Viện Thông tin Khoa học Xã hội
Mô hình phát triển Đông Á và Mô hình phát triển Đông nam Á là khái niệm được David Depice và các chuyên gia Harvard sử dụng trong báo cáo tư
vấn cho Chính phủ Việt nam 2008. Báo cáo chỉ ra những kinh nghiệm thành
công của Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Á khác trong quá trình
trở thành các xã hội công nghiệp (NICs/NIEs) và những kinh nghiệm thất
bại (tương đối) của các nước Đông nam Á đến nay vẫn chưa (hoặc không)
vượt qua cái bẫy của sự phát triển. Bài viết bàn về những kinh nghiệm
này và cố gắng tìm kiếm những gợi ý cho sự phát triển ở Việt Nam từ góc
độ văn hóa và con người; gồm các nội dung: Tham vọng của thời tăng trưởng và những lời cảnh báo. Rồng, hổ Đông Á và những bài học gây ấn tượng. Mô hình Đông Á và Đông nam Á của
David Dapice và các cộng sự. Gợi ý cho Việt Nam: Trách nhiệm của Nhà
nước và vấn đề sử dụng sức mạnh của văn hóa và con người. Kết luận.
Bài
đã trình bày ở hội thảo “Sự phát triển văn hoá và con người ở một số
nước Đông Á – bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế” tổ chức tại Đà Nẵng ngày 27-2-2009.
I. Tham vọng của thời tăng trưởng và những lời cảnh báo
1. Từ
giữa năm 2008, ở Việt Nam, việc bàn cãi về mô hình phát triển Đông Á và
Đông Nam Á đột nhiên nổi lên thành một vấn đề nóng. Trong một vài
chương trình nghị sự ở tầm quốc gia, tại một số diễn đàn lý luận, trên
một loạt bài báo Online và đặc biệt, trong những trao đổi không chính
thức giữa các học giả, các chính khách và các nhà hoạt động xã hội khác,
người ta băn khoăn nêu vấn đề: Việt Nam sẽ phát triển theo mô hình nào -
Đông Á hay Đông nam Á? Thực chất của vấn đề là, với những gì mà Việt
Nam đã đạt được thì sự phát triển tiếp theo - theo quán tính của thời kỳ
đổi mới - sẽ tiếp nhận vào nó cấu trúc của mô hình Đông Á với những
nhân tố tích cực của điều tiết vĩ mô và sử dụng nguồn lực, hay sẽ không
tránh khỏi phải rơi vào mô hình Đông nam Á với đầy rẫy những tiêu cực
của cạm bẫy phát triển? Đang cất cánh, nhưng Việt Nam liệu có thể “hóa
rồng”, theo kiểu Hàn Quốc, Đài Loan... như tiên liệu của những dự báo
lạc quan, hay đó chỉ là tham vọng lãng mạn của một thời tăng trưởng? Và,
nếu như Đông nam Á là mô hình “định mệnh”, thuật ngữ của các chuyên gia
Harvard, thì phải chăng, đến một lúc nào đó, có thể là vài chục năm
sau, nhiều lắm Việt Nam cũng chỉ được như Thailand hay Philipines mà
thôi? [1].
Khác
với những năm trước 2007, giấc mơ hóa rồng của Việt Nam càng ngày bị
soi xét hoài nghi cùng với ảnh hướng xấu của khủng hoảng tài chính thế
giới và cơn lạm phát giữa năm 2008 trong nền kinh tế Việt Nam .
2. Thực
ra, vấn đề mô hình phát triển Đông Á và Đông nam Á được gợi ra và khởi
xướng thảo luận chỉ bắt đầu từ khi các chuyên gia Đại học Harvard công
bố Báo cáo: “Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam. Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020”. Đây là một tài liệu do Chương trình Châu Á thuộc
Đại học Harvard soạn thảo với sự hỗ trợ của UNDP Hà Nội nhằm đáp ứng
yêu cầu tham vấn của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về bản dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Tài
liệu này được công bố tháng 1/2008, chính thức post trên mạng của UNDP
tháng 5/2008, nhưng ngay trước đó tài liệu đã được tìm đọc khá rộng rãi.
Nhóm
tác giả của tài liệu này gồm một số nhà khoa học Mỹ thuộc Đại học
Harvard và một số chuyên gia Việt Nam thuộc Chương trình giảng dạy kinh
tế Fulbright Việt Nam, do GS. David Dapice chỉ đạo nghiên cứu và soạn
thảo. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trực tiếp nghe và đối thoại với nhóm tác giả vào đầu năm 2008.
Tiếp theo báo cáo này, nhóm tác giả David
Dapice còn công bố thêm các nghiên cứu bổ sung khác cùng chủ đề về tình
hình kinh tế và sự phát triển ở Việt Nam. Những nghiên cứu này được
biết dưới cái tên “Bài thảo luận chính sách” hiện đã ra đến số 4. Xin được điểm tên của các “Bài thảo luận chính sách” để tiện hình dung chủ đề và mối quan tâm của nhóm chuyên gia:
- Tình trạng bất ổn vĩ mô: Nguyên nhân và phản ứng chính sách. Bài thảo luận chính sách số 1. 20/2/2008.
- Vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cải cách. Bài thảo luận chính sách số 2. 19/5/2008.
- Nguyên nhân sâu xa về mặt cơ cấu của bất ổn vĩ mô. Bài thảo luận chính sách số 3. 18/9/2008.
- Thay đổi cơ cấu: giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất. Bài thảo luận chính sách số 4. 1/1/2009.
3. Phải
thừa nhận rằng, các nghiên cứu của nhóm tác giả Đại học Harvard đã nhận
được sự quan tâm khá đặc biệt của giới trí thức và các nhà hoạt động
chính trị - kinh tế - xã hội. Điều này có lý do thú vị của nó nằm ở
“bảng giá trị” của đời sống tinh thần xã hội Việt Nam. Rõ ràng, ý kiến
của các chuyên gia Harvard được quan tâm nhiều hơn, được nhìn nhận thiện
cảm hơn, trong khi các ý kiến khác của một số học giả Việt Nam cũng rất
có giá trị hoặc cũng rất đáng lưu tâm thì lại không mấy ai để ý. Sự
thực, bên cạnh những đánh giá tích cực về tốc độ tăng trưởng kinh tế và
bước phát triển đầy ấn tượng của xã hội Việt Nam, báo cáo của các chuyên
gia Harvard cũng là những lời cảnh báo khách quan đối với giấc mơ hóa
rồng của kinh tế Việt Nam, dù rằng trước đó đã có không ít những lời
cảnh báo tương tự.
Các
báo cáo của nhóm chuyên gia Harvard được phổ biến chủ yếu là qua mạng
Internet; người ta tìm đọc, bàn luận, hưởng ứng, tán đồng và phê phán…
nhiệt tình, nhưng rất ít công bố trên báo và tạp chí in. Chỉ một số bài
viết của các học giả Việt Nam ở ngoài nước triển khai sâu thêm về các
chủ đề được bàn. Tâm điểm của bàn luận là kinh tế và phần đông những
người tham gia bàn luận cũng chú ý nhiều đến phương diện kinh tế - nền
kinh tế Việt Nam đang gặp những trở ngại gì và làm thế nào để vượt qua
những trở ngại ấy. Dễ thấy là vấn đề mô hình phát triển Đông Á và Đông
nam Á chỉ được các chuyên gia Harvard trực tiếp bàn đến trong báo cáo
đầu tiên (chúng tôi sẽ đề cập chi tiết hơn lập luận của báo cáo về hai
mô hình này ở phần sau). Những Bình luận chính sách tiếp theo
nặng về các vấn đề kinh tế. Tuy vậy, do các vấn đề kinh tế được bàn đều ở
tầm vĩ mô nên hầu hết các ý kiến đều có đụng đến định hướng phát triển
và mô hình phát triển. Hơn thế nữa, những so sánh đối chiếu của các báo
cáo cũng chủ yếu so sánh với các nước thuộc Đông Á và Đông nam Á.
Một
điều thú vị khác cũng cần thiết phải nói ở đây là, độc giả Việt Nam,
theo quan sát của chúng tôi, hình như không mấy ai hoài nghi hai mô hình
này cũng như về các phân tích khác hoặc về các số liệu mà nhóm chuyên
gia Harvard đã công bố. Có thể người ta tin ở GS. David Dapice và các
chuyên gia Harvard. Nhưng cũng có thể có người hoài nghi mà không tiện
phản bác, nhất là phản bác trên báo chí - bởi, năm 1994, đa số độc giả
Việt Nam đều đã biết đến cuốn sách “Theo hướng rồng bay…” khá nổi tiếng về cải cách kinh tế ở Việt Nam mà GS. David Dapice và Dwight Perkins chính là những tác giả [2].
