Là
người có nhiều năm công tác bên cạnh ông Lê Đức Thọ, xin ông cho biết
những cảm nhận của ông về thủ trưởng của mình trong vai trò "Cố vấn đặc
biệt" của Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam?
Ông Lưu Văn Lợi: Cảm
nhận bao trùm của tôi về đ/c Lê Đức Thọ là hình ảnh của người chiến sỹ
trong bài hát "Người chiến sỹ ấy" của Hoàng Vân - người chiến sỹ với tâm
hồn thi sỹ đã suốt đời tận tâm, tận trí và tận lực phục vụ lý tưởng mà
đ/c đã tự sự trong bài thơ "Ra đi" viết trên quãng đường xa thẳm vào
công tác ở Nam Bộ năm 1948: "Lòng chúng ta quên hết/ Tất cả những cái gì
riêng đẹp nhất/Để đem về lẽ sống của nhân dân" .
Tháng 5/1968, Bác Hồ trực tiếp đề nghị
Bộ Chính trị điều ngay đ/c Lê Đức Thọ từ Trung ương Cục ở Bắc Tây Ninh
ra Hà Nội để làm "Cố vấn đặc biệt" của Đoàn Chính phủ VNDCCH tại Hội
nghị Paris về Việt Nam. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn giao nhiệm vụ cho đ/c Lê
Đức Thọ làm "Tư lệnh" mặt trận ngoại giao ở Hội nghị Paris, là đại diện
của Bộ Chính trị tại chỗ để chỉ đạo cả hai đoàn, đồng thời chủ trì việc
gặp riêng với Mỹ. Đ/c Lê Đức Thọ đã cùng với Bộ trưởng Xuân Thủy xây
dựng khối đoàn kết tất cả các thành viên của hai đoàn, phân công nhiệm
vụ rõ ràng cho từng bộ phận và cá nhân, tổ chức bộ phận tác chiến phục
vụ cho diễn đàn công khai và các cuộc gặp riêng, phối hợp nhịp nhàng
hoạt động của hai đoàn theo tinh thần "hai là một, một là hai", liên hệ
chặt chẽ với với các cơ quan lãnh đạo cùng cơ quan chức năng ở Hà Nội và
Trung ương Cục Miền Nam, tập hợp và huy động đội ngũ cán bộ chuyên
trách đoàn thể, thông tin báo chí và kiều bào vận động và đấu tranh
tranh thủ dư luận quốc tế, tác động vào nội bộ Mỹ; bảo đảm an toàn và bí
mật tuyệt đối.
Trong thời gian ở Paris, đ/c Lê Đức
Thọ không chỉ lo toan các vấn đề chiến lược, đọc kỹ các tài liệu và biên
bản, chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp riêng, góp ý cho cho các bộ
phận chuyên môn...; mà còn rất quan tâm đến cuộc sống của anh em trong
đoàn. Đ/c nhắc anh nuôi lo cho anh em tô mì, cốc sữa, nhắc bác sỹ cung
cấp thuốc men. Thấy anh em phờ phạc vì thiếu ngủ, đ/c cười bảo: "về Hà
Nội, mình sẽ để các cậu tha hồ ngủ bù", nhưng rồi sực nghĩ điều gì, đ/c
lại nói tiếp: "Nói thế thôi, chứ đấu tranh đạt được Hiệp định đã khó,
nhưng đấu tranh đòi đối phương thi hành Hiệp định lại càng khó hơn, gian
khổ hơn". Đ/c Lê Đức Thọ thường đi nghỉ sớm, nhưng có khi đến một hai
giờ sáng, đ/c đã dậy, đi đi lại lại rồi ngồi vào bàn làm việc. Bộ phận
tác chiến cũng cố gắng theo giờ của Thủ trưởng.
