Nguyễn Ngọc Hòa
Vấn
đề giao lưu văn hóa, ngày nay, đã trở nên đáng quan tâm nhiều hơn, đặc
biệt là trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra khá mạnh mẽ trên khắp
các lĩnh vực mà ở đó sức mạnh mềm của văn hóa đang ngày càng được thể
hiện, từ thay đổi quan niệm giá trị đến sử dụng ngoại giao văn hóa như
một chiến lược; từ thay đổi và tạo dựng hình ảnh quốc gia đến khẳng định
giá trị dân tộc...
Giao
lưu văn hóa chính là quá trình diễn ra sự gặp gỡ, tìm hiểu, đối thoại,
trao đổi các giá trị văn hóa. Lịch sử của văn hóa, văn minh nhân loại là
kết quả của một quá trình giao lưu vô cùng đa dạng và đặc sắc. Xuất
phát từ sự học hỏi và hiểu biết, các nền văn hóa có thể tìm đến với nhau
nhưng cũng có những nền văn hóa gặp nhau trong sự cưỡng bức. Đế quốc La
Mã đã xâm chiếm Hy Lạp và không thể không mang theo văn hóa của mình để
áp đặt cho dù các công dân thành bang Athène không chờ đón họ. Dân tộc
Việt Nam có thể bị áp đặt 1000 năm nhưng không thể bị đồng hóa mà ngược
lại còn biết chọn lọc tiếp thu văn hóa chính trị của Trung Hoa để trị
nước và văn hóa tâm linh của Ấn Độ để an dân. Dù cưỡng bức hay tự nguyện
thì bản chất của giao lưu văn hóa chính là quá trình giới thiệu, quảng
bá (có thể dưới dạng áp đặt) các giá trị, sản phẩm văn hóa của mình ra
với các nền văn hóa khác và tiếp thu, chọn lọc (chấp nhận) các giá trị
văn hóa từ bên ngoài. Nếu quá trình này diễn ra tự nguyện thì có thể gọi
đó là cho và nhận, nhưng nếu là cưỡng bức thì sự áp đặt và chấp nhận diễn ra một cách miễn cưỡng.
Trong thực tế, quá trình cho và nhận
của giao lưu văn hóa không phải lúc nào cũng được ý thức một cách rõ
ràng. Các đế quốc, khi xâm chiếm hay buôn bán với các quốc gia khác có
thể quên không mang theo tiền bạc hay súng đạn, khoa học kỹ thuật hay
các tác phẩm nghệ thuật... nhưng không thể không mang theo các khuôn
mẫu, phương thức sống, các kiểu văn hóa nhất định. Chẳng hạn, quá trình
giao lưu (kinh tế, chính trị, thương mại...) đã để lại chùa chiền, hội
quán của văn hóa Trung Hoa ở Hội An; để lại Lai Viễn Kiều như là cầu nối
với người Nhật. Mặt khác, quá trình gặp gỡ giữa các nền văn hóa không
giống nhau có thể tạo ra sự ngạc nhiên, có thể bị sốc bởi tính đa
dạng, khác biệt văn hóa mà tạo hóa đã ban cho mỗi dân tộc, tộc người.
Trong trường hợp này, sự va chạm văn hóa, thậm chí là xung đột văn hóa,
có thể xảy ra, nghĩa là hoạt động cho và nhận sẽ không mang lại hiệu quả.
Nhìn ở một khía cạnh khác, cho và nhận
trong giao lưu văn hóa sẽ không đạt đến sự tối ưu nếu như mỗi nền văn
hóa không có cách để lưu giữ và sáng tạo. Mọi sự nhập khẩu mô hình cũng
như sản phẩm văn hóa đều có thể di hại đến nền văn hóa với tư cách là
một chủ thể tiếp nhận và chia sẻ. Cho và nhận phải đi liền với sáng tạo,
cải biến và lưu giữ. Giao lưu văn hóa sẽ không còn sức mạnh tự thân nếu
như không có kế thừa văn hóa.
Trong
đời sống văn hóa, kế thừa và giao lưu văn hóa là hai vấn đề sống còn
của bất cứ một nền văn hóa nào, của bất cứ một dân tộc, tộc người nào.
Sự đa dạng của đời sống văn hóa có thể che khuất chiều sâu của hai dòng
chảy này nhưng không phải vì thế mà làm mất đi bản chất sinh tồn của nó.
