Bài viết đề cập đến một số nét đặc sắc của tư duy quân sự Việt
Nam thời phong kiến. Tư duy quân sự với tư cách là hình thức của tư duy nói
chung và nét đặc sắc của nó được tác giả khái quát thành bốn phương diện, đó
là: tư duy quân sự - quốc phòng; tư duy nông binh bất phân; tư duy quân dân
bất biệt; tư duy tác chiến bất cương. Trên cơ sở đó, tác giả tiến hành khảo
sát tư duy quân sự Việt Nam qua các thời đại phong kiến.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đôi với giữ
nước. Ngay từ thời phong kiến, dân tộc ta do tính đặc thù về điều kiện sinh
tồn đã tự hình thành cho mình một cách thức tư duy quân sự độc đáo.
Nhờ đó, lịch sử dân tộc Việt Nam tuy có lúc thăng trầm, nhưng về cơ bản, chưa
bao giờ lu mờ tinh thần tự lực và tự cường, bất khuất và dũng cảm, dám đấu
tranh và biết đấu tranh.
Nghiên cứu lịch sử giữ
nước của Việt Nam một cách thực sự khoa học thì cần phải có phương pháp luận
đúng đắn trong tiếp cận khoa học về tư duy quân sự. Theo chúng tôi, đó
là các nguyên tắc sau: nguyên tắc hệ thống – chỉnh thể, nguyên
tắc kết hợp phổ biến - đặc thù - đơn nhất, nguyên tắc kết hợp lôgíc và lịch
sử, đảm bảo mối liên hệ biện chứng giữa đồng đại và lịch đại. Nguyên tắc hệ thống - chỉnh thể
nghĩa là phải luận giải sự hình thành, phát triển tư duy quân sự theo trình
tự lôgíc nhất định để nhận thức thực chất các giá trị trong các nhân tố cấu
thành của nó. Nguyên tắc kết hợp phổ biến
- đặc thù - đơn nhất giúp cho việc nghiên cứu tính đặc sắc tư duy quân sự
Việt Nam thời phong kiến phản ánh được sự thống nhất với tính phổ biến của tư
duy và tính đặc thù của tư duy quân sự Việt Nam nói chung. Nguyên tắc kết hợp lôgíc và lịch sử nghĩa là
cần phải bám sát các tư liệu lịch sử từng thời kỳ để đúc rút những nét đặc
sắc của tư duy quân sự Việt Nam xuyên suốt thời đại phong kiến. Và cuối cùng,
việc đảm bảo mối liên hệ biện chứng giữa đồng đại và lịch đại sẽ khiến
cho việc tiếp cận tư duy quân sự Việt Nam thời phong kiến vừa thể hiện theo
từng lát cắt lịch sử, vừa mang tính hệ thống xét theo dòng chảy lịch sử dân
tộc, làm rõ tính kế thừa, liên tục phát triển theo tiến trình lịch sử của sự
khái quát.(*)
Cùng
với việc tuân thủ những nguyên tắc phương pháp luận trên, cần bảo đảm sự
nhất quán trong quan niệm khoa học về tư duy quân sự, tránh sự nhầm lẫn giữa tư duy quân sự với tư duy nói chung xuất
hiện trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động quân sự. Từ
những tiền đề trên, có thể quan niệm tư duy quân sự Việt Nam thời phong
kiến là hệ thao tác nhận thức bậc cao của các chủ thể quân sự nhằm phản ánh ở
tầng lý luận khoa học đối với toàn bộ thực tiễn quân sự trong lịch sử dựng
nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam ở thời đại phong kiến, mang
những nét đặc sắc cả về mục đích lẫn phương thức tổ chức hoạt động quân sự,
nghệ thuật tác chiến của lực lượng vũ trang, được kết tinh thành tổng thể tư
tưởng nghệ thuật quân sự và được hiện thực hoá trong thực tiễn xây dựng, bảo
vệ đất nước.
Bối
cảnh lịch sử của đất nước qua các thời kỳ lịch sử lớn luôn là điểm tựa
thực tiễn quan trọng để làm nảy sinh, hình thành và phát triển tư
duy quân sự Việt Nam thời phong kiến. Nền tảng kinh tế - xã hội nước ta trong
lịch sử phong kiến là sự gắn bó lợi ích của giai cấp quý tộc phong kiến với
vận mệnh của quốc gia dân tộc và nhu cầu độc lập dân tộc, nhất là ở những thời kỳ đang lên của chế độ phong kiến.