Trong thương lượng với ta, Kissinger
đã nói Mỹ chẳng may mà gặp ta chứ họ không chọn đối phương là ta! Còn
cái không may của Kissinger, một chính khách ngoại giao vốn nổi tiếng có
nhiều thủ đoạn, một nhà thuyết khách có tài, lại phải đối mặt với một
người như Lê Đức Thọ - một chiến sỹ đã được tôi luyện trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, một nhà lãnh đạo quyền uy, kiên định mục
tiêu và biết linh hoạt thỏa hiệp có nguyên tắc, biết cương, biết nhu.
Đấu tranh với Kissinger, ông nặng lòng thông cảm với nỗi đau của đồng
bào đồng chí, và vững tin ở sức mạnh ngàn năm của dân tộc. Bất kể vũ
khí, thủ đoạn hay đe dọa nào, một Nixon, một Kissinger không thể khuất
phục được con người đó!
Trong gần 5 năm đàm phán có lúc
ông Lê Đức Thọ phải trực tiếp về nước để thống nhất ý kiến giữa Đoàn và
sự chỉ đạo trong nước. Xin ông có thể cho biết thêm tính chất quan trọng
và cần thiết của các chuyến đi này.
Ông Lưu Văn Lợi: Kết
hợp giữa đánh với đàm ở Hội nghị Paris về Việt Nam có những thuận lợi và
khó khăn riêng. Lần này ta phải đàm phán với đại diện của Mỹ - siêu
cường thế giới về sức mạnh tổng hợp và ngoại giao.
Phái đoàn của ta ở Paris, xa Trung
ương và Bộ Chính trị, nên việc trao đổi qua lại để thống nhất đánh giá
về tình hình quốc tế và đối phương, về giải pháp và bước đi, không phải
lúc nào cũng có thể dùng mật điện được. Chính vì vậy mà trong tình thế
rất khẩn cấp, đồng chí Lê Đức Thọ phải về Hà Nội để báo cáo và trao đổi
trực tiếp với Bộ Chính trị. Có hai chuyến về quan trọng.
Ngày 13/10/1968, Đoàn ta ở Paris nhận
được chỉ thị của BCT mà nếu thực hiện thì có thể bỏ lỡ thời cơ buộc Mỹ
chấm dứt ném bom miền Bắc và họp 4 bên. Đ/c Lê Đức Thọ thấy tình thế
phức tạp, có thể lỡ mất thời cơ, nên sáng hôm sau, sau khi họp Đoàn trao
đổi kỹ, đã quyết định về ngay Hà Nội. Tôi được lệnh trao đổi với Đại sứ
quán Liên Xô ở Paris để thu xếp cho đ/c Lê Đức Thọ có thể về Mátxcơva
sớm nhất. Hôm đó chỉ có duy nhất một chuyến bay từ Paris đi Mátxcơva
đang chuẩn bị cất cánh. Chiếc máy bay này đành phải dừng lại ở sân bay
khoảng hơn 2 tiếng. Hành khách rất lo lắng và sốt ruột, nhưng khi trông
thấy đoàn đ/c Lê Đức Thọ lên máy bay, họ được giải thích lý do và thông
cảm. Ngày 16/10/1968, đ/c về tới Hà Nội. Bộ Chính trị đã họp liên tục
trong 3 ngày từ 17-19/10 để nghe báo cáo và thảo luận về tình hình đàm
phán ở Paris, cuối cùng đã thống nhất với nhận định của Đoàn ta ở Paris
trước đó. Kết quả là Mỹ đã chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện vào
ngày 31/10/1968 và sau đó tiến hành họp 4 bên.
