Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

1. Phân tích chính sách Châu Á-Thái Bình Dương của Nga

Nga có quan hệ chặt chẽ với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về địa chính trị, có thể xử lý tốt quan hệ với khu vực này hay không sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia Nga.

Đồng thời, Nga cũng là một quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương theo nghĩa rộng. Khu vực này là căn cứ quan trọng để Nga can dự vào công việc toàn cầu và xây dựng cộng đồng lợi ích trong quá trình thế giới đa cực. Cộng đồng lợi ích trong tiến trình thế giới đa cực có không gian hợp tác rộng lớn hơn. Kể từ khi bước vào thế kỷ 21 đến nay, sự coi trọng của Nga đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có xu hướng tăng lên. 
I) Nội dung chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Nga 
Trong thời kỳ đầu sau khi Nga độc lập vào năm 1991, Yeltsin thực hiện chính sách ngả hẳn sang phương Tây, nhưng ý đồ chiến lược này cơ bản không thực hiện được. Sau khi Nga bắt đầu điều chỉnh chính sách ngoại giao, đặc biệt là sau khi Putin lên làm tổng thống vào năm 2000, Nga bắt đầu tích cực hoạt động trên vũ đài Châu Á. Xu hướng này tiếp tục được duy trì trong thời kỳ Medvedev làm tổng thống. Hiện nay và trong tương lai lâu dài, về đại thể phương hướng chỉ đạo cơ bản chiến lược ngoại giao là phấn đấu cho một thế giới đa cực, sự trỗi dậy của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương phù hợp với chiến lược này. Với phương hướng chỉ đạo chiến lược xây dựng thế giới đa cực, chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Nga thể hiện những nội dung sau: 
1) Về chính trị, củng cố và phát triển quan hệ với các lực lượng chủ yếu ở Châu Á – Thái Bình Dương 
Do vị thế sức mạnh của các quốc gia ở Châu Á – Thái Bình Dương nhìn chung đã được nâng cao, Nga có ý đồ thông qua việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các quốc gia hàng đầu trong khu vực này để đạt được mục tiêu môi trường ổn định ở phía Đông. Ngoại trưởng Nga Lavrov nêu rõ: “Chúng tôi đặc biệt coi trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc và Ấn Độ, tăng cường hợp tác đa phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương khác”. Nhận thức của Nga về tầm quan trọng của Trung Quốc trong chiến lược toàn cục này không những chỉ giới hạn chỗ dựa chiến lược trong quan hệ hai nước, mà còn coi Trung Quốc là đối tác thương mại và nguồn thu hút đầu tư quan trọng nhất. 2011 là năm kỷ niệm 10 năm ký kết “Hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng Nga – Trung”, Tổng thống Medvedev và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã ký “Tuyên bố chung kỷ niệm 10 năm ký Hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng Nga – Trung” bày tỏ hai bên sẽ làm sâu sắc hơn hợp tác song phương, phát triển hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược. Hiện nay, hợp tác trong nhiều lĩnh vực giữa hai quốc gia càng ngày càng sâu sắc, hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS, bao gồm Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi), Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20)..., phối hợp lập trường trong vấn đề quốc tế quan trọng nhằm thực hiện lợi ích quốc gia của mỗi nước và duy trì hòa bình, ổn định quốc tế. 
Nga và Ấn Độ có quan hệ hữu nghị truyền thống, lãnh đạo hai nước đã quyết định đưa mối quan hệ này thành quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt. Putin cho rằng: “Củng cố quan hệ hữu nghị hai nước không những có lợi cho Nga và Ấn Độ, mà còn có lợi cho hệ thống đa cực đang hình thành”. Cuối năm 2010, Tổng thống Nga Medvedev và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã ra tuyên bố chung, cho biết Nga ủng hộ Ấn Độ chính thức gia nhập SCO và Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Để tranh thủ sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ trong công việc của Châu Á, Nga tích cực tham gia và thúc đẩy hợp tác ba bên Trung – Nga - Ấn. Tháng 6/2011, lãnh đạo Trung Quốc và Nga đã ra tuyên bố chung tại Mátxcơva bày tỏ “hai bên sẽ tăng cường hơn nữa hợp tác trong cơ chế Trung – Nga - Ấn, nhắc lại mong muốn làm sâu sắc hợp tác ba bên trong vấn đề toàn cầu và khu vực, trong đó có sự phối hợp của ba nước trong cơ chế Liên hợp quốc và đa phương khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”. Năm 2012, Nga còn lần lượt tập trận chung với Trung Quốc và Ấn Độ. 