4. Câu hỏi đặt ra là, với tính cách là mô hình của sự phát triển thì Đông Á và Đông nam Á có đúng là hai mô hình phát triển hay không? Đông Á, như thuật ngữ mà các chuyên gia Harvard đã sử dụng, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và Singapore và Đông nam Á bao gồm Indonesia, Malaysia, Philipines và Thailand [3] liệu có hội đủ trong nó những nội hàm khách quan và liệu có đủ chặt chẽ về mặt logic để được coi là mô hình của sự phát triển hay không? Còn, nếu chưa đủ chính xác để tồn tại với tính cách là những khái niệm khoa học dùng để chỉ mô hình phát triển, thì phải chăng vấn đề Đông Á - Đông nam Á hóa ra chỉ là giả vấn đề, hoặc những phân tích của các chuyên gia Harvard, rút cục, sẽ chẳng còn mấy giá trị?
Những
câu hỏi này không quá khó, nhưng cũng không dễ trả lời cho đủ thuyết
phục. Trong bài, chúng tôi sẽ cố gắng trả lời một phần những câu hỏi
này.
Dẫu
sao, tiếng nói cảnh báo phát đi từ những phản biện chính thức của GS.
David Dapice và các chuyên gia Harvard trước Thủ tướng Chính phủ vẫn có
sức nặng hơn nhiều so với những lời cảnh báo khác.
Để
bàn về cái mà các chuyên gia Harvard gọi là mô hình Đông Á, chúng tôi
thấy cần thiết phải đi ngược lại tới cội nguồn của vấn đề - Mô hình phát triển Đông Á, nếu có, thì từ đâu ra.
II. Rồng, hổ Đông Á và những bài học gây ấn tượng
1. Vào những năm 90 (thế kỷ XX), với một quan niệm rất tương đối, những nước công nghiệp mới ở châu Á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và Singapore (NICs/NIEs[4])
khi thì được gọi là những con rồng, khi thì được gọi là những con hổ.
Người châu âu không thiện cảm với rồng, thậm chí coi rồng là độc ác nên
thích gọi những nước này là hổ, còn người châu Á lại ngưỡng mộ rồng nên
thích gọi những nước này là rồng. Nhưng gần đây, cũng không thật chặt
chẽ, báo chí lại phân biệt rồng với hổ. Người ta coi hổ châu Á gồm những
nước mới nổi: Indonesia, Malaysia, Philipines, Thailand và đôi khi cả
Trung Quốc. Việt Nam cũng đã có lần được Tổng thống G. Bush gọi là “con
hổ trẻ” (young tiger [5]). Cách nói bóng bảy “Sự
thần kỳ Đông ¸” (hay “Sự thần kỳ châu ¸”), do thay đổi quan niệm về
rồng và hổ nên cũng được hiểu rộng rãi hơn. Nếu trước kia “Sự thần kỳ
Đông ¸” chỉ dùng để nói về 4 con rồng thì nay thường dùng để gọi chung
cho hiện tượng phát triển nhanh ở cả các nước công nghiệp mới và cả các
nước có tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực này. Trong tình trạng sử dụng
thuật ngữ “cởi mở” như vậy, có thể thấy, các khái niệm “Mô hình Đông ¸”
và “Mô hình đông nam ¸” mà GS. David Dapice và các chuyên gia Harvard sử
dụng, rõ ràng, lại thêm một lần nữa “làm phong phú hơn” sự phân loại về
phát triển ở đây.
Dẫu
sao, vấn đề vẫn chưa thoát ly khỏi cơ sở khách quan, hiện thực và hiển
nhiên của nó - Đó là sự tăng trưởng và phát triển nhanh của nhiều nước
trong khu vực Đông Á.
2. Như
mọi người đều biết, khoảng hơn 20 năm nay, Đông Á với sự trỗi dậy của
Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và Singapore là chủ đề không xa lạ với giới
lý luận và các nhà hoạt động chính trị, xã hội. Sự xuất hiện của 4 con
rồng châu Á được coi là điều kỳ diệu của thế kỷ XX. Trên khắp các diễn
đàn từ Đông sang Tây, người ta đã nhiều lần mổ xẻ sự phát triển thần kỳ
của các nền kinh tế này nhằm tìm ra bài học kinh nghiệm cho các nước
chậm phát triển, và cả các nước phát triển. Tấm gương công nghiệp hóa
thần tốc của Đông Á cho tới nay vẫn là liều thuốc kích thích, gây ấn
tượng mạnh với các nước đi sau:
- Không
nhất thiết phải đi qua hàng trăm năm tích lũy và cải tạo tư bản chủ
nghĩa như châu âu, các nước đi sau có thể nhanh chóng tiến tới thịnh
vượng và phồn vinh trong một xã hội công nghiệp.
- Không
nhất thiết phải có nguồn lực tự nhiên giàu có và đa dạng, trong xã hội
hiện đại, con người và văn hóa chính là những nguồn lực quan trọng và
quyết định.
- Không
nhất thiết phải chịu sự trói buộc của thực trạng kinh tế, hoặc chỉ là
“đầu ra” của nền kinh tế, ngày nay, giáo dục là nền tảng và là phương
thức tạo ra nguồn lực phát triển - “Tri thức đẻ ra tri thức, tri thức là
thứ lấy không bao giờ cạn” (Alvin Toffler).
- Không nhất thiết hiện đại hóa phải đồng nhất với phương Tây hóa, các nước đi sau có thể và cần phải tìm những con đường riêng của mình để trở thành một xã hội hiện đại.
- Không
nhất thiết phải phá bỏ các giá trị cũ hoặc “cứng nhắc rập khuôn” các
giá trị mới, trong tương quan với các giá trị ngoại sinh, giá trị truyền
thống có thể hóa thân thành sức mạnh mới - hiếu học, cần cù, đồng thuận
và trách nhiệm xã hội… là những giá trị không bao giờ cũ.
Cần phải nói vắn tắt về lịch sử kinh tế của 4 con rồng này để thấy rõ những điều gây ấn tượng vừa nêu.
3. Vào
năm 1960, GDP (thực tế) của Hàn Quốc mới chỉ là 87 USD/người, Đài Loan
170 USD/người, Singapore 427 USD/người, Hongkong 1631 USD/người. Lúc đó
tất cả đều không khác mấy những làng quê nghèo, nóng lạnh vì những vấn
đề chính trị độc đoán và Singapore thì liên tục chao đảo vì những cuộc
bạo loạn sắc tộc đẫm máu. Sau gần hai thập niên, GDP của Singapore năm
1985 là 10.811 USD/người, Hàn Quốc năm 1988 là 8.934 USD/người, Đài Loan
năm 1987 là 9.992 USD/người, Hongkong năm 1990 là 9.896 USD/người.
Nghĩa là đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo (960 USD/người theo
tiêu chuẩn của Liên hợp quốc, hoặc 875 USD/người theo tiêu chuẩn của
Ngân hàng thế giới). Không rơi vào cái bẫy của sự phát triển và dừng lại
ở đó, các nước này tiếp tục phát triển và trở thành các nước công
nghiệp mới (NICs/NIEs).
Đến năm 2005, GDP (tính theo PPP) của Hàn Quốc đã là 22.029 USD/người,
Hongkong là 34.833 USD/người, Singapore là 29.663 USD/người. GDP của
Đài Loan năm 2001 là 19.200 USD/người. Chỉ số phát triển con người (HDI)
ở các nước này cũng rất cao: theo Báo cáo phát triển con người
2007/2008 thì Hongkong có chỉ số HDI là 0,937, xếp hạng 21/177 nước;
Singapore - HDI là 0,925, xếp hạng 25/177 nước; Hàn Quốc - HDI là 0,921,
xếp hạng 26/177 nước [6].
Cần
nói thêm rằng, Singapore là một quốc gia độc lập, nhưng chỉ là một đảo
quốc, có diện tích và dân số thua kém nhiều thành phố của các nước khác.
Tuy vậy, với nền kinh tế mở, năng động vào loại bậc nhất thế giới, có
sự kiểm soát, điều tiết vĩ mô rất nghiêm ngặt, từ giữa thập niên 80 trở
lại đây Singapore là trung tâm tài chính thứ tư của thế giới sau New
York, London và Tokyo. "Con đại bàng tài chính phương Đông" này là trung
tâm dịch vụ, thương mại của của hầu hết các công ty đa quốc gia trên
thế giới, đồng thời là thị trường trao đổi ngoại tệ bậc nhất toàn cầu,
mỗi ngày lượng ngoại tệ trao đổi lên đến hơn 100 tỷ USD. Trên thực tế,
tiếng nói của đảo quốc bé nhỏ này nhiều khi ngang ngửa với một cường
quốc.
Còn
Hongkong, từ năm 1997 đã trở về với Trung Quốc; tuy từ đó nền kinh tế
của đặc khu này có nảy sinh một số vấn đề nhất định, song vị trí quốc tế
của Hongkong vẫn rất lớn và cũng như trước 1997, Hongkong vẫn là “con
gà đẻ trứng vàng” của người Trung Hoa [7].
4. Thật
dễ hiểu tại sao sự lớn mạnh của các nước NICs/NIEs lại thường xuyên
được chú trọng phân tích và tìm hiểu, mặc dù các nước này luôn bị phương
Tây phê phán là độc tài, thiếu dân chủ hoặc có sự can thiệp của giới
quân sự [8].