Đầu năm 1972, khi cuộc đàm phán với Mỹ
của ta ở Paris đang đi tới hồi kết, thì cả Trung Quốc và Liên Xô đều
điều chỉnh chính sách với Mỹ. Tháng 1/1972, Trung Quốc đón Tổng thống Mỹ
Nixon thăm Bắc Kinh và ra "Thông cáo chung Thượng Hải". Tháng 5/1972,
Tổng thống Mỹ Nixon thăm Mátxcơva. Phía Mỹ hy vọng là có thể gây được
sức ép với ta trên bàn đàm phán, nhưng Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nói
thẳng với Kissinger: "Bạn chúng tôi hết lòng ủng hộ chúng tôi, nhưng
không làm thay chúng tôi" . Trong phiên họp riêng kéo dài lâu nhất trong
suốt gần 5 năm đàm phán, từ 9 giờ 30 sáng ngày 11/10/1972 tới gần 2 giờ
sáng ngày hôm sau, nội dung bản Hiệp định do ta đưa ra về cơ bản đã
được hai bên chấp nhận. Trong thông điệp ngày 20/10/1972 gửi Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Tổng thống Mỹ Nixon đã xác nhận "văn bản Hiệp định coi
như đã hoàn thành" và cam kết Hiệp định sẽ được chính thức ký kết ngày
31/10/1972 tại Paris.
Trong khi tình hình dường như đang
tiến triển thuận lợi, đ/c Lê Đức Thọ "cũng đã dự kiến những diễn biến
phức tạp do các nhân tố khách quan, trong đó có mối quan hệ Mỹ-ngụy" .
Đúng là phía Mỹ đã lật lọng thô bạo, không thực hiện điều đã cam kết.
Ngày 22/10, Tổng thống Nixon lại gửi công hàm cho ta, nêu khó khăn do
Thiệu phản đối, nên chưa có thể ký Hiệp định như đã thỏa thuận. Sau khi
Tổng thống Nixon được tái cử ngày 7/11, trong cuộc họp ngày 23/11/1972,
Kissinger đòi sửa lại 69 điều trong văn bản đã thỏa thuận. Phía ta đã
phản đối quyết liệt.
Trong cuộc họp hẹp với Kissinger sáng
4/12/1972, đ/c Lê Đức Thọ nói: "Chúng tôi cũng đã dự tính là nếu không
giải quyết được thì chiến tranh sẽ rất tàn khốc, có thể là các ông sẽ
đem B-52 đánh bom ồ ạt đất nước chúng tôi… Chúng tôi đã chịu đựng hàng
triệu tấn bom đạn của Mỹ, nhưng chúng tôi không hề khiếp sợ, chúng tôi
không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ. Cho nên những lời đe dọa
của các ông và việc các ông không giữ đúng lời hứa chỉ chứng tỏ các ông
"không phải là những người đàm phán nghiêm chỉnh" .
Tối ngày 18/12/1972, đ/c Lê Đức Thọ về
tới Hà Nội. Chưa đầy hai tiếng sau, Mỹ bắt đầu dùng B.52 ném bom Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác, đồng thời cũng trong ngày hôm
đó lại gửi công hàm tới Đoàn ta ở Paris đề nghị nối lại đàm phán sau
ngày 26/12/1972. Lưới lửa phòng không của chiến tranh nhân dân đã giăng
kín trời Hà Nội và các nơi khác. Quân và dân ta đã sẵn sàng đối mặt với
B-52 Mỹ. Từ năm 1967, Bác Hồ đã nói với tướng Phùng Thế Tài, lúc đó là
Phó Tổng tham mưu trưởng, lời dự báo: "Sớm muộn Đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa
B-52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Chú nên nhớ trước khi
đến Bàn Môn Điếm ký hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không
quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ
chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội" .