Tinh thần độc lập tự chủ là nhân tố xuyên suốt thời kỳ này, là nền tảng tinh
thần cơ bản để hình thành, phát triển tư duy, tư tưởng quân sự về giành và giữ
nền độc lập dân tộc. Cuộc đấu tranh chống đồng hoá chiếm vị trí quan trọng
hàng đầu trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập tự chủ của dân tộc ta. Bối cảnh thực tiễn ấy đã được tích hợp trong những điểm
tựa lý luận cơ bản cho sự hình thành, phát triển những nét đặc sắc của tư
duy quân sự Việt Nam thời phong kiến, đó là tư duy quân sự - quốc phòng, tư
duy nông binh bất phân, tư duy quân dân
bất biệt, tư duy tác chiến bất cương.
Tư duy quân sự - quốc phòng phản ánh mục đích hoạt động quân sự của dân tộc ta, về cơ bản,
là hoạt động quân sự giữ nước. Các cuộc chiến tranh mà dân tộc Việt Nam tiến
hành trong lịch sử chủ yếu là chiến tranh bảo vệ hoặc chiến tranh giải phóng
đất nước. Mục đích ấy của hoạt động quân sự đã chi phối cách nghĩ và cách làm
của dân tộc Việt Nam, từ xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng vũ trang đến
chuẩn bị cách đánh. Thế trận của ta là thế trận giữ nước, không phải thế trận
đi xâm lược. Lực lượng vũ trang ta là lực lượng vũ trang toàn dân và bằng mọi
hình thức, chứ không phải là những đạo quân chuyên nghiệp thông thạo chuyện
chinh phạt. Cách đánh của dân tộc ta chủ yếu và trước hết là đánh phòng, đánh
cốt đuổi chứ không cốt diệt, đánh lấy khéo chứ không lấy mạnh.
Tư duy nông binh bất phân phản ánh điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất
không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản
xuất, vừa đánh giặc. Việc dựa vào
dân để chăm lo việc binh không phải là chính sách nhất thời, mà được phương
lược hoá thành chính sách “ngụ binh ư nông” - chế độ binh dịch với tất cả đinh tráng
và chế độ quân lính chia phiên vừa canh phòng, luyện tập, vừa sản xuất, tạo thế trận rộng khắp và thuận lợi
trong điều động lực lượng, ở đâu có dân là ở đó có những trai tráng từng được
luyện tập quân sự, có tên trong sổ, thời bình ở nhà sản xuất, khi có chính
biến được huy động vào quân đội.
Tư duy quân dân bất biệt là một điểm tựa lý luận
quan trọng và mang nét rất đặc sắc Việt Nam. Theo tư duy quân sự này, không có sự tách biệt vai trò
của quân binh triều đình với dân binh, mà chỉ có sự phân công tác chiến cho phù hợp. Quân
triều đình là lực lượng tác chiến chiến
lược. Quân các phủ, lộ và của các vương hầu chiến đấu trong đội hình chung
hoặc đảm nhiệm những hướng và phương án tác chiến sở trường. Dân binh là lực
lượng chiến đấu tại chỗ. Tất cả các lực lượng vũ trang đó đều chiến đấu với
hiệu quả cao nhất khi được dân hết lòng chở che, nuôi dưỡng.
Tư duy tác chiến bất cương cũng là nét quân sự đặc
sắc không giống với những nguyên tắc binh pháp “chính quy”. Do yêu cầu gắt
gao của việc sử dụng bạo lực vũ trang mà lĩnh vực quân sự phải đặt ra hệ
thống những quy phạm hết sức nghiêm khắc, nhất là đối với tác chiến. Song,
chính điều đó lại dẫn đến cách tư duy tác chiến và những nguyên tắc tác chiến
cứng nhắc. Tuy nhiên, đối với các triều đại phong kiến nước ta, do chiến
tranh toàn dân là hình thái cơ bản nên các hình thức tác chiến được tuỳ cơ mà
vận dụng, thậm chí hỗn hợp, liên kết với nhau cũng như với các hình thức phi
vũ trang (chính trị, binh vận, ngoại giao,…) nên từ rất sớm, trong dân tộc ta
đã hình thành tư duy tác chiến khối. Các nguyên tắc tác chiến vừa theo
đúng binh pháp, vừa uyển chuyển, không cứng nhắc.
