Võ Minh Tập[*]
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước châu Á
có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên và đời sống văn hóa - xã hội nên từ
nhiều thế kỷ qua, đã có các mối quan hệ giao lưu, phát triển trên nhiều lĩnh
vực. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao giữa hai
nước Việt Nam- Nhật Bản (21-9-1973 - 21-9-2010), bài viết sẽ phân tích khái
quát tiến trình phát triển của mối quan hệ hợp tác về chính trị, kinh tế, văn
hóa giữa hai nước, nhất là từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đến nay.
Quan
hệ chính trị
Từ
năm 1993 đến nay, đã có nhiều cuộc thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp
cao hai nước. Về phía Nhật Bản, Thủ tướng Nhật Bản và phái đoàn chính phủ chính
thức sang thăm Việt Nam 5 lần. Đó là các chuyến thăm của Thủ tướng
T.Mu-ra-y-a-ma (tháng 8-1994), Thủ tướng R.Ha-si-mô-tô (tháng 1-1997), Thủ
tướng K.O-bu-chi (tháng 12-1998), Thủ tướng J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và Thủ
tướng S.A-bê (tháng 11-2006). Hoàng tử Nhật Bản K. A-ki-si-no cũng đã thăm Việt
Nam (tháng 6-1999). Kể từ chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tháng
3-1993), hằng năm liên tục có các chuyến thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo
cấp cao của hai nước.
Về
phía Việt Nam, đó là chuyến thăm của các đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng
4-1995); Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-1999; tháng 6-2001, tháng 4-2003,
tháng 12-2003, tháng 6-2004 và tháng 7-2005); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An
(tháng 5-2002); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (tháng 10-2002).v.v..
Sau
các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và
chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh
(tháng 10-2002), quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên một nấc thang mới với
tinh thần: "Cùng hành động, cùng
tiến bước, thúc đẩy quan hệ ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau".
Năm 2004, hai nước ký Tuyên bố chung vươn tới tầm cao mới của quan hệ đối tác
bền vững. Tháng 10-2006, sau chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Tấn Dũng. Hai bên cũng quyết định tiến hành cuộc Đối thoại Đối tác Chiến lược
Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất vào tháng 12 năm 2010 nhằm thảo luận một cách
toàn diện về các vấn đề chính trị, ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Đối thoại
trên đã đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực.
Chuyến
thăm của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 11-2007 là chuyến thăm Nhật Bản
lần đầu tiên của Nguyên thủ Nhà nước Việt Nam kể từ khi hai nước thiết lập quan
hệ ngoại giao năm 1973. Sự kiện quan trọng và có ý nghĩa to lớn này đã tạo động
lực mới, bước phát triển mới, củng cố sự tin cậy và mở rộng quan hệ giữa hai
nước. Với quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện
giữa hai nước, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và tân Thủ tướng Nhật Bản Y.
Phư-cư-đa đã ký Tuyên bố chung
và thông qua "Chương trình hợp tác
hướng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Nhật Bản".
Trong
những năm qua, Việt Nam và Nhật Bản đã tạo dựng và liên tục phát triển cơ chế
đối thoại ở nhiều cấp trong các hoạt động ngoại giao chính trị, kinh tế và các
lĩnh vực khác. Đồng thời, các hoạt động giao lưu hợp tác giữa các ngành, địa
phương và các tổ chức kinh tế - xã hội cũng không ngừng được mở rộng. Nhờ đó,
các mối quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ
thuật... giữa hai nước ngày càng phát triển mạnh hơn.
Đến
nay, Nhật Bản luôn là nước tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới của Việt Nam, hỗ
trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới; vận động Tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) giúp Việt Nam về kỹ thuật, các ngân hàng, các quỹ tài
chính quốc tế, khu vực tài trợ cho công cuộc tái thiết đất nước Việt Nam sau
chiến tranh. Nhật Bản luôn coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện và tin cậy vào
đối tác Việt Nam, mong muốn Việt Nam ủng hộ Nhật Bản trở thành ủy viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc...
Quan
hệ kinh tế
Tháng
11-1992, Chính phủ Nhật Bản là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại viện
trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Cũng kể từ thời điểm này, Nhật
Bản luôn là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong hầu hết các
lĩnh vực thương mại, du lịch, đầu tư, viện trợ phát triển...
