Hiệp
định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là công cụ
tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á và trên toàn cầu. Tuy nhiên để đạt
được TPP, Mỹ còn rất nhiều điều phải làm: dập tắt sự phản đối trong
nước, nghi ngại về các quy định quyền sở hữu trí tuệ, minh bạch hơn nữa
trong quá trình đàm phán.
Khi
vòng đàm phán Đôha về thương mại toàn cầu gần đến năm thứ 12 mà chưa có
dấu hiệu kết thúc, các cuộc đàm phán gần như đã thất bại. Thất vọng với
tình trạng bế tắc của vòng đàm phán Đôha và muốn mở rộng thương mại,
bảo vệ các liên minh, Mỹ đã ký kết một loạt các hiệp định thương mại tự
do song phương (FTA), mà kết quả là các hiệp định với Côlômbia, Panama,
Hàn Quốc trong năm 2011. Những thỏa thuận này nói chung là có lợi cho
Mỹ; hiệp định với Hàn Quốc được hy vọng là sẽ làm gia tăng thương mại
giữa hai nước lên tới hàng tỷ USD và tạo ra hàng chục ngàn công ăn việc
làm cho mỗi nước.
Bất
chấp những kết quả này, đường hướng song phương không mang đến nhiều
hứa hẹn. Việc thông qua các hiệp định trong năm vừa qua đã kết thúc sự
đối đầu trong 5 năm, giữa một bên là đa số các Đảng viên Cộng hòa trong
Hạ viện và những thành phần ủng hộ thương mại trong cộng đồng kinh
doanh, bên kia là những người Đảng Dân chủ trong Hạ viện, hầu hết các
công đoàn và các nhà sản xuất xe ô tô của Mỹ, những người đã đấu tranh
đặc biệt gay gắt để phản đối hiệp định thương mại với Hàn Quốc bởi vì
những hạn chế lâu dài chống lại việc mua bán ô tô của Mỹ tại nước này.
Sau một quá trình vận động hành lang, tranh luận và thỏa hiệp khó khăn,
Chính quyền của Tổng thống Obama gần như không còn hào hứng để cố gắng
đạt đến một hiệp định song phương nào khác.
Thay
vào đó, để thúc đẩy chương trình nghị sự thương mại của mình, Nhà Trắng
đã lựa chọn phương thức giao thoa giữa vòng đàm phán Đôha toàn cầu và
các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA): một tiến trình đa
phương mà trọng tâm là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Đang trong quá trình đàm phán bởi Ôxtrâylia, Brunây,
Chilê, Malaixia, Niu Dilân, Pêru, Xinhgapo, Mỹ và Việt Nam, TPP sẽ đại
diện cho một trong những hiệp định thương mại mở rộng nhất thế giới. Và
nếu Canađa, Mêhicô và đặc biệt là Nhật Bản, tất cả những nước đã thể
hiện sự quan tâm đối với việc tham gia các cuộc đàm phán vào tháng 11
năm ngoái, cũng ký kết hiệp định này, thì TPP sẽ làm gia tăng thêm hàng
tỷ USD cho nền kinh tế của Mỹ và tăng cường cam kết về chính trị, tài
chính và quân sự của Oasinhtơn đối với khu vực Thái Bình Dương trong
hàng thập kỷ tới. Do những vận may tiềm tàng như vậy, Chính quyền Obama
tin rằng TPP có cơ hội lớn để có thể vượt qua sự phản đối trong nước hơn
là một hiệp định Đôha hay các thỏa thuận song phương mới có thể làm
được.