Từ tự phát đến tự giác, kế thừa và giao lưu văn hóa đã làm thay đổi và
phát triển các nền văn hóa. Từ nhận thức này chúng ta có thể xác định
được tọa độ của các nền văn hóa trong quá khứ nhưng trong hiện tại và
tương lai lại là điều không dễ dàng. Chẳng hạn, quá trình cho và nhận,
sáng tạo, cải biến và lưu giữ của văn hóa Việt Nam đã được định danh khi
va chạm, tiếp xúc với các nền văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây.
Không phải ngẫu nhiên mà bài hát Happy New Year đã trở nên
quen thuộc với người Việt Nam. Trong phạm vi quốc gia, sự tồn tại và
phát triển của cộng đồng tộc người là một quá trình học hỏi và chia sẻ
các giá trị văn hóa. Các dân tộc đã cộng sinh và làm nên các đặc trưng
văn hóa Việt Nam thông qua văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục, các lối
sống và thang bậc giá trị.
Nội
sinh và ngoại sinh là những yếu tố hạt nhân của kế thừa và giao lưu văn
hóa. Sự cọ xát và thâm nhập vào nhau giữa nội sinh và ngoại sinh diễn
ra trong từng ngày, từng giờ mà không phải bất cứ chủ thể văn hóa nào
cũng có thể nhận biết. Sự thắng thế của các nhân tố ngoại sinh trong quá
trình hội nhập hiện nay là một thực tế không đến đỗi quá bi quan như
một số người lo lắng. Một thanh niên đột nhiên đi nhuộm tóc đỏ hay tô
môi trầm theo kiểu Hàn Quốc là một quyết định có tính thời khắc do chịu
tác động của phim ảnh chứ không hoàn toàn đã bị đồng hóa bởi, người Việt
Nam xem sự thay đổi nhân cách mới quan trọng chứ không quá lo lắng về
sự thay đổi đầu tóc.
Diện
mạo của một nền văn hóa được tạo dựng bằng một quá trình lâu dài mà ở
đó, các chủ thể văn hóa, các dân tộc, tộc người luôn phải lựa chọn cách
ứng xử khi tiếp xúc, va đập với các nền văn hóa khác. Nói giao lưu văn
hóa là quy luật của của sự phát triển là nói đến cách ứng xử giữa truyền
thống và hiện đại, giữa cái cũ và cái mới của từng chủ thể văn hóa. Sự
ứng xử này thoạt nhìn có vẻ dễ hiểu theo quán tính lý tưởng nhưng đôi
khi lại gặp không ít rủi ro, thậm chí có những lựa chọn dẫn đến đánh mất
bản sắc văn hóa. Chính vì vậy mà việc dự liệu cho những tình huống có
thể xảy ra trong giao lưu, hội nhập văn hóa là vấn đề hết sức cần thiết.
Theo tôi, quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa thường xảy ra một số tình huống.
Giao lưu văn hóa có thể làm cho các nền văn hóa xích lại gần nhau.
Đây là xu hướng chủ đạo thể hiện bản chất nhân văn của văn hóa. Điều
này xuất phát từ chỗ hệ giá trị (mẫu số văn hóa) của các nền văn hóa đều
có nhiều điểm tương đồng, đều hướng đến chân, thiện, mỹ, đều có lòng
nhân ái, nhân nghĩa, khoan dung, yêu hòa bình, lên án chiến tranh... Đó
là những tiếng nói chung trở thành tâm thức của các dân tộc, của đồng
loại. Các cấp độ để xích lại gần nhau tùy thuộc vào những điểm tương
đồng về môi trường cư địa, phương thức kinh tế, có thể là lịch sử, văn
hóa, nguồn gốc chủng tộc hay tín ngưỡng, tôn giáo... Văn hóa Phật giáo,
xuất phát từ Ấn Độ, văn hóa Thiên chúa giáo, xuất phát từ phương Tây...
nhưng đã có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn trên thế giới. Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên trước đây được xem là những quốc gia đồng
văn, đồng chủng cho nên rất gần gũi nhau và quá trình giao lưu diễn ra
rất thuận lợi. Qua các lần festival Huế, văn hóa Việt Nam, Hàn Quốc và
Nhật Bản trở nên gần nhau hơn. Nhã nhạc Cung đình Huế, nhã nhạc Hàn Quốc
và Nhật Bản đều có những điểm tương đồng. Không phải ngẫu nhiên mà
nhiều người Việt Nam hiện nay rất thích Hàn Quốc, rất hiểu lịch sử Trung
Quốc bởi làn sóng phim Hàn, phim Trung Quốc đã làm thay đổi cách nghĩ
của người Việt Nam theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, ngày càng hiểu biết, tôn trọng nhau hơn trong quá
trình phát triển. Có được điều đó chính là kết quả của một quá trình
giao lưu khá toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự cộng
sinh, cộng mệnh và cộng cảm của các dân tộc đã làm cho quá trình giao
lưu văn hóa phát huy được động lực của mình trong việc xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc, xua tan những ngộ nhận và chia rẽ trong quá trình
phát triển.