Nga coi trọng phát triển quan hệ với Nhật Bản. Tranh chấp Quần đảo Nam Kuril (Nhật Bản gọi là Lãnh thổ phương Bắc) là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ Nga – Nhật, quan hệ hai nước những năm gần đây có lúc rất căng thẳng vì lý do trên. Trận động đất lớn tại Nhật Bản vào tháng 3/2011 đã tạo cơ hội cải thiện quan hệ hai nước. Sau khi động đất xảy ra, Medvedev và Putin tích cực viện trợ cho Nhật Bản, bao gồm khí đốt tự nhiên, than và điện năng, quan hệ hai nước đã ấm lên. Tháng 1/2012, khi thăm Nhật Bản, Ngoại trưởng Lavrov bày tỏ hai nước thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực năng lượng, an ninh, tránh vấn đề lãnh thổ. Nga cho rằng Nga và Nhật Bản đều có nhu cầu phát triển khu vực Viễn Đông và Tây Xibêri, Nga cần tiền và kỹ thuật của Nhật Bản, đồng thời Nhật Bản cũng có thể thu được lợi ích kinh tế lớn tại đây. Nga hy vọng sử dụng lợi ích kinh tế để đổi lấy việc Nhật Bản từ bỏ đòi hỏi về lãnh thổ, chứ không phải Nga nhượng bộ trong vấn đề chủ quyền đảo Nam Kuril. Phát triển quan hệ với ASEAN là bước đi quan trọng để Nga triển khai thế trận ở Châu Á – Thái Bình Dương. Tháng 12/2005, Hội nghị thượng đỉnh Nga – ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại Cuala Lămpua. Sự kiện này đánh dấu Nga và ASEAN bắt đầu thúc đẩy hợp tác mang tính thực chất. “Kế hoạch thúc đẩy hành động toàn diện ASEAN – Nga từ năm 2005 -2015” được thông qua tại hội nghị này đã chia giai đoạn thực hiện. Năm 2011, Nga đã chính thức tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á, Lavrov coi hội nghị này “cửa sổ mở ra Châu Á”. Thông qua hội nghị này, mối quan hệ qua lại giữa Nga và ASEAN được tăng cường hơn. Đồng thời, quan hệ giữa Nga và nhiều thành viên của ASEAN tiếp tục được tăng cường. 
2) Về kinh tế, tích cực thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương 
Hiện nay, Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới. Tổng lượng kinh tế của các thành viên APEC chiếm 54% kinh tế thế giới, 44% kim ngạch thương mại toàn cầu, 40% dân số thế giới, có 2,7 tỷ người tiêu dùng. Khi bị tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhiều khu vực trên thế giới xuất hiện suy thoái kinh tế, nhưng đa số các quốc gia ở Châu Á – Thái Bình Dương là những nước đầu tiên thoát khỏi khủng hoảng, đồng thời duy trì sự tăng trưởng nhanh chóng. Là nước xuất khẩu tài nguyên quan trọng, Nga hy vọng đáp chuyến tàu nhanh tăng trưởng kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. Với sự nỗ lực chung của Nga và các nước trong khu vực, hợp tác kinh tế giữa Nga với các nước Châu Á – Thái Bình Dương phát triển nhanh chóng. Cuối năm 2011, kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và Nga đạt 79,2 tỷ USD. Trung Quốc đã thay thế Đức trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nga. Putin cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hoàn toàn không phải là mối đe dọa, mà đem đến thách thức về tiềm năng hợp tác thương mại lớn, đây là một cơ hội để “thuyền buồm kinh tế của Nga” đón lấy “luồng gió Trung Quốc”. Kim ngạch thương mại giữa Nga và Nhật Bản tăng 1/3 trong năm 2011, gần đạt mức cao nhất khoảng 30 tỷ USD như thời kỳ trước khủng hoảng. Đầu tư của Nhật Bản vào Nga đạt gần 10 tỷ USD. Kim ngạch thương mại giữa Nga và ASEAN đã tăng 60% trong hai năm qua, đạt được 15 tỷ USD. Công tác chuẩn bị lộ trình đầu tư kinh tế giữa Nga và ASEAN sắp hoàn thành, hoạt động này sẽ đưa hợp tác trên các lĩnh vực năng lượng, giao thông, điện tín, vũ trụ, nông nghiệp và sản xuất công nghiệp đi vào chiều sâu. Đồng thời, hợp tác kinh tế giữa Nga và các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương khác cũng đang trong quá trình phát triển. Năm 2011, Nga và Niu Dilân đã chính thức khởi động đàm phán hiệp định tự do thương mại song phương. 