Nhưng
TPP đã vấp phải những trở ngại. Những nhà chỉ trích ở một số quốc gia
có liên quan đến các cuộc đàm phán lo ngại rằng để bảo vệ các doanh
nghiệp trong nước và các nhà phát minh của mình, Mỹ đang cố gắng sử dụng
hiệp định này để áp đặt các quy định về bản quyền và bằng sáng chế mở
rộng của mình lên các đối tác thương mại. Sự bí mật tương đối xung quanh
các cuộc hội đàm TPP chỉ đang làm tăng thêm những lo lắng đó. Các nhà
đàm phán đã cho phép các bên liên quan, từ ngành công nghiệp cho tới
công chúng nói chung được phát biểu tại các phiên họp mở của TPP, nhưng
họ lại từ chối đưa ra những văn bản của các cuộc đàm phán. Nếu Chính
quyền Obama không dàn xếp được những nghi ngại về quyền sở hữu trí tuệ
và công khai minh bạch hơn các cuộc đàm phán, thì có khả năng ngày càng
tăng là TPP sẽ sụp đổ. Thất bại do kết quả của điều đó sẽ thể hiện một
thất bại lớn của Chính quyền Obama và hủy hoại mục tiêu đảm bảo sự hiện
diện dài hạn của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hứa hẹn Thái Bình Dương
Như
đã được đề xuất hiện nay, TPP sẽ đi xa hơn các hạng mục thường có trong
các hiệp định thương mại. Đầu tiên, trong thập kỷ tới, sẽ dần xóa bỏ
mọi thuế quan đối với giao dịch thương mại giữa các nước thành viên.
Theo hình mẫu của hiệp định thương mại tự do giữa Mỹ và Hàn quốc, TPP sẽ
tác động đến gần như tất cả các hình thức tương tác kinh tế giữa các
thành viên của mình, bao gồm các chính sách về đầu tư và mua sắm của
chính phủ, các tiêu chuẩn lao động và môi trường, nông nghiệp, sở hữu
trí tuệ và các khu vực mới như các doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các công ty với quy mô từ 50 đến 500 lao động. Mỹ và
các đối tác của mình hi vọng rằng TPP sẽ trở thành yếu tố chủ chốt trong
thương mại tự do tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Nhưng
TPP không thể đạt được khả năng đó nếu không có Nhật Bản. Tổng sản phẩm
quốc nội của nước này cao gấp đôi các nước thành viên khác của TPP cộng
lại, không kể Mỹ. Đưa Nhật Bản vào có nghĩa là hiệp định bao hàm 40%
GDP toàn cầu và làm tăng thêm 60 tỷ USD cho thị trường xuất khẩu của Mỹ.
Đó là lý do tại sao Chính quyền Obama và khu vực xuất khẩu của Mỹ đã
bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với sự tham gia của Nhật Bản vào TPP khi
Tôkyô thể hiện mối quan tâm của mình đối với việc gia nhập hiệp định
này. Vào tháng 12/2011, hơn 60 tổ chức lương thực và nông nghiệp của Mỹ
đã gửi một tuyên bố chung đến cho Ron Kirk, đại diện thương mại của Mỹ
và Tom Vilsack, Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp Mỹ, khuyến khích họ “tạo điều
kiện thuận lợi cho sự tham gia đầy đủ của Nhật Bản vào TPP”. Một tuần
sau đó, Bàn tròn doanh nghiệp, Hội các Giám đốc điều hành, và Liên minh
doanh nghiệp Mỹ vì TPP, một tập hợp các công ty ủng hộ hiệp định thương
mại tự do, đã gửi những bức thư tương tự đến đại diện thương mại Mỹ. Vào
tháng 3, Wendy Cutler, trợ lý Đại diện thương mại Mỹ đã nói với một cử
tọa tại Tôkyô rằng “triển vọng về việc Nhật Bản gia nhập TPP...là quan
trọng; có tính chất lịch sử. Và một cách thẳng thắn thì việc đó vô cùng
thú vị”.
Bị
lôi kéo bởi khả năng đó, Chính quyền Obama đã làm cho TPP trở thành
then chốt trong chính sách thương mại của mình, và họ đang làm tất cả
những gì có thể để định hình hiệp định này theo hướng có lợi cho Mỹ.
Chẳng hạn, Chính quyền Obama đã nhấn mạnh vào việc khuyến khích và bảo
vệ quyền lợi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp này nói
chung có rất ít kinh nghiệm trong việc giao dịch hàng hóa xuất khẩu hay
nhập khẩu nhưng Oasinhtơn hi vọng có thể tăng cường vai trò của những
doanh nghiệp này trong TPP bởi vì họ tạo ra phần lớn việc làm ở Mỹ và vì
thế, bằng việc hỗ trợ họ, Oasinhtơn có thể tạo ra sự ủng hộ trong nước
về thương mại. Những người Mỹ từ rất lâu đã thờ ơ với thương mại, tin
rằng thương mại chủ yếu chỉ có lợi cho nước ngoài, gây tổn thất cho công
ăn việc làm của họ và góp phần vào thâm hụt thương mại của Mỹ, vốn bị
coi là tiêu cực mặc cho thực tế là nó từ lâu đã tương đồng với sức mạnh
chính trị và thương mại của Mỹ.