Hợp
tác thương mại
Trong
gần hai thập niên qua, Nhật Bản luôn là bạn hàng và là thị trường lớn nhất của
Việt Nam. Những năm gần đây, do tương quan cạnh tranh giữa các đối tác thay đổi
nên Nhật Bản đứng ở vị trí thứ 2 hoặc thứ 3, sau Trung Quốc từ năm 2005 và sau
cả Mỹ từ năm 2006.
Trong
5 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hằng năm giữa hai nước luôn ở mức từ 5
tỉ đến 9 tỉ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 14% - 16% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam với tất cả các nước khác trên thế giới. Đáng lưu ý, kim ngạch xuất
khẩu của ta sang Nhật Bản luôn tăng trưởng với tốc độ cao, trung bình từ 15% -
20% và từ nhiều năm qua Việt Nam là nước xuất siêu sang Nhật Bản. Năm 2007,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 12,5 tỉ USD, tăng 26,1% so với
năm 2006. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng
6,5 tỉ USD, tăng 16,7% so với năm 2006. Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản
năm 2007, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại với hơn 500 triệu USD. Việt Nam
có khả năng xuất khẩu khá nhiều mặt hàng như dầu thô, nông sản, thủy sản, đồ
gỗ, may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ... Ngược lại, Nhật Bản cung cấp cho ta
máy móc, thiết bị điện, sản phẩm công nghệ cao, sắt thép, hóa chất...
Các
hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của cả hai nước, đặc biệt là đối với Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng
phát triển, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn chưa được khai thác triệt để.
Trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, hàng hóa Việt Nam đến nay vẫn chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ bé chưa đến 1%, trong khi đó tỷ trọng của Trung Quốc hơn
13%, Thái Lan và Ma-lai-xi-a gần 3%... Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản còn đơn điệu, chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm mới qua sơ chế
(trên 50%). Nhật Bản đã và đang dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan GSP;
tuy nhiên, hàng Việt Nam vào thị trường Nhật Bản vẫn hay gặp phải khó khăn là
hệ thống kiểm tra phi thuế quan chặt chẽ, đặc biệt là các quy định khắt khe về
tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, kiểm dịch. Trong quan hệ song phương hai nước
đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, song khó khăn lớn nhất hiện nay đối với
Việt Nam là phía Nhật Bản vẫn chưa ký kết Hiệp định Thương mại tự do. Khó khăn
này đang được cả hai bên nỗ lực giải quyết. Trong tương lai không xa, hai nước
Việt Nam - Nhật Bản sẽ chính thức ký kết một Hiệp định song phương đối tác kinh
tế toàn diện (VJEPA), và do đó sẽ hoàn tất ký kết một Hiệp định song phương
thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA). Khi đó, chắc chắn sẽ càng tạo cơ
hội và động lực cho sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai
nước. Hy vọng mục tiêu đạt 15 tỉ USD trong kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam -
Nhật Bản như các nhà hoạch định chính sách và giải pháp phát triển thương mại
của cả hai nước đã đề ra cho năm 2010 sẽ trở thành hiện thực.
Hợp
tác du lịch
Hơn
thập niên qua, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh.
Năm 1990, có khoảng 1.390 lượt khách Nhật Bản du lịch Việt Nam, nhưng đến năm
2005 con số đó đã đạt tới 338.509 lượt... Năm 2007, trong bảng Top 10 quốc gia
và vùng lãnh thổ có nhiều khách du lịch đến Việt Nam, Nhật Bản giữ ở vị trí thứ
2. Liên tục từ năm 2000 đến nay, Nhật Bản luôn nằm trong danh sách 5 thị trường
gửi khách lớn nhất nước ta và đã trở thành thị trường khách nước ngoài hàng đầu
của du lịch Việt Nam về hiệu quả kinh tế, chỉ đứng sau Trung Quốc về lượng
khách.
Tuy
nhiên, theo thông báo mới đây của Tổng cục Du lịch, trong 5 tháng đầu năm nay,
có khoảng 169.640 lượt du khách Nhật Bản đến Việt Nam, giảm 4,9% so với cùng kỳ
năm trước. Đây là động thái trái ngược với 4 năm trước đó khi lượng du khách
Nhật Bản tăng đều đặn với tốc độ 27,5% trong năm 2004, 20% trong năm 2005,
13,4% trong năm 2006 và 9% trong 2007.