Khoảng đầu những năm 90, chính sự phát triển thần kỳ của các nước này
đã là nguyên nhân khiến "các quan chức và giới kinh doanh Mỹ bị chỉ
trích nhiều về việc không bắt chước thành công của mô hình châu Á" [9].
Truy
tìm nguyên nhân của sự thần kỳ Đông Á, dĩ nhiên là phải phân tích vai
trò của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội… Dễ thấy đây là khu vực
suốt nửa thế kỷ nay luôn được hưởng lợi từ các dòng vốn. Những năm
60-70, các nước thân Mỹ ở vùng này còn được hưởng lợi từ cuộc chiến
tranh Việt Nam - ông Lý Quang Diệu cho rằng: “Cuộc chiến Việt Nam đã đem lại cho các nước phi Cộng sản thời gian và điều kiện để các nước này đi theo con đường của Nhật và phát triển thành 4 con rồng…” [10]. Ý kiến này, theo chúng tôi, cũng chẳng có gì là xa sự thật.
Tuy
nhiên, ngoài các nguyên nhân vừa nói, điều đáng lưu ý là, hai chục năm
nay, các học giả phương Tây lại chú ý nhiều đến những nguyên nhân thuộc
về văn hóa. Nổi lên ở đây là vai trò của Khổng giáo, của các giá trị châu Á, của những nét đặc thù về con người và văn hoá Á Đông...
Bởi
vậy, trong khuôn khổ của những bàn luận về mô hình Đông Á và mô hình
Đông nam Á, chúng tôi thấy, những bài học kinh nghiệm để đi tới thịnh
vượng mà người ta có thể tham khảo ở 4 con rồng, thường được nói đến là:
- Sử dụng nguồn lực có hiệu quả, chú trọng nội lực, đặc biệt nguồn lực con người.
- Đề cao văn hóa và giá trị truyền thống, đặc biệt văn hóa Nho giáo với các giá trị cần cù, yêu lao động, hiếu học, tôn trọng cộng đồng và gia đình…
- Đề cao đồng thuận và gắn kết xã hội tạo ra ý chí phát triển mạnh mẽ.
- Quản lý vĩ mô linh hoạt, có tầm nhìn dài hạn.
Với những điều vừa nêu, chúng tôi muốn một lần nữa cung cấp những thông tin cần thiết để vấn đề mô hình Đông Á và Đông nam Á mà
GS. David Dapice và các chuyên gia Harvard đưa ra, được nhìn nhận trong
mối liên quan của nó với đời sống thực tế sôi động ở Đông Á mấy thập
niên qua.
III. Mô hình Đông Á và Đông nam Á của David Dapice và các cộng sự
1. Trong
báo cáo của mình, David Dapice và các chuyên gia Harvard nhận định
rằng, ở khu vực Đông Nam Á, trước đây, một số nước đã có một thời tăng
trưởng khá nhanh. “Malaysia từ 1969 tới 1995 tăng trưởng trung bình
7%/năm. Tương tự, Indonesia trong 3 thập kỷ 1976-1996, cũng tăng trưởng
trung bình 6,8%/năm. Thailand duy trì ở mức 7,6%/năm trong gần 4 thập
kỷ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các nước này hiện đã giảm, chỉ còn
ở mức 4-6%. Vấn đề là sự suy giảm tăng trưởng ở các nước này xảy ra khi
mức thu nhập trung bình của người dân còn tương đối thấp, ở Indonesia
là 1.280 USD, ở Thailand là 2.700 USD, và ở Malaysia dưới 5.000 USD.
Ngược lại, thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc và Đài Loan hiện nay đều
vượt mức 15.000 USD. Trong khu vực, chỉ có Hàn Quốc và Đài Loan (ngoại
trừ Singapore và Nhật Bản) là hai nước duy nhất đã thành công trong việc
đưa mức thu nhập trung bình của người dân vượt ngưỡng 10.000 USD” [11]. Điều đáng suy nghĩ là, “sau thế chiến thứ II, các nước Đông Á
và Đông Nam Á đều trở lại cùng một vạch xuất phát từ mức thu nhập và
phát triển thấp. Thế nhưng từ những năm 1960, các nước Đông Á đã bước
vào một giai đoạn phát triển chưa từng có trong lịch sử… So với Đông Nam
Á thì các nền kinh tế Đông Á đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn
trong một thời gian dài hơn, và kết quả là các nước Đông Á (trừ Trung
Quốc) đang nằm trong số những nước giàu nhất trên thế giới”.
“Ngược lại, ngay cả trong những lúc tăng trưởng nhanh nhất, các nước Đông Nam Á cũng chưa thể thực hiện được sự chuyển hóa về chính trị, kinh tế, và xã hội như Đông Á. Đây là điểm khác biệt lớn giữa
các nước Đông Á và các nước Đông Nam Á cũng như các nước đang phát
triển nói chung. Cho đến nay, nền kinh tế của Đông Nam Á vẫn dựa vào
việc khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên tự nhiên. Nhiều nước Đông
Nam Á đã phải qua những giai đoạn thăng trầm chính trị và biến động xã
hội. Nhiều chính phủ ở đây đã bị suy yếu vì tham nhũng và chính trị bẩn
thỉu. Biểu tình lớn, đảo chính quân sự đã từng lật đổ chính quyền ở
Indonessia, Philipines và Thailand. Quá trình đô thị hóa ở những nước
này diễn ra một cách hỗn loạn, với hàng triệu người sống lay lắt trong
các khu ổ chuột, dọc bờ sông hay bên rìa thành phố ở Jakarta, Bangkok,
và Manila. Dịch vụ giáo dục và y tế tốt là điều đó xa xỉ, mà chỉ những
người giàu mới với tới được”.
“Các nước Đông Á đã thành công hơn các nước Đông Nam Á gần như trên mọi phương diện…”.
“Con đường của các nước Đông Á là con đường thẳng để đạt tới sự thịnh
vượng, ổn định và kính trọng của cộng đồng quốc tế. Còn con đường của
các nước Đông Nam Á thì vòng vèo và gồ ghề hơn, đưa các quốc gia này tới
một hiện tại mong manh hơn và một tương lai bất định hơn, với nỗi ám
ảnh của bất công và bất ổn. Đáng tiếc là dường như Việt Nam lại đang đi lại con đường của các nước Đông Nam Á”.
2. Những “đặc trưng cơ bản của mô hình phát triển Đông ¸” được David Dapice và các chuyên gia Harvard xác định, gồm:
- Giáo dục: “Các quốc gia Đông Á đầu tư hết sức mạnh mẽ cho giáo dục ở tất cả các cấp, có tầm nhìn chiến lược toàn diện cho sự phát triển nguồn lực con người…”, “xây dựng được một nền giáo dục và y tế đẳng cấp thế giới cho người dân của mình”.
Năm
1971, khi số kỹ sư ở các nước có mức thu nhập trung bình thời đó là
4,6/1.000 dân, thì ở Đài Loan tỷ lệ này là 8/1.000 và Singapore là
10/1.000. Ngay cả những chiến lược công nghiệp có tính định hướng của
Chính phủ cũng được bắt đầu bằng việc đầu tư vào vốn con người. Ngày
nay, nhiều trường đại học của Trung Quốc, Hàn Quốc, và Đài Loan nằm
trong danh sách 100 trường đại học hàng đầu của Châu Á. Ngoài Singapore,
không một nước Đông Nam Á nào có trường đại học nằm trong danh sách
này.
- Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa: “Các
nước Đông Á đạt được những kết quả đáng tự hào hơn nhiều so với các
nước Đông Nam Á trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và đô thị hóa”. “Những thành phố của những quốc gia này năng động về mặt văn hóa, trật tự về mặt xã hội, và an toàn về mặt vệ sinh, môi trường”.
Thành phố ở Đông Á là động lực cho tăng trưởng và đổi mới kinh tế. Trong
khi đó, thành phố ở các nước Đông Nam Á ô nhiễm, ùn tắc, đắt đỏ, ngập
nước, nghèo đói, tội phạm và bất lực trong việc cung cấp các dịch vụ đô
thị cơ bản.
- Phát triển doanh nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế: “§ông Á thực
hiện một chính sách kiên trì nhiều khi đến cực đoan trong việc theo
đuổi kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến để giúp các doanh nghiệp
của mình xâm nhập thị trường và hiện đại hóa sản xuất”.
Ở
Đông Á, nhà nước căn cứ vào thành công trong kinh doanh để đánh giá các
doanh nghiệp. Nhà nước xác định một ranh giới rạch ròi giữa những thế
lực kinh tế và chính trị, thường xuyên từ chối nhu cầu ngay cả của
những tập đoàn có thế lực nhất về mặt chính trị, khi lợi ích xã hội bị
xâm phạm. Trong khi đó, ở Đông Nam Á, các quyết định của nhà nước thường
bị chi phối và thao túng bởi các nhóm lợi ích, “Chủ nghĩa tư bản thân
hữu” phổ biến trong nhiều nước ở đây.