Những nhầm lẫn về quyền sở hữu
Ngay
cả khi Oasinhtơn hi vọng rằng những nỗ lực của mình nhằm định hình TPP
sẽ xoa dịu những lo lắng của các ngành công nghiệp và công đoàn Mỹ, nó
cũng đã gây nhức nhối cho các nhóm lợi ích và chính phủ của các nước
khác tham gia đàm phán hiệp định – đặc biệt là về lĩnh vực sở hữu trí
tuệ.
Vào
tháng 2 năm 2011, một bản dự thảo về vấn đề sở hữu trí tuệ từ các cuộc
đàm phán TPP đã bị rò rỉ trên Internet. Rất nhiều tổ chức nước ngoài và
Mỹ như Cơ quan theo dõi quyền sở hữu trí tuệ, Tri thức công cộng, Cơ
quan theo dõi TPP và Vô danh (Anonymous) đã chỉ trích rất gay gắt một số
các biện pháp được đề ra trong bản dự thảo đó. Đặc biệt, họ chỉ trích
những đề xuất đối với những hành vi chống vi phạm luật bản quyền tác giả
và sáng chế mà đã đi xa hơn những hiệp ước đang tồn tại giữa các nước
đàm phán khác nhau. Họ cũng quả quyết rằng TPP sẽ yêu cầu những nhà cung
cấp dịch vụ Internet phải nhận diện người sử dụng và rằng nước Mỹ đang
cố gắng một cách vô lý để áp đặt những biện pháp bảo hộ quyền tác giả
rộng rãi của chính mình lên hiệp định. Luật pháp của Mỹ đã quy định rằng
đại đa số quyền tác giả đều kết thúc sau 70 năm nhưng các nhà chỉ trích
lại tuyên bố, một cách không đúng, rằng chính quyền của Tổng thống
Obama đã kêu gọi TPP áp dụng thời hạn sở hữu quyền tác giả tối thiểu là
95 năm đối với một số tác phẩm. Các luật gia Sean Flynn và Jimmy Koo đã
nắm bắt được những lo ngại của các nhà chỉ trích khi vào năm 2011 họ đã
viết rằng TPP sẽ tạo ra “một công cụ quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ
chống lại sự phát triển, chống lại người tiêu dùng cực đoan nhất từ
trước đến nay”.
Chính
quyền Obama đã ủng hộ những đề xuất này không phải để gây tổn hại đến
người tiêu dùng mà để bảo vệ những nhà phát minh Mỹ. Sở hữu trí tuệ đã
là một nguồn giá trị chủ yếu đối với Mỹ; chẳng hạn, vào năm 2010, 40%
các khoản thanh toán trên toàn thế giới được trả cho những chủ sở hữu
trí tuệ - gần 100 tỷ USD - thuộc về người Mỹ. Theo Bộ Thương Mại Mỹ, số
tiền đó tương đương với lợi nhuận kiếm được từ xuất khẩu máy bay, ngũ
cốc và các dịch vụ kinh doanh, 3 lĩnh vực dẫn đầu trong thặng dư thương
mại của Mỹ. Và sở hữu trí tuệ của Mỹ sẽ chỉ trở nên quan trọng hơn trong
những năm tới khi mà một số những sáng kiến cải tiến kỹ thuật có cơ sở ở
Mỹ, như các kỹ thuật sản xuất thế hệ tiếp theo và thông tin liên lạc
không dây tân tiến nhất, thúc đẩy thương mại của nước này. Những người
sáng chế ra những công nghệ này sẽ cần được bảo hộ theo TPP cũng giống
như những người hiện nay đang sở hữu quyền tác giả và bằng sáng chế theo
luật pháp của Mỹ.
Mỹ
gần như không phải là quốc gia duy nhất gia nhập TPP có lợi ích trong
việc bảo hộ quyền tác giả và bằng sáng chế cho người dân nước mình.