Vận chuyển năng lượng là dự án quan trọng để Nga phát triển quan hệ kinh tế với khu vực Đông Á. “Chiến lược năng lượng của Nga đến năm 2030” nêu rõ “mặc dù châu Âu vẫn là hướng chủ yếu để Nga xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt, nhưng tăng trưởng xuất khẩu của Nga sẽ được quyết định chủ yếu từ phát triển hơn hẳn của hướng phía Đông”. Ngày 28/12/2009, tuyến đường ống dẫn dầu từ Xibêri đến Thái Bình Dương chính thức khởi công. Đến nay, giai đoạn đầu đã hoàn thành và bắt đầu cung cấp dầu mỏ. Hiện nay, trong tổng lượng nhập khẩu khí đốt của Nhật Bản, tỷ trọng của Nga đã tăng từ 4,3% năm 2009 lên 8,6% năm 2010. Năm 2010, tỷ trọng dầu thô của Nhật Bản nhập khẩu từ Nga lên tới 7%. Tháng 8/2011, Ngoại trưởng Nga và Hàn Quốc tổ chức hội đàm, lập kế hoạch xây dựng đường ống dẫn khí từ Bắc Triều Tiên sang Hàn Quốc, đồng thời, còn có kế hoạch xây dựng đường dây điện cao thế để Nga xuất khẩu điện sang bán đảo Triều Tiên. Hợp tác giữa Nga và Ấn Độ trong lĩnh vực năng lượng đang từng bước phát triển. Năm 2010, trong thời gian thăm Ấn Độ, Putin và Medvedev đều ký hiệp định hợp tác năng lượng, tháng 10/2011, hai nước lại ký hiệp định năng lượng quốc tế, cam kết tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sử dụng dầu mỏ và khí đốt. Để hội nhập toàn diện tiến trình liên kết kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, Nga tích cực phát triển hợp tác đa phương với các quốc gia tại khu vực này. Năm 1997, Nga trở thành nước thành viên của APEC. Bước vào năm 2012, Ngoại trưởng Nga lần lượt đến thăm 5 nước Nhật Bản, Brunây, Niu Dilân, Ôxtrâylia và Phigi. Chuyến thăm này vừa thế hiện mong muốn phối hợp lập trường giữa các bên liên quan, vừa có ý định thúc đẩy hợp tác kinh tế. Tháng 2/2012, bài viết “Nga và thế giới không ngừng thay đổi” của Putin đăng trên tờ “Tin tức Mátxcơva” đã khẳng định “nâng cao vai trò của APEC”, lấy đó để bày tỏ nguyện vọng hội nhập “Châu Á mới” và thúc đẩy khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông phát triển hơn nữa.Tháng 9/2012, Hội nghị thượng đỉnh các lãnh đạo APEC đã diễn ra tại Vladivostok . Nga rất coi trọng hội nghị này. 
3) Về an ninh, tăng cường hợp tác kỹ thuật quân sự và xuất khẩu vũ khí, tích cực can dự vào vấn đề điểm nóng khu vực, đồng thời có ý đồ gia tăng ảnh hưởng trong việc xây dựng cơ chế an ninh Châu Á – Thái Bình Dương 
Xuất khẩu vũ khí và kỹ thuật quân sự vừa là nguồn ngoại hối chủ yếu, vừa là biện pháp quan trọng để gia tăng ảnh hưởng an ninh của Nga. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Châu Á – Thái Bình Dương và tình hình khu vực phức tạp trong những năm gần đây làm cho khu vực này trở thành thị trường quan trọng mua bán vũ khí trên thế giới. Theo báo cáo tháng 3/2012 của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm Thụy Điển, lượng nhập khẩu vũ khí thông thường của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong 5 năm gần đây chiếm 44% của thế giới, đứng cao nhất trong các khu vực toàn cầu, đồng thời, 5 nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới trong những năm gần đây đều thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương bao gồm Ấn Độ (10%), Hàn Quốc (6%), Pakixtan (5%), Trung Quốc (5%) và Xinhgapo (4%). Nga rất coi trọng xuất khẩu vũ khí sang khu vực này. Các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương chiếm tới 43% lượng xuất khẩu vũ khí của Nga trong năm 2011, trong đó Ấn Độ và Việt Nam mua nhiều nhất. Căn cứ theo hợp đồng hợp tác quân sự được ký kết giữa Nga và Ấn Độ, trong số vũ khí Ấn Độ nhập khẩu, vũ khí của Nga chiếm gần một nửa. Thông qua sự quan tâm và can dự vào vấn đề điểm nóng Đông Á, Nga có ý đồ mở rộng quyền phát ngôn trong công việc an ninh Châu Á – Thái Bình Dương. Về vấn đề bán đảo Triều Tiên, Nga luôn là một thành viên quan trọng của Đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, ủng hộ xây dựng cơ chế phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên và cơ chế an ninh Đông Bắc Á. Từ năm 2000 đến khi mất cuối năm 2011, nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Châng In đã đến thăm Nga ba lần. Năm 2011, trong thời gian thăm Nga, ông đã tuyên bố khôi phục Đàm phán sáu bên vô điều kiện. Trong năm 2011, Tổng thống Hàn Quốc Li Miêng Pắc đã thăm Nga sau chuyến thăm của Kim Châng In một tháng. Sự kiện trên đã chứng tỏ Nga vẫn đóng vai trò quan trọng trong vấn đề bán đảo Triều Tiên. Khi đề cập đến cơ chế hòa bình và an ninh Đông Bắc Á, một học giả Nga nêu rõ: “Bất kỳ tiến trình ngoại giao đa phương nào coi nhẹ lợi ích và vai trò của Nga đều không thể chấp nhận được”. 