Những nét đặc sắc trong sự hình
thành, phát triển tư duy quân sự Việt Nam thời phong kiến được biểu hiện
sinh động qua các thời kỳ lịch sử.
Nói đến tư duy quân sự thời phong
kiến ở Việt Nam không thể không nói đến Ngô Quyền, người tiêu biểu cho sự phát
triển mang tính đột phá về tư duy quân sự. Vừa là vua, vừa là danh tướng
có tư duy quân sự siêu việt, Ngô Quyền đã kịp thời diệt thù trong để rảnh tay
đánh giặc ngoài; biết lợi dụng địa hình, thời tiết bố trí trận địa mai phục;
kết hợp quân thuỷ bộ, quân chủ lực và quân địa phương trong chiến đấu tiêu
diệt địch. Tư duy quân sự của ông thể hiện nổi bật ở chủ trương đập tan
lực lượng chủ lực địch, đè bẹp ý chí xâm lược của nhà Nam Hán bằng đòn quân
sự quyết định. Với quyết tâm chiến lược đó, ông chủ động chọn cửa sông
Bạch Đằng làm trận địa quyết chiến chiến lược (bằng các bãi cọc bố trí sẵn),
đẩy địch vào thế hoàn toàn bất ngờ, bị động và tan rã.
Tư duy quân sự Việt Nam tiếp tục có
những bước phát triển mạnh mẽ, mang tính đột phá và cách mạng qua các triều
đại phong kiến tự chủ sau này.
Thời nhà Lý, tư duy quân sự
đã được chuyển hẳn sang hình thái tư duy quân sự của một quốc gia độc lập
có chủ quyền. Những nét quân sự truyền thống cơ bản được hình thành, như
ngụ binh ư nông trong dựng binh, tiên phát chế nhân bảo vệ từ xa trong dụng
binh, xây dựng hệ thống phòng tuyến vững chắc trong tạo lập thế trận,… Sự
đóng góp của tư duy quân sự còn thể hiện trong nhiều lĩnh vực, như biết tổ
chức công tác tình báo, sử dụng các đòn chiến tranh tâm lý, thiết lập phòng
tuyến cản địch nơi hiểm yếu, phòng thủ nhiều tầng… Các nguyên tắc cơ bản về
xây dựng quân đội cũng đã được định hình. Thời Lý cũng là thời kỳ xuất hiện
những bước cách tân lớn về tư duy quân sự - quốc phòng gắn liền với cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống.
Khi triều đình nhà Tống gấp rút chuẩn
bị tích trữ lương thảo, biến Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu thành những căn
cứ quân sự - hậu cần làm bàn đạp tiến công Đại Việt, thì nhà Lý, với tư duy
quân sự - chính trị tổng hợp, đã chủ trương thực hiện rất táo bạo chiến
lược "tiên phát chế nhân" đánh sang đất Tống nhằm tiêu diệt các
căn cứ xuất phát tiến công xâm lược của kẻ thù, rồi mới rút về phòng thủ đất
nước. Khi thời cơ đến, triều đình kiên quyết chuyển từ phòng ngự sang phản
công, thực hành trận quyết chiến chiến lược đánh thẳng vào trại giặc,
khiến chúng không kịp chống đỡ. Sau chiến thắng, triều đình lo ngay đến việc sửa
định binh chế, đổi mới bộ máy chỉ huy quân đội, tổ chức các đơn vị trong Cấm
quân, cải tiến phương pháp luyện rèn quân sĩ.
Tiếp nối nhà Lý, tư duy quân sự nhà
Trần cũng có những bước đột phá quan trọng. Cùng với
việc kế thừa và phát triển mạnh mẽ các chính sách ưu việt thời Lý, các nhà lý
luận quân sự thời Trần đã đặc biệt quan tâm phát triển mạnh mẽ tư duy mới
về quân sự - quốc phòng. Đó là, nhà Trần đã huy động và tổ chức toàn dân
đánh giặc, xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân, xây dựng căn cứ địa
chiến lược và hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến. Và để thực thi
những vấn đề đó, chữ dân luôn được nhà Trần đặt lên hàng đầu trong cả
ba cuộc kháng chiến. Đây là bước đánh dấu sự định hình hoàn toàn về tư duy
quân sự chiến lược mang tính hệ thống, chỉnh thể của chiến tranh nhân dân
bảo vệ đất nước trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến.