Chẳng hạn vào năm 2008, Nhật Bản đứng đầu thế giới về số lượng đơn đăng
ký bằng sáng chế. Và Xinhgapo với các khoản đầu tư hàng tỷ USD vào công
nghệ sinh học, cũng cần phải bảo vệ những thành quả trong nước. Để bảo
vệ đúng đắn quyền sở hữu trí tuệ của các nhà cải cách người Mỹ, Mỹ cũng
đã mở đường cho các quốc gia khác này. Nhưng rõ ràng một vài trong số
các quốc gia này không tin tưởng rằng Mỹ thực sự quan tâm đến lợi ích
lớn nhất của họ.
Các cuộc đàm phán tự do
Bất
chấp mối quan tâm rộng rãi về các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
trong một số nước tham gia đàm phán TPP, một vài quốc gia khác tiếp tục
cáo buộc rằng Mỹ đang đưa ra những đòi hỏi vô lý. Chẳng hạn, tại phiên
họp đàm phán TPP lần thứ 11 tại Ôxtrâylia vào tháng 3 vừa qua, báo chí
Ôxtrâylia đã đưa tin rằng tất cả các thành viên đàm phán TPP đã từ chối
những đề xuất của Mỹ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Và vào giữa
tháng 4, một số những nhà đàm phán từ Chilê đã nghi ngờ tương lai của
hiệp định khi họ đặt ra câu hỏi rằng “liệu việc gia nhập TPP có đáng giá
với những phí tổn hay không nếu nó thêm nhiều đòi hỏi về quyền sở hữu
trí tuệ”.
Trong
khi đó, cũng trong cuộc họp diễn ra tại Ôxtrâylia vào tháng 3, một số
tổ chức đã lên án TPP vì ảnh hưởng tiềm tàng của nó đối với khả năng sẵn
có của các loại thuốc giá rẻ. Chẳng hạn, tổ chức Bác sĩ không biên giới
đã kết tội Chính phủ Mỹ về việc thêm các điều khoản vào TPP mà sẽ cản
trở đến việc cung cấp các loại thuốc trị bệnh sốt rét và HIV/AIDS với
chi phí thấp đến các nước đang phát triển. Trong một vòng đàm phán TPP
trước đó, tổ chức này đã khẳng định rằng hiệp định này sẽ “gia hạn thời
gian bảo hộ độc quyền đối với các loại thuốc cũ chỉ đơn giản bằng những
sửa đổi nhỏ trong các công thức pha chế sẵn có”, vì vậy sẽ ngăn cản sự
ra đời của những loại thuốc cùng loại giá rẻ hơn.
Chính
phủ Mỹ vẫn chưa giải quyết tất cả những lời cáo buộc chống lại mình
trong tiến trình của TPP, nhưng vào cuối tháng 2, Demetrios Marantis,
phó đại diện thương mại Mỹ đã phát biểu rằng văn phòng của ông phản đối
quyết liệt những cáo buộc của tổ chức Bác sĩ không biên giới. Ông chỉ ra
rằng Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ đã mất 6 tháng trước đó để thiết
lập nên Chương trình TPP 9 điểm, “ Mậu dịch tăng cường sự tiếp cận thuốc
men” để đảm bảo, theo lời ông, rằng “Các loại thuốc cùng loại có thể
thâm nhập vào thị trường càng sớm càng tốt”.
Vì
vậy, ít nhất Mỹ đã bắt đầu giải quyết những lo ngại của những người có
thái độ hoài nghi về TPP. Nhưng một vấn đề lớn hơn vẫn còn đó. Trong
thời đại của Internet, những tin đồn xung quanh các điều khoản được quy
định trong hiệp định có thể nhanh chóng làm bùng nổ sự phản đối trên
toàn thế giới. Sự minh bạch hơn và các thông tin đầy đủ hơn về tiến
trình đàm phán hiệp định có thể giúp đối phó với những tin đồn như thế.