Giao lưu văn hóa có thể nảy sinh, dẫn đến va chạm và xung đột
lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Phải thừa nhận là có sự va chạm văn hóa
đang diễn ra ở mức độ toàn cầu cũng như trong nội bộ từng quốc gia, dân
tộc. Tại sao văn hóa Hồi giáo không thể chấp nhận văn hóa phương Tây,
ngay cả các quốc gia Hồi giáo không cực đoan? Liên bang Nam Tư sụp đổ,
ngoài những yếu tố về chính trị còn có sự khác nhau về các kiểu văn hóa
trong các cộng đồng người như Xéc bi, Anbani..., những người theo Hồi
giáo và Chính thống giáo... Việt Nam trong quá trình vận động và phát
triển, có những giai đoạn không chấp nhận văn hóa, lối sống phương Tây.
Sự va chạm này, xét từ tầng sâu có thể xuất phát từ sự khác nhau của các
hệ giá trị, chiều sâu tâm linh, tôn giáo... hoặc từ sự không cùng hệ tư
tưởng... Tuy nhiên, những hành xử, thái độ... được biểu hiện trong
phong tục, tập quán, trong lối sống cũng dẫn đến sự va chạm và xung đột
nếu như thiếu sự hiểu biết nhất định về văn hóa của từng tộc người.
Con người, các nền văn hóa có thể bị đồng hóa
trong quá trình giao lưu văn hóa. Đây là một tình huống diễn ra thường
xuyên trên các cấp độ giao lưu văn hóa. Thực ra tính đa dạng văn hóa có
thể là một vấn đề sống còn nhưng bản thân nó không thể kiểm soát được sự
đồng hóa luôn diễn ra trong mọi thời điểm. Sự đồng hóa này có nguyên
nhân từ ảnh hưởng, tác động của nền văn hóa các dân tộc, quốc gia có
nhiều lợi thế hơn so với văn hóa của các tộc người, dân tộc yếu thế hơn.
Chẳng hạn, với lợi thế về kinh tế, chính trị, quân sự, đặc biệt là các
công cụ truyền thông, giải trí..., văn hóa Mỹ đã tràn ngập trên thế
giới, ngay cả văn hóa của nước láng giềng như Canada cũng không thể phát
triển một cách thuận lợi. Phim ảnh Trung Quốc, Hàn Quốc chiếm lĩnh hầu
hết trên các kênh truyền hình Việt Nam và đã diễn ra tình trạng một làng
người Cơ tu ở Tây Giang (Quảng Nam) đã đặt tên con cái bằng tên của các
nhân vật trong phim Hàn Quốc... Hip hop thì đi vào quân đội theo chương
trình Chúng tôi là chiến sĩ một cách nhẹ nhàng... Thiết nghĩ
trước khi bị đồng hóa thì bước đầu tiên là bị tha hóa từ những hành vi
học theo rất bình thường trong sinh hoạt hàng ngày, sau đó hình thành
thói quen, lối sống, nếp sống... Quả thật, sức mạnh mềm của văn hóa là
điều phải luôn được quan tâm trong chiến lược, quyết sách của một quốc
gia nếu còn muốn giữ gìn bản sắc dân tộc.
Thật ra, sự đồng hóa có thể bắt đầu từ sự cưỡng bức
nhưng đó là đối với trước đây khi một bộ lạc, tộc người hay quốc gia
này xâm lược, chiếm đóng và áp đặt giá trị cho một bộ lạc, tộc người hay
quốc gia khác. Ngày nay, sự áp đặt được che dấu bởi các nguồn tài
chính, viện trợ hoặc công nghệ nhưng mỗi quốc gia đều có nhiều sự lựa
chọn hơn. Sự lựa chọn đó nói đến tính tự nguyện trong giao lưu
văn hóa với tư cách là một tình huống có thể dẫn đến đồng hóa đáng lo
ngại nhất nếu như mỗi quốc gia, dân tộc không xây dựng sức đề kháng cho
mình. Chúng ta có thể nhìn thấy sự tha hóa ấy diễn ra từng ngày,
từng giờ khi đa số các dân tộc thiểu số hiện nay đều tự nguyện hướng
theo lối sống của người Kinh. Thanh niên thích nhảy disco, hip hop hơn
diễn tấu cồng chiêng, xấu hổ với trang phục truyền thống... Thanh niên
Việt Nam thì sống theo lối sống kiểu Hàn Quốc và phương Tây... Tất cả
những điều đó là hiệu ứng của một quá trình hội nhập mà sự học hỏi, học
đòi hay lây nhiễm là hoàn toàn có thể.