Trong vấn đề Biển Đông, nhìn chung, Nga duy trì lập trường trung lập, nhưng cũng lợi dụng các cơ hội khác nhau để thể hiện sự tồn tại của mình. Những năm gần đây, Nga đã xuất khẩu tàu ngầm lớp Kilo cho Việt Nam, nhận thầu xây dựng lại cảng Cam Ranh mang ý nghĩa chiến lược. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 4/2012, Thứ trưởng Ngoại giao Nga còn cho biết Nga hợp tác với Việt Nam để nghiên cứu sản xuất tên lửa hành trình siêu thanh thế hệ mới. Từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 2/2012, tàu ngầm Đô đốc Panteleyev đã đến thăm Manila với sự bảo vệ của một tàu kéo quân sự và tàu hộ tống lớn. Một nhà phân tích cho rằng hành động này chứng tỏ người Nga muốn kiếm chác từ kế hoạch xây dựng lại lực lượng vũ trang của Philíppin. Hiện nay, Việt Nam và Công ty khí đốt lớn nhất của Nga đã ký hiệp định khai thác hai mỏ dầu lớn tại Biển Đông. Tuy hai mỏ dầu này không nằm trong phạm vi tranh chấp, nhưng hành động này là nền tảng để Nga can thiệp sâu hơn vào vấn đề Biển Đông. Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, mặc dù ảnh hưởng của Nga đối với công việc an ninh Châu Á – Thái Bình Dương đã không còn được như trước, kinh tế khó khăn và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đang o ép họ ở phía Tây làm cho Nga không có thời gian để quan tâm đến phía Đông, nhưng việc Nga vẫn tham gia diễn đàn an ninh khu vực như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-la, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)... đã thể hiện rõ sự coi trọng của họ đối với an ninh khu vực. Do đã gia nhập Hội nghị cấp cao Đông Á, Nga và các thành viên khác đều hy vọng hội nghị này trở thành trung tâm thảo luận an ninh khu vực. Tại Hội nghị cấp cao Đông Á vào tháng 11/2011, vấn đề mà Nga quan tâm nhất và khởi xướng là hợp tác an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
Ngoài ra, Nga còn tích cực tiến hành tập trận riêng hoặc tham gia tập trận chung tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tháng 7/2010, quân đội Nga tổ chức diễn tập chiến dịch chiến lược “Đông Phương-2010”. Đây được coi là cuộc tập trận quy mô lớn nhất trong lịch sử khu vực, lực lượng tham gia không những đến từ khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông, mà còn bao gồm gần 20.000 quân, 70 máy bay, 30 tàu chiến và 2.500 vũ khí và trang bị các loại của quân khu Uran, Bộ Nội vụ và Hội đồng an ninh liên bang Nga. Những năm gần đây, Nga và Trung Quốc cũng nhiều lần tổ chức tập trận chung. Từ ngày 22 – 29/4/2012, Nga và Trung Quốc đã tổ chức tập trận “Hợp tác trên biển – 2012”. Lực lượng quân đội Trung Quốc và Nga còn tham gia tập trận chống khủng bố “Sứ mệnh hòa bình – 2012” của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Từ năm 2003 đến nay, Nga và Ấn Độ đã nhiều lần thúc đẩy tập trận chung trên biển và trên đất liền. Từ tháng 6-8/2012, Nga lần đầu tham gia tập trận chung “Vành đai Thái Bình Dương” do Mỹ chỉ đạo. Tập trận chung đã trở thành biện pháp quan trọng thể hiện sự hiện diện của Nga tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
II) Những đánh giá chủ yếu về chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Nga 