Đặc biệt, sự phát triển tư duy quân
sự dưới thời Trần còn được biểu hiện ở sự hình thành, phát triển chủ
trương tạm lui quân trước thế giặc mạnh để bảo toàn lực lượng, kết hợp với kế
thanh dã và chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực giặc, chuyển hoá dần so
sánh lực lượng có lợi để tiến tới tổng phản công. Trước một đối thủ rất
mạnh là đế quốc Nguyên - Mông gồm những kỵ binh dạn dày chinh chiến, nhà Trần
không thể áp dụng chiến lược “tiên phát chế nhân” theo kiểu đánh trước sang
đất địch như nhà Lý, cũng không thể thực hiện phương châm bảo vệ từ xa bằng
một hệ thống chiến luỹ phòng thủ như phòng tuyến sông Cầu, mà buộc phải có
tính toán chiến lược mới dựa trên sự đổi mới tư duy quân sự. Đó chính
là cơ sở thực tiễn hình thành nghệ thuật chỉ đạo rút lui chiến lược bảo
toàn lực lượng, xoay chuyển tình thế để phản kích của quân đội nhà Trần.
Sở dĩ có thể coi đây là một bước phát triển mang tính cách mạng trong tư duy
quân sự Việt Nam vì, với các nhà nước phong kiến đương thời, mất kinh đô gần
như đồng nghĩa với mất nước; song với người Việt, kinh đô tạm mất vào tay
giặc nhưng cuộc kháng chiến mới chỉ bắt đầu.
Chủ trương tạm rút khỏi kinh thành để
bảo toàn lực lượng gắn liền với chủ trương đánh du kích nhỏ lẻ rộng khắp
tiêu hao sinh lực địch và đặc biệt, gắn với kế thanh dã - tổ chức cho dân
chúng làm “vườn không nhà trống”, cũng như kế sách tạo một mặt trận
liên thông để cả nước cùng đánh giặc. Những đội kỵ binh Mông Cổ bách
chiến bách thắng khi sang đến chiến trường Đại Việt tuy chiếm thành Thăng
Long không mấy khó khăn, nhưng lập tức rơi vào một cuộc chiến tranh hoàn toàn
khác lạ, lâm vào tình thế đánh chẳng được đánh, yên chẳng được yên, muốn cướp
bóc lương ăn cũng không có, nên mau chóng mất hết nhuệ khí và sức lực. Kết
cục thảm bại đến với chúng là tất yếu.
Tư duy quân sự Việt Nam thời kỳ
khởi nghĩa Lam Sơn chống ách đô hộ của nhà
Minh có bước phát triển nhảy vọt, trước hết thể hiện ở những giá trị văn hoá quân sự cơ bản trong các chủ
trương chiến lược, như chiến tranh chính nghĩa, lấy dân làm gốc, tướng sĩ
đồng lòng, tập trung lực lượng vào địa bàn cốt tử, cách đánh đa dạng.
Với tư duy quân sự tổng hợp,
trọng tâm là tư duy chiến lược về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và
trường kỳ, Bộ chỉ huy Lam Sơn chủ trương phát động và lãnh đạo toàn thể
dân chúng vùng dậy lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập và chủ
quyền cho đất nước. Để huy động sức dân, nghĩa quân chủ trương kết hợp chặt
chẽ giữa nhiệm vụ cứu nước với nhiệm vụ cứu dân; lực lượng khởi nghĩa được
xây dựng dựa vào đông đảo các tầng lớp nhân dân, đồng thời chiêu tập dân
chúng cùng nổi dậy đánh giặc cứu nước. Đây
chính là sự manh nha của tư duy quân sự kết hợp giữa tiến công bằng lực
lượng vũ trang chủ lực với nổi dậy của nhân dân. Trong điều kiện cuộc
khởi nghĩa phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô toàn quốc,
sự kết hợp của các cuộc nổi dậy của dân chúng các địa phương với đòn tiến
công của nghĩa quân đã được phát triển rộng khắp và ngày càng trở thành một
vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong phát triển tư duy quân sự thời kỳ này.