- Hệ thống tài chính: Ở
Đông Á, hệ thống tài chính năng động, hiệu quả và minh bạch hơn nhiều
so với Đông nam Á. “Các nước Đông Á dành một phần lớn thu nhập quốc dân
cho các hoạt động đầu tư, và họ đã đầu tư một cách hiệu quả, nhà nước
đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu
những rủi ro có tính hệ thống”.
Các
nước Đông Nam Á đã thành công trong việc huy động một tỷ lệ đầu tư rất
cao nhưng lại thất bại trong việc lặp lại kỳ tích tăng trưởng của các
nước Đông Á, trong đó nguyên nhân chủ yếu là suất sinh lợi của các khoản
đầu tư ở các nước Đông Nam Á thấp hơn nhiều. Tham nhũng chắc chắn là
một trong những thủ phạm.
- Hiệu năng của Nhà nước: “Những
quốc gia Đông Á đều tự hào vì có chính phủ năng động, hiệu quả, có
quyền năng và xã hội tiên tiến”. “Đặc trưng cơ bản của mô hình phát
triển Đông Á (®ược thể hiện ở Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore) là khả năng của nhà nước trong việc áp đặt kỷ cương đối với các nhóm lợi ích, nhất
là khi các nhóm này cản trở nền kinh tế trở nên có tính cạnh tranh
hơn”. “Các nhước Đông Á thành công là nhờ có chính sách đúng đắn trong 6
lĩnh vực then chốt, bao gồm giáo dục, cơ sở hạ tầng và đô thị hóa,
doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế, hệ thống tài chính, hiệu năng của nhà
nước và công bằng”.
- Công bằng xã hội: “Một trong những đặc điểm quan trọng của mô hình Đông Á là sự tăng trưởng nhanh về kinh tế được kết hợp với sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều.
Ngay cả khi có mức thu nhập cao như hiện nay, phân phối thu nhập ở Hàn
Quốc và Đài Loan cũng vẫn đồng đều hơn so với Malaysia, Philipines,
Thailand, Singapore và Việt Nam”.
- Ngoài ra, “Đông Á còn có thể tạo ra những quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thay đổi khi cần thiết”.
Hàn
Quốc đã phản ứng một cách mạnh mẽ trước những yếu kém trong cấu trúc
nền kinh tế mà họ nhận ra được từ cuộc khủng hoảng 1997 và sau đó đã
trỗi dậy vững vàng hơn.
3. Chúng
tôi cố gắng tóm lược một cách trung thành ý kiến của David Dapice và
các cộng sự như trên cốt để thấy rõ hơn quan niệm của các tác giả về đặc trưng của mô hình phát triển Đông Á và Đông nam Á.
Nếu
căn cứ vào câu chữ trong văn bản Báo cáo, thì cái mà các tác giả gọi là
“đặc trưng”, “đặc điểm quan trọng” của mô hình phát triển Đông Á và
Đông nam Á, chỉ xuất hiện vài lần. Tuy nhiên, căn cứ vào tinh thần chung
toát lên từ toàn bộ Báo cáo thì đặc trưng của hai mô hình phát triển này lại
là toàn bộ những gì không thành công ở Đông nam Á được các tác giả đem
đối chiếu với Đông Á để tìm ra những quan niệm, chủ trương, cách làm
hoặc hiệu quả... không giống nhau, trái ngược nhau, mâu thuẫn với
nhau... Về thực chất, chẳng qua đây chỉ là phương pháp so sánh trong
nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu này có cái hay của nó là cho phép làm
lộ ra những điểm mạnh, điểm yếu, đặc biệt là những khuyết tật, những
thiếu hụt cũng như những cái chưa hoàn thiện... ở đối tượng được so
sánh. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có hạn chế của nó, đặc biệt khi
người ta đem so sánh những đối tượng mà về nguyên tắc lại không thể so
sánh với nhau. Vấn đề này tương đối khó, xin được bàn trong một dịp
khác.
Ở
đây, chúng tôi chỉ lưu ý rằng, những hiện tượng không giống nhau, trái
ngược nhau, mâu thuẫn với nhau mà David Dapice và các cộng sự đem so
sánh giữa Đông Á và Đông nam Á, chưa chắc đã phải là đặc trưng cho Đông Á
và Đông nam Á, càng chưa chắc đã phải là đặc trưng cho 2 loại mô hình
phát triển được gọi là Đông Á và Đông nam Á. Cái mà Đông Á khác với Đông
nam Á chắc gì đã là đặc trưng, nếu có là đặc trưng cũng đã chắc gì là
đặc trưng của mô hình phát triển đại diện cho cả khu vực.
Tuy
nhiên, thực ra mối bận tâm của các tác giả không nằm ở mô hình phát
triển với lý thuyết về cấu trúc và logic phức tạp của nó. Các tác giả
chú ý đến thực tế phát triển và kinh nghiệm phát triển của Đông Á mà
Việt Nam và các nước đi sau có thể tham khảo. Trong chừng mực làm bài
học kinh nghiệm cho các nước đi sau, những khác biệt mà David Dapice và
các cộng sự đã kết luận trong Báo cáo, theo chúng tôi, là những nội dung
có ý nghĩa. Xin được nhắc lại những nội dung đó theo yêu cầu của một
bàn luận về mô hình phát triển.
ĐẶC TRƯNG CỦA MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN ĐÔNG Á
Theo David Dapice và các chuyên gia Harvard
1. Đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục ở tất cả các cấp, có tầm nhìn chiến lược toàn diện cho sự phát triển nguồn lực con người.
2. Xây
dựng những thành phố năng động về mặt văn hóa, trật tự về mặt xã hội,
và an toàn về mặt vệ sinh, môi trường, làm động lực cho tăng trưởng và
đổi mới kinh tế
3. Thực hiện chính sách kiên trì trong việc theo đuổi kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến để giúp các doanh nghiệp của mình.
4. Hệ
thống tài chính đầu tư một cách hiệu quả; nhà nước đóng vai trò then
chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính
hệ thống.
5. Nhà nước có năng lực trong việc áp đặt kỷ cương đối với các nhóm lợi ích.
6. Tăng trưởng nhanh về kinh tế được kết hợp với sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều.
7. Có thể tạo ra những quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thay đổi khi cần thiết.
|
IV. Gợi ý cho Việt Nam: Trách nhiệm của Nhà nước và vấn đề sử dụng sức mạnh của văn hóa và con người
1. Thời
gian gần đây, những vấn đề về phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á
được đề cập khá nhiều, nhất là từ phương diện kinh tế học. Các chuyên
gia ở các nước phát triển và đang phát triển, các tổ chức quốc tế thuộc
các chính phủ và phi chính phủ, đặc biệt các tổ chức có trách nhiệm toàn
cầu về phát triển như UNDP, WB, IMF… đã công bố nhiều công trình nghiên
cứu về tăng trưởng và phát triển, về công nghiệp hóa và bảo vệ môi
trường, về giải quyết nghèo đói và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ,
về quản lý vĩ mô và xử lý các biến động văn hoá - xã hội khác... nhằm
cung cấp những bài học kinh nghiệm hoặc cảnh báo, khuyến cáo, tư vấn...
giúp các chính phủ và các nước đi sau chọn lựa được một quyết sách sáng
suốt. Trong bối cảnh đó, phần đông các chính khách và các nhà hoạt động
xã hội, đặc biệt, những chiến lược gia về phát triển, gần như ai cũng nghĩ rằng, kinh nghiệm thành công ngoạn mục của Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và Singapore, là cần phải học và có thể học được.
Tiếc rằng, Hongkong và Singapore lại là các trường hợp quá đặc biệt. Đây chỉ là hai đảo quốc bé nhỏ với dân số ít, rất giống những siêu đô thị của những vùng kinh tế - xã hội rộng lớn hơn; nghĩa là, chúng quá độc đáo để có thể áp dụng kinh nghiệm. Nhưng Hàn Quốc và Đài Loan thì đích thực là những điển hình của sự bứt phá, thu hút sự phân tích, rút kinh nghiệm và học hỏi. Về
mặt lý thuyết, khi thế giới đã bước vào thời đại toàn cầu hóa, các quốc
gia đi sau không thể viện bất cứ lý do gì để cho phép mình mất hàng
trăm năm trong khi mấy nền kinh tế này chỉ cần vài chục năm để trở thành
các thực thể công nghiệp mới (NICs/NIEs). Sự thực thì hơn hai chục năm
nay, tất cả các nước đang phát triển đều đã từng nghiên cứu kinh nghiệm
và đều muốn theo gương Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Singapore để trở thành
rồng.
2. Riêng
với Việt Nam, tham vọng “hóa rồng” dường như còn thôi thúc hơn. Bởi lẽ,
Hàn Quốc và Đài Loan, xưa nay, không phải là những xã hội quá xa lạ,
hoặc quá khác biệt. Về nguồn lực con người, nguồn lực xã hội và ý chí
chính trị, xét ở tiềm năng, không thể nói Việt Nam có gì thua kém. Về
sức mạnh văn hóa, đặc biệt văn hóa Nho giáo truyền thống, Việt Nam cũng
không thiếu hụt những yếu tố tích cực cần thiết, mà Hàn Quốc và Đài Loan
đã từng sử dụng để phát triển. Trên thực tế, Việt Nam là mảnh đất thấm
đẫm văn hóa Nho giáo (văn hóa Nho giáo chứ không phải Nho giáo); lại là
thứ văn hóa được hình thành từ Tống Nho, không “ngu trung”, không cứng
nhắc, không giáo điều như ở Nho giáo trước đó ở nơi khởi thủy của nó [12].