Những năm gần đây, Nga tăng cường coi trọng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, chủ yếu họ xem xét từ các mặt sau: 
1) Nhu cầu khai thác phát triển khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông 
Trong thời kỳ lịch sử trước kia, Chính phủ Nga thiếu tính liên tục trong việc hoạch định chính sách phát triển khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông. Việc thực hiện chính sách thiếu kiên định làm cho khu vực này phát triển chậm chạp. Liệu Nga có trỗi dậy được hay không? Có thể trở lại hàng ngũ cường quốc hay không, phần lớn được quyết định bởi sự phát triển khu vực phía Đông. Trong báo cáo công tác chính phủ năm 2011, Putin nêu rõ: “Phải đặc biệt coi trọng sự phát triển của khu vực Viễn Đông và Xibêri, đây là nhiệm vụ địa chính trị cực kỳ quan trọng, phải làm cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông tăng trưởng cao hơn GDP cả nước”. Nga coi sự trỗi dậy của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là trụ cột quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa. Lavrov nêu rõ: “Tiềm lực khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có hiệu quả đối với việc chấn hưng tình hình kinh tế xã hội ở khu vực phía Đông nước Nga và tăng cường vai trò, địa vị trong khuôn khổ khu vực này”. Nhu cầu về tài chính, kỹ thuật, quản lý và nguồn nhân lực để phát triển khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông rất cao. Nhu cầu này khiến Nga phải tăng cường hợp tác với các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, từ đó cung cấp nguồn tài chính cần thiết để Nga phát triển khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông. 
2) Củng cố an ninh phía Đông, mở rộng không gian chiến lược của Nga, cân bằng môi trường chiến lược giữa phía Tây và phía Nam
Do xu hướng rời xa Nga của các nước Liên Xô trước đây ngày càng nghiêm trọng, Mỹ và NATO lấy cớ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa và mở rộng NATO sang phía Đông để từng bước áp sát Nga, không gian chiến lược phía Tây của Nga không ngừng bị thu hẹp, quan hệ Nga – Mỹ bế tắc và đi xuống, việc hướng về châu Âu ngày càng khó khăn. Trong bối cảnh không gian chiến lược ở phía Tây không ngừng bị thu hẹp, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trở thành khâu đột phá về ngoại giao của Nga. Tuy Nga không thể thay đổi cơ bản trật tự ưu tiên chiến lược Tây trước Đông sau, châu Âu trước Châu Á sau, nhưng trong tình hình chiến lược hiện nay, chỉ có chính sách hướng đến Châu Á – Thái Bình Dương mới có thể bù đắp bất lợi chiến lược phía Tây, phá vỡ cục diện khó khăn chiến lược. Do đó, Nga đã đưa ra chính sách coi trọng hơn nữa khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, mở rộng không gian chiến lược và điều kiện phát triển. Ngoài ra, việc Nga tăng cường can dự vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có xem xét đến vấn đề củng cố an ninh ở địa bàn phía Đông. Do sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mỹ quay trở lại Châu Á và Nhật Bản tăng cường sức mạnh quân sự, môi trường phía Đông của Nga đối mặt với áp lực lớn. Chính sách của Nga ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có thể phát huy tác dụng kiềm chế Mỹ, cân bằng Trung Quốc, ngăn chặn Nhật Bản. 