Đó còn là tư duy quân sự về xây
dựng căn cứ địa kháng chiến, đánh vào nơi hiểm yếu, chuẩn bị cho trận quyết
chiến chiến lược. Trong chuẩn bị phát động khởi nghĩa, việc chọn vùng
rừng núi phía Tây Thanh Hoá trên thượng lưu sông Chu, sông Mã, nơi có địa
hình hiểm trở, địa thế hiểm yếu, lại có nhân lực, vật lực bổ sung, cung cấp
cho nghĩa quân, làm địa bàn tác chiến và cơ động lực lượng để tiến hành cuộc
chiến tranh du kích lâu dài đã thể hiện một tư duy quân sự sáng suốt. Khi xây
dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã sớm thấy được tầm
quan trọng của vấn đề cung cấp lương thực cho nghĩa quân, nên rất coi trọng
cả hai mặt tổ chức đội ngũ và chăm lo ruộng đồng. Đặc biệt, Lê Lợi cho rằng,
cần phải xây dựng một đội quân trên dưới như cha con một nhà và trước hết,
phải là đội quân nhân nghĩa. Nhờ đó, từ chỗ sử dụng lực lượng nhỏ nhưng tinh
nhuệ luồn sâu, đánh mạnh vào vùng chiếm đóng của địch, nghĩa quân đã tiến tới
sử dụng chủ lực đánh thẳng ra Đông Quan, triển khai thế trận tiến công và vây
hãm tất cả các thành trì giặc, rồi chuyển lên “vây thành diệt viện”.
Đó còn là tư duy quân sự về kết
hợp đấu tranh vũ trang với ngoại giao chiến lược. Vào giai đoạn giành
thắng lợi quyết định của cuộc chiến tranh chống quân Minh, Bộ chỉ huy Lam Sơn
nhận thấy rằng, muốn đánh thắng hoàn toàn quân địch thì phải kết hợp tiến
công trên nhiều mặt trận khác nhau, như quân sự, chính trị, binh vận và đặc
biệt là ngoại giao. Quân trung từ mệnh tập là tác phẩm gồm những
văn kiện quan trọng thể hiện hoạt động vừa phong phú, vừa sáng tạo đó của
nghĩa quân Lam Sơn. Trên cơ sở giành được thắng lợi về quân sự, Bộ chỉ huy
nghĩa quân chủ trương đàm phán để kết thúc chiến tranh, mở lối thoát cho
địch qua các thư dụ hàng quân Minh do Nguyễn Trãi viết và Hội thề Đông
Quan. Hàng loạt bức thư gọi hàng đanh thép, đầy sức thuyết phục có tác dụng
như cuộc chiến đấu của nghìn vạn quân, buộc địch phải mở các thành, lần lượt
ra hàng. Quân giặc hùng mạnh cuối cùng đã bị tiêu diệt cả về lực lượng, tinh
thần và ý chí, phải xin thề rút quân về nước.
Điểm nổi bật của tư duy quân sự thời
Tây Sơn là sự chuyển hoá từ tư duy chiến lược về đường lối khởi nghĩa
vũ trang của nông dân chống áp bức đến tư duy chiến lược về thực hiện chiến
tranh toàn dân giải phóng chống xâm lược trong khuôn khổ ý thức hệ phong
kiến. Từ khẩu hiệu đấu tranh ban đầu là “lấy của cải bọn quan lại và nhà
giàu phân phát cho dân nghèo”, “tưới mưa dầm khi hạn, kéo cùng dân xa chốn
lầm than”, đến cuối năm 1784, nghĩa quân Tây Sơn chủ trương kết hợp đánh
cả thù trong lẫn giặc ngoài. Điều đó cho thấy, phong trào Tây Sơn đã biết
kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ cứu nước với nhiệm vụ cứu dân, dũng cảm đánh
giặc ngoại xâm Xiêm, Thanh. Bởi vậy, phong trào này đã lôi cuốn được đông đảo
dân chúng tham gia.