Do vậy, cùng với sự khích lệ của nhân tố văn hóa, các nhân tố chính trị
- xã hội khác, chẳng hạn, tâm thế của người chiến thắng sau chiến
tranh, sự phấn khích đạt được tăng trưởng cao trong một thời gian dài,
tâm lý tích cực sau hội nhập thành công… đã thêm phần thôi thúc tham
vọng “hóa rồng” ở Việt Nam. Khi đặt mình trong tương quan với Hàn Quốc
và một số nước trong khu vực, nhiều người Việt nam vẫn chưa quên, mới
rất gần đây, so với Seoul, Bangkok hoặc Manila, thì Sài Gòn chẳng những
không nghèo, mà ngược lại, còn là thành phố phồn vinh hơn.
3.
Cần phải nói thêm rằng, mặc dù ít được nhắc tới, nhưng trong khi đánh
giá cao kinh nghiệm tích cực của mấy con rồng Đông Á, các nhà nghiên cứu
thường cũng không quên Hàn Quốc, Đài Loan và cả Singapore trong những
thập niên trước đã từng là những chính thể độc đoán, thiếu dân chủ, vận
hành trong sự thao túng của giới quân sự. Xã hội Đài Loan dưới thời
Tưởng Giới Thạch, xã hội Singapore dưới thời Lý Quang Diệu và xã hội Hàn
Quốc dưới thời Pak Chung Hee, Choe Kyu Ha và Chun Doo Hwan đều
thi hành những chính sách chống Cộng cực đoan, hạn chế đến mức bóp
nghẹt báo chí, chèn ép xã hội dân sự, tận dụng và vắt kiệt sức lực dân
chúng… Các chính thể này hiện vẫn còn bị phê phán từ tất cả các phía, kể
cả phía Mỹ. Người dân ở các nước này đến nay vẫn chưa quên tình trạng
ngột ngạt và lao động như khổ sai hồi thập niên 70 [13]. Tuy thế, điều đáng lưu ý là, ngoài Francis Fukuyama hồ nghi có một mối liên hệ nào đó giữa sự tăng trưởng kinh tế nhanh với chính thể độc đoán, còn lại chẳng
thấy ai thừa nhận hoặc coi liên hệ đó là nhân quả hay là tất yếu. Người
ta vẫn tin rằng các nước đi sau có thể phát triển nhanh như Hàn Quốc và
Đài Loan mà không cần phải hy sinh dân chủ. Thậm
chí có người còn giả thiết rằng, biết đâu các nước này có thể sẽ phát
triển nhanh hơn, nếu không độc đoán và bóp nghẹt tự do [14].
Điều này, trong một chừng mực nhất định, cũng đã làm cho việc học hỏi kinh nghiệm của mấy con rồng trở nên có sức thu hút hơn và có vẻ khả dĩ hơn.
4. Tuy nhiên, học được kinh nghiệm của người đi trước là không dễ dàng. Hơn thế nữa, các bài học kinh nghiệm được đúc kết và phổ
biến, qua lăng kính chủ quan của các tác giả của nó, chưa chắc đã là
cái có thể học được và áp dụng được trong những điều kiện và hoàn cảnh
khác. William Easterly, một học giả Mỹ đã cảnh tỉnh các nước chậm phát
triển về điều này khi ông phê phán kịch liệt nhiều chính sách phát triển
của các tổ chức quốc tế. William Easterly cho rằng, các quan niệm của
WB, IMF, và UN... với lịch sử hơn nửa thế kỷ qua đã vô tình tạo ra một
thứ “hệ tư tưởng về phát triển”
(Ideology of Development). Theo ông, kinh nghiệm thành công của các
nước phát triển không thể máy móc trở thành chính sách để áp dụng cho
những nước đi sau. Những quốc gia thành công nhất trong phát triển 40
năm qua, trên thực tế, “đã thường xuyên vi phạm một cách rõ ràng bất cứ
cái gì mà các chuyên gia về phát triển đã nói. Ví dụ, vào những năm 1960
những con hổ Đông Á đã
tự lựa chọn định hướng ra bên ngoài trong khi nếu theo kinh nghiệm khôn
ngoan của các chuyên gia lại phải là công nghiệp hoá đối với thị trường
trong nước” [15].
Những trường hợp thành công như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ hay Việt Nam đều
không phải là những nước biết nghe lời các thể chế quốc tế. Còn Mehico,
Venezuela, Nga… lại là những ví dụ về sự thất bại khi đi theo lời khuyên của các chuyên gia phát triển.
Ý kiến William Easterly có vẻ hơi cực đoan, nhưng cũng là một lời khuyên cần phải tham khảo.
5. Việt
Nam đi sau cả Đông Á lẫn Đông nam Á (tại thời điểm hiện nay và nếu hiểu
Đông Á và Đông nam Á gồm những nước như đã nói ở các phần trên). Tuy sự
phát triển của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã được cộng đồng thế
giới đánh giá rất cao, thậm chí những thuật ngữ con rồng, con hổ
cũng đã được sử dụng để nói về tương lai của Việt Nam, nhưng sau khi đối
mặt với các vấn đề xuất hiện năm 2008, đây đó trong nền kinh tế - xã
hội cũng đã lộ ra những dấu hiệu bất ổn, cần thiết phải được tính toán
thấu đáo về phương diện mô hình phát triển. Có tác giả cho rằng, Việt
Nam “đang đứng trước nguy cơ rơi vào vào cạm bẫy của mức phát triển trung bình: không
còn quá nghèo để phải bức xúc cải cách và vượt lên; trong khi đó, các
yếu tố nền tảng cho một nền kinh tế tăng trưởng cao trong giai đoạn
trưởng thành lại quá yếu. Các mâu thuẫn trong phát triển trở nên gay
gắt: giữa tính phức tạp của điều hành vĩ mô và năng lực và phẩm chất của
bộ máy quản lý; giữa yêu cầu cao về nguồn nhân lực có trình độ và chất
lượng hệ thống giáo dục; giữa nhu cầu nâng cao sức cạnh tranh toàn cầu
về môi trường sống - kinh doanh và điều kiện giao thông, môi trường, ăn
ở” [16].
Vấn
đề đúng như David Dapice và các chuyên gia Harvard đã chỉ ra, rồi đây,
Việt Nam sẽ thuộc về mô hình nào trong số hai mô hình phát triển Đông Á
và Đông nam Á. Dĩ nhiên, cho tới giờ này, chưa có một tài liệu chính
thống nào nói về chủ trương của Việt Nam đối với hai mô hình này. Song
điều đó không có nghĩa là Việt Nam nằm ngoài khả năng dẫm phải những dấu
chân khiếm khuyết, sai lầm hay thất bại của các nước được coi là thuộc
mô hình Đông nam Á. Xin lưu ý, David Dapice và các cộng sự cảnh báo
không hề quanh co: “Mục tiêu phát triển của Việt Nam đầy tham vọng: trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, và một cách
khái quát hơn, xây dựng một quốc gia “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Thế nhưng, nếu những xu thế hiện nay vẫn được
tiếp tục thì có lẽ Việt Nam sẽ không thể đạt được những mục tiêu này, ít
nhất là trong một khoảng thời gian khả dĩ chấp nhận được về mặt chính
trị… Trong số các quốc gia đã thoát nghèo và có mức thu nhập trung bình -
vốn là mục tiêu Việt Nam đang hướng tới - chỉ có một vài nước tiếp tục
vươn lên thành những quốc gia giàu có, hiện đại và có thế lực. Nói một
cách khác, xu hướng phát triển phổ biến không đứng về phía Việt Nam. Mặc
dù vậy, xu hướng này không phải là định mệnh… Bằng những lựa chọn (hay
không lựa chọn) của mình, nhà nước Việt Nam sẽ quyết định tốc độ và
triển vọng phát triển kinh tế của đất nước. Nói một cách khác, đối với
Việt Nam, thành công là một sự lựa chọn trong tầm tay” [17].
Một
mặt lên tiếng cảnh báo, một mặt tư vấn cho sự lựa chọn - ý kiến của
David Dapice và các chuyên gia Harvard rõ ràng là tiếng nói cần phải
được suy ngẫm thật sâu sắc.
6. Bằng
sự lựa chọn hay không lựa chọn của mình, Nhà nước Việt Nam sẽ quyết
định sự thành công hay thất bại trong việc đưa đất nước cất cánh và hóa
rồng. Khẳng định của David Dapice và các cộng sự, thông qua phân tích hai mô hình phát triển Đông Á và Đông nam Á là
khá rõ. Ở đây, trách nhiệm của Nhà nước, hay nói rộng hơn, trách nhiệm
của các chiến lược và kế sách điều hành vĩ mô chính là nhân tố quyết
định.