3) Duy trì và bảo vệ ảnh hưởng truyền thống của Nga tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, sắp xếp các quân bài trong ván cờ chiến lược nước lớn 
Chiến lược quốc gia của Nga là trở thành một nước hùng mạnh và tự tin, làm một cường quốc không chống lại cộng đồng quốc tế, không chống các cường quốc khác, mà cùng tồn tại với họ. Con đường mà Putin vạch ra từ năm 2000 vẫn là phương châm chiến lược ngoại giao của Nga. Để thực hiện giấc mộng nước lớn, Nga sử dụng tối đa sức mạnh của đất nước để hoạch định hiến lược cường quốc, trong đó bao gồm việc sử dụng các quân bài trong ván cờ Châu Á – Thái Bình Dương. Khu vực này là một điểm tiếp xúc quan trọng để Nga can dự vào công việc quốc tế, nâng cao ảnh hưởng trên thế giới. Ở cấp độ địa chính trị, Nga tiếp tục bảo vệ tiền đồn phía trước – Việt Nam, tăng cường quan hệ với Xinhgapo. Cuối năm 2009, Thủ tướng Xinhgapo Lý Hiển Long nói rằng Nga có thể coi Xinhgapo là cầu nối, thông qua Xinhgapo để phát triển quan hệ với các nước ASEAN, thậm chí cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, còn Xinhgapo lại là trung tâm tự nhiên trong tiến trình chiến lược của Nga kết nối với ASEAN và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Về phía Nga, củng cố quan hệ với Ấn Độ sẽ giúp Nga lợi dụng được ưu thế địa chính trị của Ấn Độ, tìm cách đứng chân ở Ấn Độ Dương, kết nối lợi ích từ khu vực Đông Nam Á đến phía Tây Bắc khu vực Thái Bình Dương. Nếu Nga có thể đứng vững tại Ấn Độ Dương trong tương lai, thì sẽ cùng khu vực Viễn Đông sẽ tạo thành đôi cánh, hình thành thế ôm lấy khu vực Đông Á và Đông Nam Á, cộng thêm vai trò trợ giúp Việt Nam và Xinhgapo, sẽ gia tăng đáng kể sự can dự của Nga vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, từng bước thực hiện chiến lược toàn cầu của Nga. 
III) Nhân tố hạn chế chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Nga 
Tuy chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương của Nga có hiệu quả bước đầu trong những năm gần đây, nhưng do hạn chế bởi nền ngoại giao truyền thống, thực lực kinh tế và môi trường khu vực Đông Á, chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương của Nga vẫn sẽ đối mặt với nhiều thách thức. 
1) Định vị ngoại giao của Nga vẫn lấy châu Âu làm hướng chính 
Đặc điểm địa chính trị Nga nối liền lục địa Á – Âu quyết định đặc trưng hai hướng trong lựa chọn chiến lược ngoại giao của họ. Tuy nhiên, nền ngoại giao hướng về “phương Tây” với Âu – Mỹ là chủ yếu, từ thời nước Nga Sa hoàng, Liên Xô đến nước Nga hiện nay chiếm vị trí cốt lõi, chỉ đến khi chiến lược này gặp trắc trở, thì mới tăng cường coi trọng phương Đông. Ngoại giao của Nga kể từ khi độc lập đến nay có đặc trưng quán tính lịch sử. Do ý tưởng chiến lược của Nga với chính sách “hướng về một phía” kể từ khi độc lập đến nay trở nên vô nghĩa, sự quan tâm chiến lược của họ mới chuyển sang Châu Á – Thái Bình Dương. Trong tình hình hiện nay, chính sách ngoại giao của Nga vẫn là “lấy phương Tây làm chính quan tâm cả khu vực phương Đông”. Có ba nhân tố đã quyết định đặc trưng của nền ngoại giao Nga: Một là thuộc tính văn minh, đặc điểm chung về văn minh Nga và phương Tây cùng với nguyện vọng học tập phương Tây trong một thời gian dài của Nga sẽ tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo. Hai là quan hệ kinh tế chặt chẽ, tỷ trọng của 27 nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) chiếm khoảng một nửa trong thương mại hàng hóa của Nga, còn tỷ lệ của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chỉ chiếm khoảng 16%. Đầu tư vào Nga hiện nay chủ yếu là từ châu Âu và Mỹ. Thứ ba, châu Âu là trung tâm chiến lược quốc tế truyền thống, Nga hy vọng thông qua khôi phục ảnh hưởng tại châu Âu để đạt được mục tiêu chấn hưng nước lớn. 
2) Hạn chế về thực lực kinh tế của Nga 
Những năm gần đây, tình hình kinh tế của Nga có sự chuyển biến tốt rõ rệt, mức sống của người dân được nâng cao, trở lại một trong 10 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, triển vọng phát triển của Nga không mấy lạc qua. Kinh tế Nga phụ thuộc nhiều vào tài nguyên, 1/6 GDP và 2/5 thu thuế của chính phủ từ ngành dầu khí, giá cả năng lượng trên thị trường thế giới ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Nga, nguồn thu ngoại tệ của Nga trong tương lai phần lớn được quyết định bởi giá cả thị trường năng lượng quốc tế. Theo thống kê của Tổng cục hải quan Liên bang Nga, sản phẩm năng lượng của Nga trong năm 2011 chiếm 72,6% trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của họ sang các nước không phải là SNG, chiếm 56,6% kim ngạch thương mại của các quốc gia SNG. Điều này chứng tỏ khiếm khuyết trong cơ cấu hàng hóa ngoại thương của Nga là thiếu trụ cột ngành chế tạo để duy trì sự phục hồi và phát triển kinh tế. Nếu Nga không chuyển đổi được mô hình hiện đại để phát triển kinh tế, thì chiến lược đối ngoại của họ bao gồm việc thực hiện chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương sẽ chịu sự tác động và ảnh hưởng tiêu cực. Yếu kém về sức mạnh kinh tế làm cho Nga thiếu biện pháp “mềm” như viện trợ kinh tế, đầu tư khi mở rộng quan hệ đối ngoại ở Châu Á – Thái Bình Dương, họ vẫn tranh giành lợi ích khi hợp tác với các nước nhỏ trong khu vực, không thể chủ động nhường nhịn vào thời điểm thích hợp như các nước lớn khác. 