Giao
lưu văn hóa là quy luật phát triển của mọi nền văn hóa nhưng các tình
huống trong giao lưu vẫn tạo ra những thách thức cho một nền văn hóa đa
dạng, lành mạnh và giàu bản sắc.
Thiết nghĩ, để giải quyết các tình huống này, cần thực hiện tốt một số yêu cầu.
Trước hết, để cho các nền văn hóa xích lại gần nhau, học hỏi và chia sẻ các giá trị văn hóa thì hãy tạo ra sự giao lưu thật sự mạnh mẽ, sâu sắc, tránh tình trạng hời hợt.
Nếu tình trạng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc diễn ra theo kiểu cưỡi
ngựa xem hoa, như những cái bắt tay xã giao lạnh nhạt thì khó có cơ hội
để xích lại gần nhau. Ngày nay, các tour du lịch thường chạy đuổi theo
khía cạnh đó cho nên cái còn lại chỉ là những bức ảnh, thước phim, hay
những cảm giác nhất thời mờ nhạt. Sở dĩ trên thế giới dù có những dân
tộc cách xa nhau nhưng vẫn tìm thấy sự tương đồng và gần gũi là vì các
dân tộc đó đã tìm thấy được những giá trị tương đồng trong quá trình
chung đụng các lối sống, cọ xát các quan niệm. Vì thiếu sự hiểu biết về
văn hóa, các quan niệm về giá trị trong mỗi cộng đồng, dân tộc, tộc
người cho nên các nền văn hóa còn đứng cách xa nhau, thậm chí còn lạnh
nhạt và hoài nghi về lòng tốt của nhau.
Muốn
xích lại gần nhau, giao lưu văn hóa không đóng khung trong lĩnh vực văn
hóa mà còn trải rộng ra trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
bởi lẽ sau mỗi thời điểm hay giai đoạn giao lưu thì cái còn lại là văn
hóa. Không những thế, trong những thời điểm khó khăn và nhạy cảm về
chính trị, khi hai quốc gia, dân tộc đóng băng thì chính quá trình giao
lưu văn hóa đi trước để phá băng và làm ấm lại các mối quan hệ chính
trị. Trên thế giới đã từng trải nghiệm điều này với ngoại giao bóng bàn,
ngoại giao gấu trúc của Trung Quốc, ngoại giao âm nhạc của Triều Tiên,
ngoại giao hoa anh đào của Nhật Bản...
Sự
va chạm và có thể dẫn đến xung đột là điều có thể dự liệu được trong
quá trình giao lưu nhưng điều đó là chưa đủ nếu như không tạo ra được
môi trường bình đẳng và hai chiều, một nhân tố cốt lõi để cho sự
giao lưu văn hóa đạt đến sự tối ưu của nó. Có thể nói, tính đa dạng văn
hóa là một tiềm năng nhưng vẫn tiềm ẩn trong đó nguy cơ va chạm và xung
đột. Sự đa dạng, khác nhau của văn hóa tạo nên bản sắc, thương hiệu của
một nền văn hóa, một vùng văn hóa nhất định nhưng trong quá trình giao
lưu cũng nảy sinh những vấn đề không lường trước được có thể xuất phát
từ sự khác nhau trong phong tục tập quán, tôn giáo, lối sống... Tuy
nhiên, sâu xa hơn vẫn là sự áp đặt của nền văn hóa này đối với một nền
văn hóa khác thông qua kinh tế và chính trị, thậm chí là khoa học công
nghệ. Sự áp đặt các giá trị tạo ra sự phản ứng chống lại là một việc
bình thường để bảo vệ những giá trị truyền thống của họ, bảo vệ niềm
tin, lòng tự hào của một nền văn hóa.