Tư duy về phương thức chỉ huy tác
chiến của quân Tây Sơn được thể hiện điển hình trong cuộc kháng chiến chống quân
Thanh. Ngay sau cuộc rút lui chiến lược của lực lượng Tây Sơn đang trấn giữ
Thăng Long và Bắc Hà về Tam Điệp - Biện Sơn, tạo nên sự chuyển hoá thế chiến lược theo
chiều hướng địch từ chỗ có lợi sang bất lợi, ta từ chỗ bất lợi sang có lợi,
Bộ chỉ huy Tây Sơn ở Phú Xuân đã gấp rút tiến quân ra Bắc Hà, mở cuộc phản
công chiến lược, tổ chức binh lực thành năm đạo quân thuỷ bộ để tiêu diệt
quân Thanh.
Tư duy về nghệ thuật tác chiến phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Cùng với việc
chọn Thăng Long, nơi tập trung tuyệt đại bộ phận quân Thanh xâm lược, làm mục
tiêu chủ yếu của cuộc phản công chiến lược ra Bắc Hà, nghĩa quân cũng
chọn trục đường thiên lý phía Nam Thăng Long, nơi địch bố trí hệ thống phòng
thủ chủ yếu trong thế lâm thời phòng ngự, làm hướng tiến công chủ yếu,
đồng thời khéo kết hợp các hướng khác tạo nên thế trận tác chiến khối
hiểm hóc và thế đánh mãnh liệt về cả chiến lược và chiến dịch. Nhờ đó,
nghĩa quân Tây Sơn chỉ với lực lượng mười mấy vạn người đã nhanh chóng đại
phá hai mươi chín vạn giặc Thanh xâm lược cùng hàng vạn quân của Lê Chiêu
Thống.
Sự phát triển tư duy về nghệ thuật
quân sự còn được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, như nghệ thuật xây dựng
và động viên lực lượng vũ trang tại chỗ, nghệ thuật sử dụng tập trung lực
lượng vào thời điểm quyết định, nghệ thuật giải quyết hài hoà giữa thời, thế
và lực, nghệ thuật tiến công thần tốc, táo bạo, quyết thắng, nghệ thuật khai
thác điểm yếu, sơ hở, chủ quan của địch… Trong cuộc kháng chiến chống Xiêm,
sức mạnh đó đã thể hiện ở việc áp dụng phương thức tác chiến vận động tiến
công tiêu diệt thủy binh và bộ binh địch.
|
Tựu trung, những nét đặc sắc của tư duy quân sự Việt
Nam thời phong kiến có thể khái quát thành năm giá trị cơ bản sau:
Một là, tư duy quân sự Việt Nam thời phong kiến luôn gắn với việc thấu suốt tư
tưởng cốt lõi "dĩ dân vi bản" và phát huy tính chất chính nghĩa, nhân
đạo, nhân văn của chiến tranh toàn dân. Do kẻ xâm lược luôn là những đạo quân lớn mạnh, nên
người Việt chỉ có thể dựa vào sức mạnh toàn dân để đánh giặc. Đến các đời Lý,
Trần, Lê, người Việt mới xây dựng quân đội chuyên biệt, song yếu tố toàn dân
đánh giặc vẫn là trực tiếp, ở cả ba cấp độ: dân nuôi quân, dân làm hậu thuẫn
cho quân và dân trực tiếp làm quân. Để dựa được vào dân, các triều đại
phong kiến tiến bộ coi trọng giáo dục và động viên dân chúng hăng hái chiến
đấu. Đặc biệt, tư duy "dĩ dân" đã có sự gắn kết nhất định với tư duy
"vị dân" và được hiện thực hoá thành một số chính sách khá nhất quán,
như chủ trương "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" của nhà
Trần; tư tưởng "việc nhân nghĩa cốt ở an dân" của nghĩa quân Lam Sơn;
v.v..
Gắn sự phát triển tư duy quân sự với nền tảng nhân dân vừa là kinh nghiệm lớn của các triều
đại phong kiến, vừa là bài học quý báu cho thời hiện đại. Thực tiễn hai cuộc
kháng chiến chống thực dân, đế quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng cho thấy, do dựa chắc vào dân và phát huy tính chất
chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn của chiến tranh nhân dân nên dân tộc ta đã lần
lượt đánh bại những tên thực dân, đế quốc đầu sỏ. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay, dù là chiến tranh chống xâm lược công nghệ cao,
vẫn là chiến tranh nhân dân. Tư duy quân sự Việt Nam hiện đại vẫn phải là tư
duy dựa vào dân, phát huy cao độ tính chất chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn của
chiến tranh nhân dân.
