đạo toàn bộ xã hội rộng lớn. Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng lúc đó, đang ở trong một cuộc khủng hoang chính trị nghiêm trọng và hiện tại không có quyết định rõ ràng phải làm gì.
Hơn nữa, Đảng Cộng sản Trung Quốc hết sức lo lắng về việc Mỹ có thể lợi dụng khủng hoảng hiện tại để tấn công Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc đương nhiên cần một giải pháp thoát ra khỏi tình thế khó khăn hiện tại và Mỹ cần một giải pháp để thoát khỏi những thách thức chiến lược hiện tại với Trung Quốc. Mỹ cần năng lượng và sức sống từ Trung Quốc, và với Trung Quốc trên đường chân trời phía Tây, Trung Quốc có thể là giới hạn sau cùng đối với Mỹ, giới hạn đã được hình thành từ Caliphoócnia đến Haoai. Trung Quốc có thể mang lại sự thúc đẩy cần thiết cho Mỹ. Trung Quốc thực sự quan tâm tới việc tiếp cận có hệ thống với Mỹ.
Dù tăng trưởng nhanh, nhưng Trung Quốc có một trở ngại hệ thống: thiếu sự đổi mới, tức là thiếu khả năng sản sinh công nghệ mới và ý tưởng mới về thế giới. Năng lực sáng tạo đến từ Mỹ, tuy nhiên lại thiếu sức sống như của Trung Quốc. Do vậy, có rất nhiều không gian cho sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước này.
Tuy nhiên, có một sự thiếu tin tưởng một cách sâu sắc từ cả hai phía. Sự thiếu tin tưởng này có thể được khắc phục một cách triệt để. Nghĩa là, Mỹ có thể giúp đỡ Trung Quốc trong suốt thời kỳ chuyển giao hiện tại của Trung Quốc, thời kỳ này không làm suy giảm sức mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà làm cho quyền lực của Đảng Cộng sản thêm vững chắc bằng chế độ dân chủ và hiệu quả hơn.
Cùng lúc đó, sự hợp tác chặt chẽ giữa Trung Quốc và Mỹ có thể có sự tham gia của các nước khác, những nước cảm thấy liên quan hơn là đứng ngoài cuộc. Việc loại trừ các nước đó có thể khiến các nước này chống lại cả Mỹ và Trung Quốc, đồng thời phá hỏng mọi sự tin tưởng mới được tạo ra. Đó có thể là một hành động cân bằng khó khăn, nhưng là khả thi và có thể dễ dàng hơn việc mỗi nước “bán mình” cho cả Trung Quốc và Mỹ.