3) Cạnh tranh nước lớn Châu Á – Thái Bình Dương hạn chế sự mở rộng ảnh hưởng của Nga 
Nhân tố kìm chế đầu tiên đối với Nga khi gia tăng ảnh hưởng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đến từ Mỹ. Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, mục tiêu chiến lược của Mỹ là xây dựng và củng cố địa vị lãnh đạo của Mỹ trên toàn thế giới, nước Nga trỗi dậy trở lại thành cường quốc tiềm năng luôn là đối tượng trọng điểm để Mỹ kiềm chế. Từ cuối năm 2011 và đầu năm 2012 đến nay, nhiều cuộc đối đầu giữa Mỹ và Nga trong các lĩnh vực như vấn đề Xyri, hệ thống phòng thủ tên lửa tại châu Âu... làm cho Mỹ càng cảnh giác đề phòng đối với Nga. Những năm gần đây, Mỹ nhanh chóng tiến bước trở lại Châu Á, cùng với việc củng cố quan hệ đồng minh truyền thống, họ tăng cường can dự vào những quốc gia có tầm quan trọng chiến lược, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược hoặc triển vọng chiến lược với Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam, Mông Cổ, đồng thời ra sức lôi kéo Mianma. Mỹ không thể cho phép Nga mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời sử dụng hệ thống liên minh lấy liên minh Mỹ - Nhật làm trung tâm và các biện pháp khác để ngăn chặn Nga mở rộng ảnh hưởng, điều này sẽ hạn chế Nga thực hiện một số mục tiêu chiến lược ở Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, Nga và Mỹ đã thể hiện xu thế cạnh tranh trong mua bán vũ khí, tranh giành ảnh hưởng tại những đất nước nhạy cảm như Ấn Độ và Việt Nam. Đồng thời, quan hệ giữa Nga với Nhật Bản tồn tại vấn đề tranh chấp lãnh thổ rất khó cải thiện. Vấn đề này sẽ ngăn chặn nỗ lực của Nga thu hút tài chính và kỹ thuật từ Nhật Bản. Xuất phát từ lo ngại đối với Nga, có quan chức trong nội các Chính phủ Nhật Bản chủ trương giới hạn sự phụ thuộc năng lượng vào Nga không quá 15%. Trong công việc Châu Á – Thái Bình Dương, tuy Nga có không gian hợp tác với Trung Quốc, Ấn Độ, nhưng lợi ích giữa hai bên không hoàn toàn giống nhau, va chạm là điều khó tránh khỏi. 
4) Sự xa rời của các đồng minh truyền thống 
Liên Xô trước đây luôn có những “đồng minh tin cậy” như Bắc Triều Tiên, Việt Nam , Ấn Độ và Mông Cổ... Họ cũng là những trụ cột chiến lược quan trọng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên Xô. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô tan rã, ngoài Bắc Triều Tiên ra, quan hệ giữa các quốc gia còn lại với Nga dần dần xa cách, trong khi họ lại xích lại gần Mỹ. Trong thời kỳ Liên Xô trước đây, Mông Cổ là “nước vệ tinh” của Liên Xô, quân đội Liên Xô thường xuyên đóng tại quốc gia này từ năm 1966. Sau khi Liên Xô tan rã, Mông Cổ thực hiện chính sách ngoại giao “đa dạng”, cố gắng cân bằng ngoại giao giữa các nước lớn, đặc biệt là có xu hướng thân Mỹ. Tháng 6/2011, Tổng thống Mông Cổ Elbegdorj thăm Mỹ, một lần nữa kêu gọi Mỹ trở thành “nước láng giềng thứ ba” của Mông Cổ, bày tỏ mong muốn nâng cấp quan hệ Mông Cổ - Mỹ. Quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô là quan hệ đồng minh phụ thuộc. Việt Nam là tiền đồn của Liên Xô tại Đông Nam Á. Nhưng sau năm 1991, quan hệ song phương rơi vào thời kỳ thoái trào, tuy những năm gần đây quan hệ hai nước không ngừng nồng ấm trở lại, nhưng không thể khôi phục mức độ đồng minh như trước, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng không ngừng ấm lên. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ luôn lựa chọn chiến lược ngoại giao gắn kết đồng minh với Liên Xô. Sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Nga bận rộn ở châu Âu và Ấn Độ được Mỹ lôi kéo, nên quan hệ Ấn – Mỹ nhanh chóng phát triển khi bước sang thế kỷ 21. Từ khi Chính phủ Obama cầm quyền đến nay, quan hệ Ấn - Mỹ xác định là quan hệ hợp tác chiến lược. Những nước này vẫn tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao ở mức độ vừa phải với Nga khi phát triển quan hệ với Mỹ, nhưng họ không thể đứng hẳn về phía Nga như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, tình trạng này đã hạn chế việc Nga phát huy vai trò ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