Hai là, tư duy quân sự Việt Nam thời phong kiến luôn đặt lên hàng đầu vấn đề
thường xuyên cảnh giác, nắm vững tình hình và so sánh lực lượng, xác định quyết
tâm chiến lược đúng đắn. Với vị trí địa
lý của nước ta như "chiếc chìa khoá" mở xuống phương Nam, thì một
kinh nghiệm để đời đã ăn sâu vào tư duy quân sự của người Việt là không để bị
bất ngờ chiến lược. Kẻ thù thường mạnh, nhưng bao giờ cũng có điểm yếu. Tuy
nhiên, phát huy cái mạnh của ta, khoét sâu điểm yếu của địch lại là vấn đề
thuộc bản lĩnh tư duy của bộ thống soái và các danh tài quân sự. Chẳng hạn,
trong chiến tranh chống quân Minh xâm lược, lúc đầu tư duy quân sự phù hợp là
cố gắng bảo toàn và phát triển lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích giải
phóng từng phần và mở rộng dần căn cứ địa; đến khi ta phát triển đủ mạnh và thế
giặc núng dần thì mới mở rộng cuộc chiến tranh giải phóng ra quy mô cả nước.
Một tư duy quân sự lành mạnh luôn cho phép các chủ thể quân sự tìm ra những
góc cạnh khả biến để đánh giá, so sánh lực lượng một cách không cứng nhắc, từ
đó xác định quyết tâm chiến đấu đúng đắn, không bạc nhược, nản chí nhưng cũng
không mạo hiểm, phiêu lưu. Chính vì vậy, việc đặt lên hàng đầu vấn đề thường
xuyên cảnh giác, nắm vững tình hình và so sánh lực lượng, xác định quyết tâm
chiến lược đúng đắn không chỉ có giá trị trong thời phong kiến, mà còn có những
khả năng phát triển mới để phát triển thành tư duy quân sự Việt Nam hiện đại,
đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Ba là, tư duy về nghệ
thuật quân sự phát triển mạnh mẽ theo hướng liên tục tạo thế, tranh thời và
chuyển lực, chủ động tiến công địch. Trong lịch sử dân tộc ta, các triều đại phong
kiến độc lập đã vận dụng sáng tạo những vấn đề về liên tục tạo thế, tranh thời
và chuyển lực, chủ động tiến công địch, đến khi có đủ thời cơ, điều kiện thì
dốc toàn lực giải phóng đất nước. Chẳng hạn, nhà Trần nhờ phối hợp uyển
chuyển thế - thời - lực nên đã có giải toán độc đáo để khắc phục sự so sánh lực
lượng thua xa những đội kỵ binh Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến đương thời, làm
cho địch từ thế áp đảo đã bị sa vào thế trận chiến tranh toàn dân rộng khắp của
ta.
Vấn đề liên tục tạo thế, tranh thời và chuyển hoá lực lượng, chủ động tiến
công địch cho đến nay vẫn là bài học sống động về phát triển tư duy quân sự.
Trong tác chiến hiện đại, mặc dù các điều kiện tác chiến đã có những khác biệt
căn bản, nhưng mối quan hệ thời - thế - lực vẫn đòi hỏi các chủ thể quân sự
phải xử lý rất biện chứng và nhuần nhuyễn. Điều đó đòi hỏi họ phải có một tư
duy quân sự hết sức năng động, nhạy bén với cái thời mới, thế mới và lực mới,
đồng thời biết kế thừa kinh nghiệm truyền thống để xử lý thời - thế - lực ấy
một cách phù hợp với tố chất và điều kiện hoạt động của con người quân sự Việt
Nam.