Nguyên
nhân của tình hình trên chủ yếu do kinh tế Nhật Bản đang trong tình trạng suy
thoái chung toàn cầu nên nhiều người Nhật phải tiết kiệm chi tiêu. Mặt khác, do
phía Việt Nam còn có những khiếm khuyết trong công tác tiếp thị, quảng bá du
lịch và nhất là do chi phí cho các tour du lịch tại Việt Nam tiếp tục gia tăng,
do vậy đã không khuyến khích khách Nhật đến Việt Nam.
Tiềm
năng và triển vọng của thị trường khách Nhật Bản du lịch vào Việt Nam còn rất
lớn. Hằng năm, du khách Nhật Bản có nhu cầu du lịch nước ngoài lên tới 17 triệu
- 18 triệu người, riêng đối với khu vực ASEAN là khoảng 3,7 triệu - 4 triệu
người. Trong số đó, du khách Nhật Bản đến Việt Nam mới chỉ trên dưới 0,3 triệu
người. Điều này chứng tỏ, thị trường Nhật Bản là tiềm năng rất lớn nếu ngành du
lịch Việt Nam tập trung mọi nỗ lực để khai thác.
Một
trong những giải pháp quan trọng đang được phía ngành du lịch Việt Nam xúc tiến
đó là khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản thành lập các công ty liên doanh du
lịch giữa hai nước. Ngoài ra du lịch Việt Nam còn phối hợp với ngành thông tin
- văn hóa và với nhiều cơ quan hữu quan khác của Việt Nam... để tăng cường
nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Hy
vọng, mục tiêu đón 500.000 lượt du khách Nhật Bản/năm vào năm 2008 - 2009 và
đón 1 triệu lượt khách Nhật Bản vào năm 2010 có thể trở thành hiện thực.
Hợp
tác đầu tư (FDI)
Đầu
tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) đã vào Việt Nam kể từ năm 1993, khi các tổ chức
quốc tế nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam (với nguồn cung cấp ODA lớn nhất
là từ Nhật Bản). Tính đến cuối tháng 5-2002, Nhật Bản là nước đứng thứ 3 trong
số các nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 386 dự án
được cấp phép, vốn đăng ký đạt 4,3 tỉ USD. Tuy đứng thứ 3 (sau Đài Loan và
Xin-ga-po) về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam, nhưng Nhật Bản lại đứng đầu về
vốn thực hiện (đạt 3,04 tỉ USD). Do đó, xét thực chất đầu tư, ngay từ năm 2002,
Nhật Bản đã ở vị trí số 1 tại Việt Nam và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và của cả hai nước.
Nguyên
nhân cơ bản khiến nhiều nhà đầu tư Nhật Bản chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư
là vì Việt Nam có thể chế chính trị - xã hội ổn định, nhịp độ tăng trưởng và
phát triển kinh tế cao, lao động dồi dào, giá rẻ, có nhiều điểm tương đồng về
văn hóa và có quan hệ hợp tác phát triển từ nhiều năm qua... Chính vì thế, sau
khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới ban hành của Việt Nam đã có hiệu lực
thực thi kể từ ngày 1-7-2006, đồng thời với việc chính phủ hai nước tiếp tục
thực hiện giai đoạn 3 của Chương trình hành động "Sáng kiến chung Việt Nam
- Nhật Bản" về cải thiện môi trường đầu tư đã khiến làn sóng đầu tư Nhật
Bản vào Việt Nam càng trở nên sôi động. Đó cũng là lý do chính khiến năm 2006
là năm đột phá, đánh dấu bước chuyển lớn về đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam
(có tới 160 dự án, với số vốn đầu tư đăng ký lên đến hơn 1,5 tỉ USD). Tổng số
dự án còn hiệu lực của Nhật Bản tại Việt Nam tính đến hết tháng 12-2007 là 928
dự án với tổng vốn đầu tư là 9,03 tỉ USD. Tuy về lượng giá trị tuyệt đối không
bằng so với tổng vốn đầu tư của Hàn Quốc, Xin-ga-po và Đài Loan đều trên 10 tỉ
USD, nhưng nếu xét về vốn đã thực hiện có hiệu quả thì tổng vốn đầu tư của Nhật
Bản lên tới gần 5 tỉ USD, vượt xa các đối tác khác.