Không
phải ngẫu nhiên mà quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra như một
quy luật tất yếu nhưng vẫn gặp sự phản đối của rất nhiều quốc gia,
nhiều cộng đồng khác nhau. Trong phạm vi một quốc gia như Việt Nam, muốn
tránh khỏi va chạm văn hóa thì nhất định phải giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa tính thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc. Đây
là vấn đề không khó về mặt lý luận nhưng nan giải về mặt thực tiễn bởi
lẽ trong đời sống thường nhật vẫn diễn ra sự va chạm làm tổn thương nhau
từ những việc có vẻ như bình thường và đơn giản. Chẳng hạn, trong quá
trình giao lưu, cộng cư, có những người miền xuôi khi lên Tây Nguyên
thường đem theo cái nhìn khinh miệt, coi thường các tộc thiểu số. Họ xem
lễ hội đâm trâu là dã man, xem ăn, mặc, ở của đồng bào thiểu số là lạc
hậu và bẩn thỉu, chê bai dân trí thấp, tự ti, ỷ lại... Sự thật bất bình
đẳng đó đã làm cho các cộng đồng dân tộc thiểu số bị tổn thương...
Bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc là điều kiện cần thiết cho
quá trình giao lưu nhưng sẽ không đầy đủ và trọn vẹn nếu như không tạo
ra được sự giao lưu và thông tin hai chiều, cho và nhận. Thực tế cho
thấy, sự thụ động, rụt rè trong quá trình giao lưu cũng như chưa làm tốt
công tác thông tin hai chiều đã khiến cho các tộc thiểu số ở Việt Nam
không có nhiều cơ hội để thể hiện và bộc lộ chính mình thông qua các
hoạt động văn hóa. Người Việt Nam khi ra nước ngoài cũng không tránh
khỏi tình trạng này, thậm chí vì thiếu tự tin, không thể hiện cho nên
dẫn đến sự tự ti đáng tiếc. Chính vì vậy, cần đánh thức lòng tự hào dân
tộc, ý thức tộc người cũng như sự tự tin cần thiết để các dân tộc thể
hiện bản sắc trong quá trình hội nhập.
Giao
lưu văn hóa có thể dẫn đến va chạm hay xích lại gần nhau nhưng tình
huống đáng quan tâm và nguy hiểm nhất là sự đồng hóa diễn ra hàng ngày
hàng giờ, không tức khắc nhưng âm ỉ thay đổi trong từng quan niệm, thói
quen mà ở đó sức mạnh mềm của văn hóa đã tác động ở chiều cạnh tiêu cực.
Dù là diễn ra có tính cưỡng bức hay tự nguyện, quá trình giao lưu văn
hóa cũng đã chứng minh một cách thuyết phục chân lý này khi nhìn thấy
nhiều dân tộc, quốc gia học theo lối sống của người khác và quay lại chê
bai, bỏ rơi bản sắc của dân tộc mình. Cái mới lạ luôn hấp dẫn và thôi
thúc con người, các nhóm người, các dân tộc và dẫn dắt họ lãng quên
truyền thống. Chính vì vậy mà không phải hoạt động giao lưu văn hóa nào
cũng dẫn đến sự phát triển mà là sự biến đổi, thậm chí bị đồng hóa và
tiêu diệt.
Dấu
hiệu đầu tiên của sự đồng hóa chính là ngôn ngữ các dân tộc bản địa
không còn được ưa chuộng, bị lai căng, pha tạp và từng bước biến mất
trong giao tiếp thường nhật. Tiếp theo là lối sống, phong tục tập quán,
các giá trị truyền thống bị lãng quên. Ngày càng có nhiều người học theo
lối sống của người khác nhưng tệ hại hơn là họ quay lại phỉ báng, chê
bai, giễu cợt nền văn hóa đã nuôi dưỡng họ, khinh miệt những người đồng
tộc của mình.
Những thách thức đó luôn diễn ra trong bất cứ thời điểm nào của quá
trình giao lưu văn hóa mà chúng ta gọi đó là mặt trái, mặt tiêu cực
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, thực tiễn đa dạng trên thế giới vẫn cho
thấy không phải nền văn hóa nào, con người nào cũng bị đồng hóa mà
ngược lại, quá trình giao lưu đã tiếp thêm sức mạnh cho họ, làm giàu có,
bồi đắp thêm cho văn hóa của mình. Đó là những dân tộc có nội lực, có
hệ giá trị riêng với tư cách là sức đề kháng bền vững trong quá trình
hội nhập, giao lưu. Hệ giá trị, sức đề kháng đó chính là bản sắc văn hóa
riêng có của từng dân tộc, từng vùng miền. Như vậy, muốn tránh bị đồng
hóa trong quá trình giao lưu thì nhất định phải xây dựng, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa vùng miền
Nguồn: Tạp chí VHNT số 327, tháng 9-2011