Nói như thế, dĩ nhiên là đúng. Nhưng theo chúng tôi, cũng vẫn chưa đủ để diễn đạt tầm vóc và ý nghĩa của trách nhiệm Nhà nước.
Bởi
lẽ, phần lớn những bài học kinh nghiệm được nêu ra từ sự phát triển của
các nước Đông Á và các nước phát triển khác đều không phải là mới đối
với Việt Nam cũng như đối với các quốc gia đi sau khác. Nghĩa là, cái
được coi là bài học, thì Việt nam cũng như tất cả các nước đang phát
triển khác đều đã từng nghiên cứu và đều muốn ứng dụng để trong một thời
gian nào đấy có thể trở nên thịnh vượng. Ở Đông nam Á, vào những năm 80, Indonesia đã từng được hy vọng là một quốc gia sớm cất cánh để trở thành con rồng
châu Á mới. Cũng như vậy, ở Mỹ Latinh, Peru cũng là nước được kỳ vọng
trong những năm 70. Nhưng đến nay, ở các nước này điều kỳ diệu vẫn chưa
xảy ra. Trong thực tế phát triển nửa thế kỷ qua, trừ Ireland, Singapore và Hongkong, không có nước nào đạt tới thành công như Hàn quốc và Đài Loan.
Rõ
ràng, không phải các nước đi sau không biết đến hay không chịu học hỏi
kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa thế hệ thứ nhất. Như đã nói ở
trên, học được kinh
nghiệm của người đi trước không phải là việc dễ. Kinh nghiệm xã hội rất
hiếm khi giống như một thứ bí quyết cứ lắp vào là cỗ máy hoạt động. Có
trong tay đầy đủ các bài học kinh nghiệm, cũng mới chỉ là thỏa mãn điều kiện cần chứ chưa phải là thoả mãn điều kiện đủ để cho phép một quốc gia nào đó đi tới thành công. Vấn
đề không đơn giản chỉ là vận dụng một mô hình lý thuyết, cho dù đó là
mô hình lý thuyết tối ưu, cộng với một “quyết tâm chính trị” nào đó. Hơn
thế nữa, nếu đúng là “40 năm qua, các nước thành công đều là những nước
thường xuyên vi phạm bất cứ kinh nghiệm gì mà các chuyên gia về phát
triển đã tư vấn”, như khẳng định của William Easterly, thì vấn đề còn là cần phải biết “vi phạm” những bài học kinh nghiệm nào đó khi cần thiết.
Không
biết sử dụng kinh nghiệm của người đi trước, dĩ nhiên là thất bại. Sử
dụng kinh nghiệm của người đi trước một sách nguyên si, giáo điều cũng
sẽ thất bại. Vấn đề là phải sử dụng kinh nghiệm của người đi trước một
cách khôn ngoan. Nghĩa là trách nhiệm của nhà nước còn nặng nề hơn rất
nhiều so với tất cả những gì mà các nhà khoa học đã chỉ ra một cách xác
đáng.
7. Sự thực thì công cuộc Đổi mới đã tạo nên sự phát triển rất quan trọng ở Việt Nam trong hơn
hai thập kỷ qua, và điều đó đã tạo ra những bước xuất phát tạo đà,
những điều kiện thuận lợi, và cả những kinh nghiệm có ý nghĩa để đất
nước tiếp tục phát triển. Mặc dù nhiều lĩnh vực vẫn chưa có tiến bộ hoặc
còn bị coi là thất bại, nhưng xoá đói giảm nghèo và giải quyết vấn đề
đói nghèo ở Việt Nam thì rõ ràng là một thành công. Kinh nghiệm về tăng
trưởng kinh tế ngay từ đầu phải gắn với công bằng xã hội cũng là một
kinh nghiệm đắt giá phải trả bằng rất nhiều nỗ lực. Phát triển con người
thể hiện qua chỉ số HDI và phát triển xã hội thể hiện qua ổn định và
đồng thuận xã hội ở Việt Nam cũng có những điểm sáng, có những biểu hiện
tích cực không thua kém gì các quốc gia giải quyết tốt những vấn đề
này. Phát triển kinh tế và cải thiện đời sống đại đa số cư dân thì không
thể nói là thất bại, mặc dù bức tranh kinh tế từ năm 2008 đến nay có
những chỗ khá ảm đạm so với trước đó.
Cần
thiết phải nói như thế để thấy tính không đơn giản của vấn đề. Những gì
được coi là thành công của Việt Nam thời gian qua đều ít nhiều mang
trong nó một phần khôn ngoan trong việc vận dụng kinh nghiệm bên ngoài,
một phần sáng tạo trong việc xử lý tình huống đặc thù Việt Nam và một
phần quyết đoán trong việc bảo vệ những lợi ích được coi là cơ bản hoặc
sống còn.
8. Dĩ nhiên là chưa mấy ai thỏa mãn với những gì mà Việt Nam đã làm được. Ngược lại, khác với tâm thế phát triển (Psychosphere for Development) đầy tích cực và sôi động của những năm trước 2007, hiện nay, tâm trạng băn
khoăn, lo lắng, bức xúc… lại là tâm trạng phổ biến trong nhiều lĩnh vực
hoạt động. Trên bình diện văn hóa và con người, ở đây, chúng tôi thấy
cần thiết phải đặt vấn đề: Nếu như về mặt tiềm năng, ở Việt Nam, nhân tố
văn hóa và nhân tố con người không đến nỗi thua kém Hàn Quốc và Đài
Loan, thì tại sao những tiềm năng ấy, đến nay, tự nó, chưa bộc lộ được
những phẩm chất tích cực trong phát triển?
Văn
hóa có những lối đi đặc thù của nó để thâm nhập và tác động vào đời
sống xã hội. Nhưng đặc thù đến mấy thì vẫn phải thông qua chủ thể của nó
là con người, nhất là những con người có trọng trách điều tiết vĩ mô.
Trong phát triển, cách thức sử dụng nhân tố văn hóa và nhân tố con người
là cơ chế để văn hóa của một dân tộc lộ ra những giá trị ưu trội của
nó, để con người của một cộng đồng phát huy được những phẩm chất tích
cực của nó. Điều này giải thích tại sao đều là văn hóa Nho giáo, đều là
con người Trung Hoa, nhưng nửa thế kỷ nay Đài Loan và Hongkong lại hoàn
toàn khác với Đại lục. Văn hóa Nho giáo, tự nó, không đẩy xã hội đến một
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Con người với các phẩm chất tích cực
của truyền thống - cần cù, hiếu học, trách nhiệm, cộng đồng…- tự nó,
cũng không đương nhiên biến xã hội thành xã hội công nghiệp hóa. Vấn đề
là ở chỗ biết sử dụng, có phương thức sử dụng, biết kích thích các giá trị tích cực, ưu trội của con người và của văn hóa.
9.
Đối chiếu sự phát triển của Việt Nam hiện nay với hai mô hình phát
triển Đông Á và Đông nam Á, chúng tôi thấy có thể nói về một vài hạn chế
trong việc sử dụng nhân tố con người và văn hóa như sau:
Nếu ở mô hình phát triển Đông Á, chính phủ có
khả năng tạo ra những quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thúc đẩy xã hội
thay đổi khi cần thiết, như David Dapice đã nhận xét, thì ở Đông nam Á,
đến nay, hầu hết các quốc gia đều chưa làm được như vậy. Ở Indonesia,
Philipines và Thailand trong nhiều tình huống cần vận động sức mạnh đồng
thuận của toàn quốc gia, chính phủ ít khi thành công; thậm chí có lúc
còn gây chia rẽ, làm hỗn loạn xã hội. Ở Malaysia dưới thời Mahathir
Mohamad, việc động viên ý chí của toàn xã hội được đánh giá là tốt hơn,
nhưng gần đây lại bắt đầu có vấn đề. Trong khi đó, ý chí vươn tới hưng thịnh ở người Nhật kể từ thời Minh Trị thiên hoàng là
rất đáng kể. Tinh thần cuồng nhiệt và nghiêm túc ở tầng lớp võ sĩ
thượng lưu học hỏi văn minh kỹ nghệ của châu Âu để xây dựng Nhật Bản
thành một quốc gia mạnh về quân sự, giàu về kinh tế, hiện đại về kỹ
thuật… là một thứ tinh thần lâu nay ít ai phủ nhận được. Người Nhật
không ngại nhìn nhận nghiệt ngã về những yếu kém của mình để kích động
lòng tự tôn dân tộc. Tham vọng biến Nhật Bản thành châu Âu ở phương
Đông, trên thực tế, đã cực đoan đến mức làm nảy sinh tư tưởng “Sovanh
Đại Đông Á” cùng với một chính thể Phát xít phương Đông trong Thế chiến
thứ II. Tuy nhiên, nếu không tính đến mặt trái của những điều vừa nói,
thì ở người Nhật có hai phẩm chất rất đáng học tập: Ý chí cháy bỏng vươn tới hưng thịnh và Tinh thần sẵn sàng học hỏi.