Đánh B-52 là canh bạc cuối cùng của
Nixon. Đây là một chiến dịch đã được chuẩn bị sẵn từ trước với cái tên
Linebacker II. Nhưng có một điều mà ông ta và các chiến lược gia Hoa Kỳ
chưa biết rõ. Đó là Thăng Long bất khuất và kiên cường đã chôn vùi nhiều
mộng tưởng ngoại xâm. Trong 12 ngày đêm của trận "Điện Biên phủ trên
không" ấy, đã có 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B-52 và 5
chiếc F-111; 43 giặc lái đã bị bắt. Mưu đồ của Nixon nhằm khuất phục ý
chí sắt đá của Hà Nội bằng tham vọng "đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá" đã
thất bại hoàn toàn. Nixon cũng không còn gì để trấn an chính quyền Thiệu
được nữa và nội bộ càng mâu thuẫn, rối ren. Dư luận thế giới phê phán
và phản đối kịch liệt sự lật lọng, tráo trở của Mỹ. Mỹ không còn lựa
chọn nào khác là phải ngừng ném bom để quay lại bàn đàm phán. Sau này,
chính Kissinger đã phải cay đắng thừa nhận về sự đại bại của trận không
kích B-52 này: "Điều đó có bõ không? Những sự thay đổi liệu có đủ quan
trọng để biện minh cho nỗi lo âu và cay đắng trong những tháng cuối cùng
của cuộc chiến tranh không? Không, đối với chúng ta, hẳn rồi, gần như
là chắc chắn đối với Sài Gòn mà sự sống sót, nói cho cùng, là cái cớ của
chiến tranh" .
Bộ Chính trị đã thảo luận suốt 3 ngày
trong hầm nhà Rồng tại Hoàng thành, nhiều ý kiến lật đi, lật lại, nhưng
cuối cùng đã nhất trí cao với ý kiến do các đồng chí Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ đề xuất là phía ta nên gặp lại phía Mỹ. Hiệp định Paris về chấm dứt
chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký tắt ngày 23/1/1973
và được ký chính thức ngày 27/1/1973 với nội dung cơ bản như dự thảo
của ta đã chủ động đưa ra hồi tháng 10/1972.
Xin ông cho biết những tiếp xúc quan trọng đáng ghi nhớ nhất với kiều bào ta ở Pháp?
Ông Lưu Văn Lợi: Lực
lượng Việt kiều yêu nước ở Pháp rất mạnh và có tinh thần đoàn kết từ
thời Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp, nhất là thời kỳ Hồ Chủ Tịch sang
Paris năm 1946 với danh nghĩa thượng khách của Chính phủ Pháp. Khi sang
Paris, Đ/c Lê Đức Thọ đã cùng Bộ trưởng Xuân Thủy sớm quan tâm củng cố,
động viên và huy động lực lượng Việt kiều tại Paris và toàn Pháp gắn kết
với các hội Việt kiều ở Tây-Bắc Âu và Mỹ nhằm tăng cường đoàn kết dân
tộc, phát huy sự đóng góp vào một số công việc của Đoàn và tranh thủ dư
luận quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta.
Lãnh đạo Đoàn ta cùng cơ quan ngoại
giao Việt Nam có kế hoạch rất chu đáo củng cố và phát huy vai trò của bà
con cô bác Việt kiều, trong đó có nhiều nhân sỹ, trí thức nổi tiếng.
Riêng đồng chí Lê Đức Thọ rất quan tâm chú ý tới Nhóm Việt ngữ và qua
nhóm này huy động phong trào Việt kiều trong Hội liên hiệp Việt kiều và
các lực lượng khác. Đ/c đã phân công cả các thành viên chủ chốt trong
hai đoàn lo từng việc cụ thể cùng với Tổng đại diện Việt Nam tại Paris
và Phòng thông tin của Mặt trận DTGPMNVN.
Dù bận rất nhiều việc, nhưng đ/c Lê
Đức Thọ vẫn thu xếp thời gian thăm các nhân sỹ, trí thức tiêu biểu, nổi
tiếng trong giới trí thức Việt kiều không những ở Pháp mà ở cả thế giới
như các ông Hoàng Xuân Hãn và Hoàng Xuân Mãn; thăm gia đình họa sỹ Lê Bá
Đảng; dự các cuộc gặp gỡ thân tình và bổ ích tại trụ sở Đoàn với đại
diện Việt kiều tới thăm Đoàn. Đ/c Lê Đức Thọ còn trao đổi với Nhà để có
những chính sách cụ thể ghi công xứng đáng cho các lực lượng Việt kiều.