Bốn là, tư duy về cách đánh luôn thể hiện tinh thần không ngừng sáng tạo của dân
tộc ta, kể cả trong việc vận dụng cách đánh truyền thống. Nghệ thuật quân sự của dân tộc được
hun đúc qua các thời đại và cách thức tác chiến thường được phát triển, sáng
tạo, phong phú, đặc sắc. Trước hết, ta dùng phương cách phù hợp với điều
kiện cụ thể, cũng như vận dụng sức mạnh tổng hợp buộc địch phải đánh theo cách
đánh của ta. Thứ hai, trước thế giặc mạnh, ta không ỷ lại thành cao hào
sâu để cố giữ trận tuyến, mà thiên về "rút thế nào, giành lại ra
sao". Thứ ba, lợi dụng địa hình, triển khai nhiều mũi tiến công từ
nhiều hướng, kết hợp nội công, ngoại kích. Thứ tư, khi đã đủ tiền đề, ta
mở trận quyết chiến chiến lược với tinh thần quyết thắng.
Tư duy quân sự trong các cách đánh đa dạng mà đặc
sắc ấy cần được vận dụng sáng tạo trong huấn luyện chiến đấu đối với các lực
lượng vũ trang nhân dân hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện rất có thể phải đối
đầu với cuộc chiến tranh công nghệ cao, chúng ta cần có tổ chức quân sự hiện
đại, có vũ khí và trang bị quân sự hiện đại, phương thức tác chiến mới, cách
đánh mới, nhưng nếu như không kết nối được với các cách đánh truyền thống nói
trên thì vẫn khó có thể phát huy cao nhất những tố chất của cán bộ, chiến sĩ,
nhất là tư duy quân sự thông minh, sáng tạo với những nét đặc sắc để tạo ra sự
khác biệt.
Năm là, tư duy quân sự gắn kết chặt chẽ với tư duy chính trị nhằm phát huy nhân
tố chính trị - tinh thần để nhân bội sức mạnh tổng hợp của quân và dân. Các cuộc chiến tranh của ta đều là
chính nghĩa, vì sự sống còn của nền độc lập, sự trường tồn và bền vững của đất
nước. Từ rất sớm, dân ta đã có ý thức tự đảm đương sự nghiệp giữ làng, giữ
nước, vì quyền sống của giống nòi, của gia đình và bản thân, nên tinh thần sẵn
sàng hy sinh chiến đấu đã thấm sâu vào mọi cộng đồng dân cư từ kinh kỳ đến làng
xã. Nhận thức được giá trị đó, các nhà lãnh đạo đã biết khai thác nó làm vũ khí
và sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Lý Thường Kiệt khi tiến sang đất Tống đã
cho phân phát "Phạt Tống lộ bố văn" nói rõ mục đích chiến đấu, nên
được dân vùng Hoa Nam ủng hộ; trước phòng tuyến sông Cầu, ông đã biết khơi động
tinh thần quân sĩ bằng bài thơ Thần. Trần Quốc Tuấn luôn quan tâm
giáo dục truyền thống, cổ vũ tinh thần quân và dân qua Hịch tướng sĩ; Nguyễn
Trãi chủ trương "mưu phạt tâm công", thảo thư dụ hàng tướng giặc.
Trong đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ coi trọng cổ vũ tinh thần yêu nước
của quân và dân: "Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".
Lịch sử cũng cho thấy, nếu nhà lãnh đạo nào không phát huy được tư duy quân
sự - chính trị ấy thì luôn thất bại.
Do có tư duy quân sự năng động nên về cơ bản, dân ta luôn thấm đượm tinh
thần thượng võ, khi thái bình thì chăm lo luyện binh, rèn tướng, khi có chiến
tranh thì anh dũng chiến đấu. Có thể nói, với người Việt, tư duy quân sự không
mang ý nghĩa thuần tuý, mà luôn gắn chặt với việc trả lời câu hỏi: đánh vì ai,
đánh để làm gì, đánh nhằm mục đích gì… Giá trị đặc sắc này cần phải được phát
huy mạnh mẽ trong điều kiện hiện nay, nhất là đối với sự nghiệp giáo dục quốc
phòng, làm cho ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thấm sâu vào mỗi cán bộ,
chiến sĩ quân đội và mỗi người dân. Đặc biệt, trong xây dựng lực lượng vũ
trang, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng vững vàng về chính trị phải
luôn là vấn đề then chốt./.
(*) Đại tá,
Trưởng khoa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Kỹ thuật quân sự.