Hàn
Quốc cũng là một xã hội tương tự. Tham vọng vươn lên của người Hàn Quốc
đã được một số tài liệu mô tả là không kém cuồng nhiệt ngay từ thời Pak
Chung Hee. Khi nền kinh tế đạt mức 1.000 USD đầu người năm, người Hàn
chẳng những không có tâm lý thỏa mãn, mà ngược lại còn sôi sục đặt ra
các mục tiêu 10.000 USD rồi gần đây là 15.000 USD đầu người năm. Không
chỉ trong kinh tế, trong khoa học, giáo dục người Hàn cũng quyết liệt
đặt ra các mục tiêu để cạnh tranh với thế giới. Khi bất mãn với với các
chế độ độc tài vào những năm 60-70, khi phát hiện ra những yếu kém trong
cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng tài chính năm 1997, cũng như khi
đối mặt với những quyết định không hợp lòng dân hồi tháng 6/2008… người
Hàn đều phản ứng rất mạnh mẽ, đòi chính phủ phải tỏ rõ trách nhiệm với sự phát triển đất nước.
Tâm thế phát triển
của một dân tộc hay một quốc gia xưa nay chưa bao giờ là cái kém quan
trọng. Trong xã hội hiện đại, đôi khi người ta tưởng các quy luật thép
của đời sống có thể làm cho ý chí hay nhiệt huyết của cá nhân hay của
cộng đồng trở nên ít giá trị hơn. Nhưng thực tế chứng minh điều ngược
lại.
Còn
ở Việt Nam, tâm thế phát triển trong những năm gần đây không thể nói là
kém. Ngược lại mới đúng, rất sôi động, rất tích cực. Tuy nhiên, sự yếu
kém trong cơ chế vận hành đời sống xã hội, những bất cập, khuyết tật
trong các chính sách kinh tế - văn hóa - giáo dục… đã vô tình định hướng
tâm lý hoạt động của không ít cá nhân. Tưởng rằng, với tốc độ tăng
trưởng 8-9% năm, chẳng mấy chốc Việt Nam sẽ hóa rồng, tưởng rằng với nền
kinh tế chuyển đổi năng động, chẳng mấy chốc một bộ phận cư dân sẽ giàu
có, “thay vì khích lệ người dân cần kiệm đầu tư với tầm nhìn dài hạn và
trách nhiệm với tương lai, chúng ta lại tạo nên cơ chế để mọi người ảo
tưởng với những cơ hội chụp giật ngắn hạn, hoang phí trong tiêu dùng,
phô trương trong hình thức…” [18].
Xu
hướng tâm lý này trên thực tế đã che khuất tầm nhìn dài hạn, làm xói
mòn trách nhiệm với tương lai - cái là xương sống của nền giáo dục và
khoa học.
10. Theo báo cáo của David Dapice và các chuyên gia Harvard, “hệ
thống giáo dục của Việt Nam hiện đang khủng hoảng”, còn “nền khoa học
và công nghệ của Việt Nam, nếu sử dụng mọi thước đo khách quan, thì
dường như là một thất bại” [19].
Đây là một nhận định đặc biệt mạnh mẽ về sự xuống cấp của hai lĩnh vực
liên quan mật thiết đến văn hóa và con người mà cách đây chưa lâu Việt
Nam vẫn thường tự hào. Cụ thể hơn, báo cáo này mô tả: “Mặc dù tỷ lệ đi
học ở các cấp phổ thông tương đối cao, nhưng chất lượng của các bậc học
này rất đáng lo ngại… Chất lượng đào tạo ở các trường đại học của Việt
Nam chưa đạt chuẩn. Trên thực tế, trường đại học của Việt Nam thua xa
khi so với ngay cả trường của các nước Đông nam Á – vốn chưa phải là
những trường đẳng cấp quốc tế. Trong khí đó, tỉ lệ ngân sách dành cho
giáo dục trong GDP của Việt Nam cao hơn hầu hết các nước trong khu vực.
Hiện nay, các trường đại học của Việt Nam có thể bị xem như là kém nhất
so với hầu hết các nước đang phát triển ở khu vực Đông nam Á, chứ chưa
cần so với Đông Á” [20].
Nếu nhận định này không sai hoặc cơ bản là không sai, thì rõ ràng,
những nhân tố tích cực về phương diện văn hóa và con người, cái làm nên
những thành tựu nhất định cho giáo dục và khoa học những năm trước đây,
đã bị quên lãng hoặc chưa được sử dụng một cách hợp lý cho phù hợp với
hoàn cảnh hiện tại.
Tại
sao một dân tộc có tiếng là hiếu học, với những thành tựu về y tế và
giáo dục đã từng làm thay đổi cách nhìn nhận của cộng đồng thế giới qua
chỉ số phát triển con người, với các nhà khoa học, nhà văn hóa mà ở thế
hệ nào cũng có những người được đánh giá cao, nay lại rơi vào tình cảnh
đáng ngại đến vậy. Đúng như nhiều người đã lên tiếng trên các diễn đàn
giáo dục và khoa học thời gian gần đây, hiếu học đến nay vẫn là một giá
trị, nhưng tiếc rằng giá trị này lại đang bị khai thác để phục vụ những
mục đích vụ lợi và thị trường, lệch lạc và thiển cận… hơn là khai thác
để thỏa mãn những mục đích giáo dục chân chính. Cung cách quản lý giáo
dục và khoa học bất cập, có vấn đề, làm cho khoa học và giáo dục ở Việt
Nam “không giống ai”. Nhà nước chưa có những chính sách tạo điều kiện cho nhà khoa học theo đuổi những kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến. Bảng giá trị định hướng hoạt động khoa học, giáo dục lệch lạc.
Chúng tôi cho rằng, vấn đề của những vấn đề là ở chỗ, bảng giá trị định hướng hoạt động khoa học, giáo dục hiện đang lệch lạc.
V. Kết luận
1. Việt Nam đang cất cánh và vẫn chưa mất cơ hội để hóa rồng. Việc lựa chọn những quyết sách, phương thức và bước đi trong phát triển
trên cơ sở học tập kinh nghiệm thành công của mô hình Đông Á, như lời
tư vấn nhiệt thành của các chuyên gia Harvard, rõ ràng là có ý nghĩa
quyết định. Tuy nhiên, kinh nghiệm dù hay đến mấy cũng mới chỉ là hành
trang để phát triển. Chỉ riêng hành trang chưa đủ giúp người tìm đường
tới được cái đích mà anh ta cần đến. Muốn tránh được vết chân khiếm
khuyết của mô hình Đông nam Á thì sự lựa chọn cần phải đạt đến trình độ khôn ngoan và
cần phải được thực hiện trong thực tiễn bằng những cách thức thông minh
- Không phải khi nào bài học kinh nghiệm của các nước phát triển cũng
cần áp dụng một cách trung thành, có những trường hợp cần áp dụng trong
sự thay đổi, nghĩa là áp dụng một cách sáng tạo và cũng có những trường
hợp cần phải biết vi phạm kinh nghiệm tốt của người đi trước.
2. Dĩ nhiên là kinh nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan trong quá trình đi tới một xã hội công nghiệp chắc chắn vẫn là những bài học có giá trị
về nhiều phương diện. Nhưng kinh nghiệm về các vấn đề xã hội và chính
trị phức tạp ở Đông Á cùng với những kinh nghiệm thất bại của các nước
Đông nam Á, theo chúng tôi, đắt giá hơn và có tác dụng cảnh tỉnh hơn đối
với Việt nam. Cần phải tìm hiểu xem tại sao các nước Đông nam Á đến nay vẫn chưa (hoặc không) vượt qua cái bẫy của sự phát triển. Về điều này, báo cáo của David Dapice và các chuyên gia Harvard là một khuyến cáo đắt giá dành cho Việt Nam.
3. Dù gợi nên nhiều suy ngẫm có giá trị, song Mô hình phát triển Đông Á và Mô hình phát triển Đông nam Á dẫu
sao cũng mới chỉ là cách gọi tương đối. Cách gọi này chưa đủ chặt chẽ
để diễn đạt nội hàm của hai mô hình phát triển cụ thể với các thành tố,
cấu trúc và logic vận hành khách quan của chúng. Cần phải tiếp tục
nghiên cứu để xác định thực chất và nội hàm của hai khái niệm này.
Tài liệu
1. Bản sắc Đài Loan. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/1053_vietaiwanpage/
2. Bush chứng kiến sự “phấn khởi ở Việt Nam”. BBC Vietnamese.com 17/11/2006. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/11/061117_bushvisitsvietnam.shtml
3. Choe, Hyondok. Civil Society and Market Economy in Korea. The princple of “Publicity” in the context of Neo-liberalism. International Conference “Social Responsiplity in the context of Market Economy”. Haiphong, Feb., 12-15th, 2009.
4. Lý Quang Diệu. Cuộc chiến Việt Nam có lợi cho châu Á. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/10/061013_lee_warcomment.shtml.