Và mặc dù Mỹ và các đối tác của mình muốn tiếp thu ý kiến từ các cá nhân
và nhóm có quan tâm, nhưng họ vẫn chưa công khai hoàn toàn tiến trình
này với công chúng, làm gia tăng thêm những lo ngại chính đáng về sự
định hình cuối cùng của hiệp định. Chẳng hạn, vào tháng 1, Gary Horlick,
một luật sư thương mại lỗi lạc và là cựu quan chức thương mại của Mỹ đã
mô tả tiến trình hình thành TPP là “một cuộc đàm phán thương mại ít
minh bạch nhất mà tôi từng thấy”. Mặc dù Kirk, đại diện thương mại Mỹ đã
gọi các cuộc đàm phán này là “tiến trình mở và minh bạch nhất từ trước
đến nay”, nhóm làm việc của ông hầu như không trình bày về lập trường
của Mỹ trước công chúng hoặc thậm chí là trước các bên có quan tâm không
chính thức liên quan đến các cuộc thảo luận TPP.
Vấn
đề đã đạt đến đỉnh điểm vào tháng 2 vừa qua, khi 23 tổ chức đại diện
cho các thư viện của hầu hết các viện nghiên cứu và trường đại học của
Mỹ đã thúc giục Chính quyền Obama “cho phép công chúng được tiếp cận”
với các văn bản dự thảo đàm phán hiệp định. Họ tranh luận rằng các điều
khoản của hiệp định “sẽ đụng chạm đến mọi gia đình Mỹ” và rằng “việc thi
hành và tính bền vững của những quy tắc ràng buộc ấy...đòi hỏi một sự
minh bạch tối đa. Những ngày sau đó, Nghị sĩ Ron Wyden (Đảng Dân chủ -
bang Oregon ) đã đề xuất yêu cầu này trong một cuộc đấu khẩu căng thẳng
trong buổi điều trần của Kirk. Phản ứng lại với tuyên bố ấy, Kirk nói
rằng Chính quyền Obama “đã có những động thái nhằm công bố thông tin sớm
hơn bất cứ một Chính quyền nào trước đây”.
Không
hài lòng với câu trả lời của Kirk, Wyden đã giới thiệu một điều luật sẽ
đòi hỏi công bố bất cứ văn bản đàm phán nào của TPP “không muộn hơn 24
giờ sau khi tài liệu được chia sẻ với các bên khác”. Đề xuất của Wyden
đã không có sức lôi kéo, nhưng lời kêu gọi công khai hơn nữa trong các
cuộc đàm phán TPP vẫn còn đó, ở cả Mỹ và nước ngoài.
Một kiểu thỏa thuận mới
Nếu
các cuộc đàm phán TPP gặt hái được thành công thì Mỹ sẽ trở nên mạnh
hơn rất nhiều cả về mặt kinh tế lẫn chính trị trong thế hệ tiếp theo.
Một thỏa thuận bao gồm cả Nhật Bản về cơ bản sẽ dẫn đến một hiệp định
thương mại tự do giữa Oasinhtơn và Tôkyô, thể hiện điều mà lâu nay Mỹ
vẫn tìm kiếm là “mở cửa Nhật Bản lần thứ ba” và sự khẳng định sức mạnh
của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương. Rộng hơn nữa, Mỹ hi vọng rằng TPP sẽ
gắn kết một hệ thống thương mại mở và liên kết với nhau dựa trên những
quy tắc cùng được nhất trí.
Đó
là lý do tại sao Chính phủ Mỹ hi vọng có thể hoàn tất được những nét
đại cương của một thỏa thuận cuối cùng vào cuối năm nay. Nhưng đầu tiên
họ phải dập tắt được sự phản đối trong nước đối với TPP, đặc biệt là ở
các khu vực nông nghiệp, bảo hiểm và xe ô tô của nước này. Họ cũng cần
phải dàn xếp được những lo ngại của các nhà chỉ trích trong nước và nước
ngoài ở bất kỳ điểm nào có thể về các đòi hỏi của họ liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ. Và họ phải minh bạch hơn nữa trong tiến trình đàm
phán hiệp định. Nếu Chính quyền Obama không thể thực hiện được những
bước đi này thì có thể họ sẽ bỏ lỡ cơ hội mở đường cho một kiểu hiệp
định thương mại mới và tái khẳng định quyền lợi kinh tế và chính trị của
mình ở khu vực Thái Bình Dương.
Theo Foreign Affairs
Trần Quang (gt)