IV) Kết luận 
Do địa vị chính trị, kinh tế ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được nâng cao, cho dù là tiến trình hội nhập liên kết kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương hay phối hợp lập trường với các quốc gia khu vực này trong công việc quốc tế thì cũng vẫn là con đường quan trọng để Nga thực hiện giấc mộng cường quốc. Hiện nay, phương hướng ngoại giao của Nga đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã hình thành, đó là lấy hợp tác kinh tế làm phương hướng hợp tác chủ yếu, quan tâm cả an ninh khu vực, quan hệ nhiều với các quốc gia kinh tế phát triển nhanh chóng và chú ý những nước có địa chính trị quan trọng trong khu vực. Hướng tới tương lai, Chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của Nga lấy Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên ở Đông Bắc Á, Việt Nam ở Đông Nam Á, Ấn Độ ở Nam Á làm điểm cơ bản, tận dụng hai điểm nóng là Bắc Triều Tiên và Biển Đông gây ảnh hưởng chiến lược ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
Cùng với phát huy ảnh hưởng tại Châu Á – Thái Bình Dương, Nga có ý đồ sử dụng ưu thế địa chính trị để kết nối chiến lược Âu – Á. Nga sẽ tìm kiếm hợp tác thông qua các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, thúc đẩy hợp tác với EU ở khu vực châu Âu, tiến tới liên kết trên toàn thị trường lớn Âu – Á từ Lixbon đến Vladivostok, “xây dựng không gian kinh tế và nhân loại thống nhất từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương”. Trong lĩnh vực quan hệ giữa các nước lớn, Nga lo ngại bị các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản gạt ra ngoài lề trong công việc Châu Á – Thái Bình Dương, trở thành “kẻ ngoài cuộc”, hình thành quan hệ đối tác ba bên Mỹ - Nhật – Trung không có sự tham gia của Nga. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã có bàn cờ đầy đủ các nước lớn, Nga muốn đưa ra tiếng nói của mình, chứ không đóng vai trò “theo đuôi” bất kỳ bên nào, đồng thời muốn tối đa hóa lợi ích quốc gia, vậy thì khả năng lựa chọn lớn nhất của Nga là luồn lách giữa các nước lớn, thực hiện ngoại giao cân bằng. Trong quan hệ phức tạp giữa các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương, Nga không muốn bất kỳ một nước lớn nào (bao gồm cả Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản) đơn phương chỉ đạo quá trình phát triển khu vực Tây Xibêri và Viễn Đông, đồng thời ba nước Mỹ - Trung – Nhật cũng không muốn bị loại khỏi tiến trình này. Mối quan hệ đó đã tạo điều kiện tốt cho Nga thúc đẩy ngoại giao cân bằng, để giữa các nước lớn có sự cân bằng nhất định. 
Chiến lược rõ ràng này là tiền đề của thành công ngoại giao, nhưng trong thời kỳ lịch sử trước kia, chính sách ngoại giao của Nga đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương duy trì thái độ thực dụng, thiếu một quy hoạch tổng thể toàn diện mà chi tiết, từ đó, hạn chế hợp tác giữa Nga với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, giới chính trị, giới học giả tinh hoa của Nga đã ý thức được tính chất quan trọng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Chính sách của Nga sẽ dần dần được thể hiện rõ ràng hơn trong nhiệm kỳ tổng thống lần này của Putin, thậm chí có thể đưa ra “chiến lược Châu Á” toàn diện và cụ thể trong tương lai./. 
Theo Tạp chí “Nghiên cứu vấn đề quốc tế”, Trung Quốc
Nhật Linh (gt)