Các thành viên Nhóm Việt ngữ đã được xét kết nạp trở thành đảng viên
Đảng Lao động Việt Nam. Nhiều người đã về nước, trong đó có một số công
tác ở Bộ Ngoại giao; một số được tín nhiệm trao các chức vụ cao như Chủ
nhiệm, Phó chủ nhiệm Ban Việt kiều Trung ương, Chủ nhiệm UBKHKTNN, Chánh
án Tòa án Nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều kỹ sư và kiến
trúc sư đã về nước đóng góp trí tuệ và kiến thức chuyên môn trong công
cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng đất nước. Nhiều người có thành tích
tiêu biểu đã được Chính phủ tặng thưởng huân huy chương kháng chiến.
Hội người Việt Nam tại Pháp được tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất. Ông Hoàng Xuân Hãn được tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng nhì, ông Hoàng Quốc Tân - hạng ba. Hàng
trăm Việt kiều đã được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến, trong đó
có ông Phùng Công Khải đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng
nhất.
Nhiều thành viên trong Đoàn đàm
phán nhận xét cả hai đoàn chúng ta đều được lãnh đạo nhắc nhở công tác
xây dựng nội bộ, đặc biệt là ý thức bảo mật. Xin ông cho biết đó có phải
là một trong những phẩm chất cần có của cán bộ ngoại giao không?
Ông Lưu Văn Lợi: Trong
cuộc đàm phán kéo dài gần 5 năm ở Paris, ta đã giữ tuyệt đối được bí
mật tất cả các phương án và giải pháp đấu tranh ngoại giao. Có được
thành quả đó là do ý thức bảo mật tuyệt đối của tất cả các thành viên
trong cả hai đoàn của ta - điều mà lãnh đạo Đoàn thường xuyên nhắc nhở.
Đ/c Lê Đức Thọ đã nhận xét: "cán bộ ngoại giao rất cẩn thận, kỷ luật,
tin cậy, chưa khi nào để xẩy ra điều gì phiền lòng về bảo mật".
Sau cuộc họp 3 ngày của Bộ Chính trị
vào cuối tháng 12/1972 thảo luận về tình hình đàm phán ở Paris (đ/c Đinh
Nho Liêm là thư ký ghi chép), lẽ ra đ/c Lê Đức Thọ sang Paris ngay,
nhưng do bị sốt cao chưa thể đi được, đ/c đã cho mời đ/c Đinh Nho Liêm
tới và thân mật nói: "Liêm ơi tuy mệt cậu cố gắng đi sớm Paris, đưa ý
kiến thảo luận và quyết định của Bộ Chính trị sang báo cáo rõ với anh
Xuân Thủy, chị Bình, anh Thạch và các đồng chí đoàn viên. Cậu chú ý bảo
mật, nhớ kỹ trong đầu, không mang tài liệu. Sang Paris cậu không ra khỏi
trụ sở đoàn" .
Ý thức bảo mật tuyệt đối là một trong
những phẩm chất cần phải có của cán bộ ngoại giao trước kia cũng như
hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh
mẽ với những thành tựu công nghệ rất hiện đại và tinh vi. Khả năng thâm
nhập của công nghệ thông tin rất lớn, nhưng suy cho cùng thì ý thức
cảnh giác và bản lĩnh của con người vẫn đóng vai trò quyết định. Vì vậy,
các cán bộ ngoại giao không phân biệt thâm niên luôn phải chú ý bảo mật
và trung thành tuyệt đối với lợi ích của dân tộc.
Trong công cuộc bảo vệ chủ quyền
của đất nước và quan hệ quốc tế hiện nay, chúng ta có thể học gì từ kinh
nghiệm của Hội nghị Paris?