5. Trần Hữu Dũng. Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ. T/c “Thời đại mới”. Số 10. 3/2007. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai10/200710_THDung.htm#_ftn5
6. Easterly, William (2007). The Ideology of Development,Foreign Policy, July/August.
7. EIU (Economist Intelligence Unit). Foresight 2020: Economic, industry and corporate trends. http://www.eiu.com/site_info.asp?info_name=eiu_Cisco_Foresight_2020&;rf=0
8. Fukuyama, Francis . Asian Value and the Asian Crisis “Commentary” Feb., 1998.
9. Fukuyama, Francis . Samuel Huntington, 1927-2008. The American Interest Online. Dec., 29th, 2008. http://the-american-interest.com/contd/?p=688.
10. Harvard University. John F. Kennedy School of Gorvernment. Chương trình châu Á (2008). Lựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam. http://www.undp.org.vn/undpLive/System/Publications/Publication-Details?contentId=2648&;languageId=4
11. Phạm Duy Hiển. Khoa học và đại học Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây. http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&;CategoryID=3&News=2518
07:54-10/11/2008
07:54-10/11/2008
12. Hong Kong (China SAR). http://islands.unep.ch/CGF.htm
13. Hồ Thiệu Hùng. Bài học hoá rồng của Ireland. http://lamhong.sky.vn/archives/408. 10/03/2008
14. Vũ Minh Khương. Đẳng cấp phát triển: VN chọn Đông Á hay Đông Nam Á? http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/0
15. Lee, Il Houng. Việt Nam đuổi kịp Singapore: cần 197 năm. www2.dantri.com.vn 16/3/2006.
16. Li. C (1997). Confucian value and democratic value. The Journal of Value Inquiry. Vol. 31, № 2, June 1997, pp. 183-193 (11).
17. Liên hợp quốc tại Việt Nam (2003), Các mục tiêu thiên niên kỷ. Xoá bỏ khoảng cách thiên niên kỷ. Báo cáo tiến độ thực hiện các MDG. Hà Nội.
18. Litan (2008). Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp. Tư duy lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước. Nxb. Trẻ. tp Hồ Chí Minh.
19. Mavin, Duncan. Vietnam: what happened to the next Asian Tiger? Financial Post. December 05, 2008. http://www.financialpost.com/news/story.html?id=1038325
20. Phan Ngọc. Văn hóa Việt Nam thiết tha với cuộc sống con người. Văn nghệ Trẻ, số 4, ngày 23.01.2005
21. North, Douglas (1990), Institutions, Institutional Change, and Eeconomic Performance, New York: Cambridge University Press.
22. “¤ng WTO” xem lại tư duy kinh tế và mô hình phát triển. Tuần ViệtNam 2/2/2009. http://www.tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/5738/index.aspx
23. Perkins, Dwight H. David Dapice, Jonathan H. Haughton (1994). Việt Nam cải cách theo hướng rồng bay. Nxb. CTQG. Hà Nội.
24. Preston, Peter (1996), Development Theory: An Introduction to the Analysis of Complex Change, Wiley-Blackwell.
25. Preston, Peter (1988), Rethinking Development, Routledge & Kegan Paul Books Ltd.
26. Rama, Martin. Những quyết sách khó khăn: Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi. (Commission on Growht and Development. Working paper No 40). http://www.ebook.edu.vn/?page=1.1&;view=8154
27. Ratliff, William . Vietnam's War With Progress. The Economics. November 11, 2008 http://www.feer.com/economics/2008/november/Vietnams-War-with-Progress.
28. Rodrik, Dani. East Asian Mysteries: Past and Present. http://www.nber.org/reporter/spring99/rodrik.html
29. Singapore GDP-per capita. http://indexmundi.com/singapore/gdp_per_capita_(ppp).html
30. Stiglitz, Joseph (2001). Industrial and Financial Policy in China and Vietnam: a New Model or a Relay of the east asian experience. Dwight Perkins (Chapter 6 in Rethinking the east asia Miracle, edited by Joseph Stiglitz and Shahid yusuf, World Bank, 2001).
31. Thayer, Carl. Việt Nam trong quan hệ với ASEAN và Trung Quốc. http://www.sgtt.com.vn/Detail23.aspx?Columnid=23&;newsid=46096&fld=HTMG/2009/0113/46096
32. Trần Văn Thọ (2008). Phát triển - Kinh nghiệm một số nước Á châu. http://www.tuanvietnam.net/news/InTin.aspx?alias=nghexemdoc&;msgid=4565. 20/8/2008.
33. Todaro, Michael P (1998). Kinh tế học cho thế giới thứ ba. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
34. UNDP, Human Development Report (2007/2008).
35. Victor, David G. (2006). Recovering Substainable Development. Foreign Affairs, Jan/Feb 2006, Vol. 85, No. 1, p. 91-103.
36. Wong, Y.C. Richard (1995). Understanding Rapid Economic Growth: A New Tale of the Four Asian Dragons. (HKCER Letters, Vol. 30, January). http://www.hku.hk/hkcer/articles/v30/alwyn.htm
37. Wescott, Robert F. (2007). Global Economic Growth Prospects: 2007 and Beyond. www.sace.it/GruppoSACE/export/sites/default/download/Wescott2.ppt
Nguồn: tác giả
[1] Xem: EIU (Economist Intelligence Unit). Foresight 2020: Economic, industry and corporate trends. http://www.eiu.com/site_info.asp?info_name=eiu_Cisco_Foresight_2020&;rf=0
- Vào
3/2006, theo tính toán của Il Houng Lee và một số chuyên gia IMF, nếu
các nước ASEAN và Việt Nam vẫn cứ tăng trưởng như 10 năm trước đó, Việt
Nam sẽ mất 18 năm để đuổi kịp Indonesia, 34 năm để đuổi kịp Thailand và
197 năm để đuổi kịp Singapore (Il Houng Lee. Việt Nam đuổi kịp Singapore: cần 197 năm. www2.dantri.com.vn 16/3/2006).
[3] David Dapice và các chuyên gia Harvard đã sử dụng Đông Á và Đông nam Á như những khái niệm làm việc. Đông Á được coi là bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong và Singapore và Đông nam Á
bao gồm Indonesia, Malaysia, Philipines và Thailand. Singapore nằm ở
Đông nam Á nhưng được coi là thuộc về Đông Á vì quốc gia này đi theo mô
hình tăng trưởng Đông Á. Trung Quốc là trường hợp đặc biệt vì sự phát
triển ở đây có nhiều điểm khác với các nước Đông Á khác. Các tác giả không coi Lào, Mianma, Campuchia, Brunei, Đông Timor là đối tượng trong mô hình Đông nam Á.
[5] Xem: Bush chứng kiến sự “phấn khởi ở Việt Nam”. BBC Vietnamese.com 17/11/2006. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/11/061117_bushvisitsvietnam.shtml
[6] Các số liệu này soạn và dẫn theo: UNDP. Human Development Report 2007/2008. // Robert F. Wescott, Ph.D. Global Economic Growth Prospects: 2007 and Beyond. www.sace.it/GruppoSACE/export/sites/default/download/Wescott2.ppt - // Hong Kong (China S.A.R). http://islands.unep.ch/CGF.htm // Singapore GDP - per capita. http://indexmundi.com/singapore/gdp_per_capita_(ppp).html.
[8] Xem: Francis Fukuyama. Asian Value and the Asian Crisis “Commentary” Feb., 1998. // Francis Fukuyama. Samuel Huntington, 1927-2008. The American Interest Online. Dec., 29th, 2008. http://the-american-interest.com/contd/?p=688.
[10] Xem: Lý Quang Diệu. Cuộc chiến Việt Nam có lợi cho châu Á. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/10/061013_lee_warcomment.shtml.
[11] Harvard University. John F. Kennedy School of Gorvernment. Chương trình châu Á (2008). Lựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam. http://www.undp.org.vn/undpLive/System/Publications/Publication-Details?contentId=2648&;languageId=4 (Toàn
bộ quan điểm của David Dapice và các chuyên gia Harvard trong bài được
dẫn theo tài liệu này. Những chỗ in nghiêng là nhấn mạnh của chúng tôi).
[12] Xem: Phan Ngọc. Văn hóa Việt Nam thiết tha với cuộc sống con người. Văn nghệ Trẻ, số 4, ngày 23.01.2005. // Li. C (1997). Confucian value and democratic value. The Journal of Value Inquiry. Vol. 31, № 2, June 1997, pp. 183-193 (11). http://www.ingentaconnect.com/content/klu/inqu/1997/00000031/00000002/00124834
[13] Xem: Choe, Hyondok. Civil Society and Market Economy in Korea. The princple of “Publicity” in the context of Neo-liberalism. International Conference “Social Responsiplity in the context of Market Economy”. Haiphong, Feb., 12-15th, 2009. // Bản sắc Đài Loan. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/1053_vietaiwanpage/
[14] Xem: Francis Fukuyama. Asian Value and the Asian Crisis “Commentary” Feb., 1998. // Trần Hữu Dũng. Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ. T/c “Thời đại mới”. Số 10. 3/2007. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai10/200710_THDung.htm#_ftn5
[16] Xem: Vũ Minh Khương. Đẳng cấp phát triển: VN chọn Đông Á hay Đông Nam Á? http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/03/773925/
[18] TS. Vũ Minh Khương. Nền móng phát triển và mệnh lệnh cải cách. http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/3956/index.aspx. 9/6/2008