Gần
đây, theo điều tra hằng năm của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO)
tiến hành trên 1.745 doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại châu Á, Việt Nam
được đánh giá rất cao về triển vọng đầu tư cả trung và dài hạn. Về trung hạn,
có 92,6% số doanh nghiệp sản xuất và 88% số doanh nghiệp dịch vụ dự định mở
rộng kinh doanh tại Việt Nam trong vòng 1 - 2 năm tới. Về dài hạn, trong vòng 5
- 10 năm tới, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản
xuất tốt nhất ở châu á. Phát biểu tại Hội thảo toàn cầu của Liên đoàn Hiệp hội
quản lý Nhật Bản lần thứ 9 tổ chức ở Hà Nội ngày 3-7-2008, ông Yo-si-ô
To-mi-xa-ka, Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên đoàn Hiệp hội quản lý Nhật Bản
(JMA Group) cho rằng, Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường Việt Nam đang có
tiềm năng rộng mở với chi phí lao động thấp, ổn định về chính trị... Đây là
những điều quan trọng đối với doanh nghiệp Nhật Bản. Các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ
đến Việt Nam rất nhiều trong thời gian tới.
Tuy
nhiên, hiện nay không ít nhà đầu tư nước ngoài, kể cả của Nhật Bản vẫn còn băn
khoăn là liệu môi trường đầu tư của Việt Nam có ổn định lâu dài và nhất là một
số hạn chế, bất cập lâu nay tồn đọng có nhanh chóng được tháo gỡ như: kết cấu
hạ tầng của nhiều địa phương, địa bàn đầu tư quá yếu kém, thủ tục hành chính
còn cồng kềnh, phiền hà, trong khi đó giá cả thuê đất, văn phòng, nhà xưởng,
một số dịch vụ kèm theo cần thiết khác lại quá đắt so với tương quan chung khu
vực... Những băn khoăn này đã được nhiều doanh nhân Nhật Bản trao đổi và đề
nghị tại một số cuộc hội thảo về đầu tư vào Việt Nam đã được tổ chức tại
Tô-ky-ô ngày 20-2-2006; tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (Hà Nội, 6-6-2006);
tại Hội khảo kinh tế Việt Nam - Nhật Bản và Lễ ra mắt Diễn đàn doanh nghiệp
Việt Nam - Nhật Bản (Hà Nội, 21-8-2006); tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam
giữa kỳ (Hà Nội, 2-6-2008).
Trên
thực tế, để tiếp tục tháo gỡ những trở ngại đó, hiện nay cả hai phía Việt Nam
và Nhật Bản đều đang tích cực triển khai giai đoạn 3 của Chương trình hành động
"Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản" về cải thiện môi trường đầu tư
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Hỗ
trợ phát triển chính thức của Nhật Bản
Nhật
Bản là nước đã tích cực hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần khai thông mối
quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt vào cuối năm
1992. Từ đó đến nay, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản còn gặp nhiều khó khăn, nhưng
Chính phủ Nhật Bản luôn là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 40%
tổng nguồn ODA của các nước và các tổ chức quốc tế cung cấp cho Việt Nam. Tính
đến cuối năm 2005, tổng số ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã xấp xỉ 10,5 tỉ
USD, trong đó trên 10% là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là các khoản
tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp và thời gian tài trợ dài. Tại Hội nghị nhóm
tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) những năm qua, Nhật Bản đều tiếp tục
khẳng định vị trí là nhà tài trợ đứng đầu ở Việt Nam. Vì thế, ODA của Nhật Bản
trong năm 2006 cho nước ta đã đạt mức cao, trị giá 835,6 triệu USD. Năm 2007,
ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, đạt 1,1 tỉ USD/năm
trong khi ODA của Nhật Bản dành cho quốc tế nói chung đã giảm. Năm 2008, mặc dù
trong bối cảnh khó khăn suy thoái chung của kinh tế thế giới và khu vực, trong
đó Nhật Bản còn đang gặp nhiều khó khăn, thách thức cả về chính trị, kinh tế và
xã hội, song Chính phủ Nhật Bản vẫn cam kết tiếp tục ưu tiên vốn ODA dành cho
Việt Nam là 94.353 triệu yên (khoảng 994 triệu USD). Năm 2009, ODA của Nhật Bản
dành cho Việt Nam đã đạt 155 tỷ yên, cao nhất từ trước đến nay. Khoản vốn vay
này sẽ được đầu tư cho 6 dự án lớn: Xây dựng đường tàu điện ở Thủ đô Hà Nội;
Đường vành đai 3 Hà Nội; Đường tàu cao tốc từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Dầu
Giây; Cải thiện môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh, Cải thiện môi trường
nước ở thành phố Huế; và Dự án xây dựng mạng lưới truyền tải điện.