Ông Lưu Văn Lợi: Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam đã
được ký tắt giữa Cố Vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn An ninh Quốc gia
Hoa Kỳ - Tiến sỹ Henry Kissinger ngày 23/1/1973 và sau đó được ký chính
thức ngày 27/1/1973, là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và nghệ thuật
ngoại giao Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử mà Đảng và
Bác Hồ đã kế thừa và phát triển trong bối cảnh quốc tế mới. Đó cũng
chính là thắng lợi của việc thực hiện tư tưởng, phong cách và nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy cam
go và thử thách của dân tộc Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế và hoàn cảnh đất nước
đã thay đổi rất khác xưa, nhưng từ quá trình đàm phán suốt gần 5 năm ở
Hội nghị Paris, có thể thấy một bài học lớn là cần nghiên cứu và học tập
thật thấu đáo để quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng,
phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh theo phương châm "dĩ
bất biến, ứng vạn biến". Trong cuộc gặp Bác Hồ trước khi sang Paris, đ/c
Lê Đức Thọ đã được Bác dặn dò: trong khi đàm phán phải giữ vững lập
trường, ứng phó với mọi tình huống, dĩ bất biến, ứng vạn biến, vạch trần
tội ác của Nhà cầm quyền Mỹ, nhưng phải tôn trọng nhân dân Mỹ. Lời căn
dặn quí báu này của Bác đã được các đ/c lãnh đạo Đoàn cùng các thành
viên nhận thức sâu sắc và thực hiện nhất quán trong suốt quá trình đàm
phán. Đó cũng là cội nguồn của thành công.
Trong đàm phán ở Paris, "dĩ bất biến"
trong lời căn dặn của Bác Hồ, bao hàm nhiều nội dung. Đó là mục tiêu cần
đạt được: Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam, "quân Mỹ phải rút ra, còn quân ta ở lại". Đó còn là tinh thần
độc lập tự chủ và yêu cầu có tính nguyên tắc về sự hợp chặt chẽ giữa
chính trị với quân sự và ngoại giao, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc
tế, giương cao ngọn cờ chính nghĩa dân tộc với đấu tranh dư luận để vạch
trần âm mưu, thủ đoạn của đối phương và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
quốc tế thật rộng rãi trên khắp các châu lục nhằm giành thắng lợi từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Sự kết hợp này là một vấn đề
có tính qui luật của cách mạng Việt Nam bắt nguồn từ vị trí địa-chiến
lược của Việt Nam, từ so sánh lực lực lượng giữa Việt Nam với đối phương
và từ xu thế của thời đại.
"Ứng vạn biến" đã được quán triệt và
triển khai ở Hội nghị Paris bao quát cả sách lược thỏa hiệp khéo léo và
sự nhân nhượng linh hoạt có nguyên tắc để tranh thủ thời cơ giành thắng
lợi từng bước. "Ứng vạn biến" còn là biết tư duy sáng tạo để tìm kiếm
những hình thức và biện pháp đoàn kết và đấu tranh phù hợp với từng đối
tác, đối tượng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Kết quả cuối cùng được thể
hiện ở sự phối hợp có hiệu quả giữa tiến công chính trị với tiến công
quân sự và tiến công ngoại giao; ở sự kết hợp giữa phát huy cao độ chính
nghĩa và đoàn kết dân tộc với việc thức tỉnh lương tri nhân loại và mở
rộng đoàn kết quốc tế nhằm gắn kết tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại hướng tới thực hiện thành công mục tiêu "đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong
thời gian này, ta đã xây dựng được mặt trận đoàn kết nhân dân toàn thế
giới ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Phong
trào đấu tranh vì hòa bình và phản chiến ở Mỹ cũng phát triển mạnh mẽ.
Một số bài học kinh nghiệm này vẫn có ý
nghĩa thời sự đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền của đất nước, lợi ích
quốc gia và quan hệ quốc tế của ta hiện nay.
Xin cảm ơn Ông!
Hải Bằng (thực hiện) |