Thông
qua các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng nhiều công trình hạ tầng
kinh tế - xã hội như: khôi phục Bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh), xây
dựng Cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp Bệnh viện Bạch Mai, xây dựng hệ thống
cấp nước ở Gia Lâm (Hà Nội) và Hải Dương, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn, và
hơn 200 trường tiểu học ở vùng bão, nâng cấp và xây dựng nhiều công trình như:
quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10, các cầu trên quốc lộ 1, Nhà máy nhiệt điện
Phả Lại 2, Phú Mỹ 1, Nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, đại lộ Đông - Tây
(Thành phố Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh), cầu Thuận Kiều (Hải Phòng),
cầu Thanh Trì (Hà Nội), đường hầm xuyên đèo Hải Vân v.v.. Đáng lưu ý, cầu Bãi
Cháy hiện đang là cầu lớn và hiện đại nhất không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Đông -
Nam Á, và là một trong 5 cầu hiện đại nhất thế giới.
Hiện
nay, Nhật đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng các dự án: Dự án Sân bay quốc tế Long
Thành, Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, đường cao tốc Nha
Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh.như đường cao tốc Bắc-Nam, Khu công nghệ cao Hòa Lạc, nghiên cứu
khả thi hai đoạn đường sắt cao tốc: Hồ Chí Minh - Nha Trang và Hà Nội – Vinh,
Dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi, hỗ trợ Dự án Sân bay quốc tế Long
Thành, Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, đường cao tốc Nha
Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh.
Về
việc phát triển nguồn nhân lực, công
tác giáo dục - đào tạo và thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa của
Việt Nam đã được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ tích cực. Hằng năm, thông qua nguồn
ODA từ nhiều quỹ tài chính khác nhau, Nhật Bản đã cung cấp một số lượng đáng kể
học bổng để đào tạo đại học và sau đại học cho các sinh viên và cán bộ khoa học
- kỹ thuật của Việt Nam. Một số lượng lớn chuyên gia và tình nguyện viên Nhật
Bản hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội,
văn hóa, giáo dục và đào tạo.
Thông
qua ODA, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam với nhiều sáng kiến hợp tác trong khuôn
khổ ASEAN, ASEM, tiểu vùng Mê Công mở rộng...
Về năng lượng, phát triển tài nguyên
thiên nhiên và biến đổi khí hậu
Từ các quan điểm an ninh năng lượng
và bảo vệ môi trường toàn cầu, hai bên công nhận tầm quan trọng của hợp tác
trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình. Hai bên sẽ
tăng cường hợp tác song phương trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và đưa quan
hệ hợp tác này lên một tầm cao mới bao gồm cả phát triển cơ sở hạ tầng cần
thiết cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình với nhận thức
về sự cần thiết bảo đảm không phổ biến hạt nhân, bảo đảm an toàn và an ninh hạt
nhân phù hợp với những qui định của các Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam
và Nhật Bản là thành viên. Hai bên hoan nghênh việc kết thúc thành công
cuộc đàm phán trên nguyên tắc về nội dung của Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản sử
dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình.
Chính
phủ Việt Nam đã quyết định chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác xây dựng 2 lò phản
ứng hạt nhân tại địa điểm nhà máy điện hạt nhân thứ 2 thuộc tỉnh Ninh Thuận,
Việt Nam, sự hợp tác của Nhật Bản trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, than,
dầu và khí tự nhiên, dự trữ dầu, điện, bảo tồn và tiết kiệm năng lượng, phát
triển năng lượng sạch và ICT. Hai bên khẳng định hai nước sẽ thúc đẩy hợp tác
để phát triển ngành công nghiệp đất hiếm ở Việt Nam, dưới hình thức phối hợp
khảo sát địa chất, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ thân thiện
với môi trường nhằm phát triển nguồn tài nguyên bền vững và chương trình nghiên
cứu và phát triển chung trên cơ sở giữa hai Chính phủ.
Sự
hợp tác hiện nay giữa hai nước trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, như hợp tác
liên quan tới rừng, xây dựng các công trình hạ tầng ứng phó với nước biển
dâng…sử dụng công nghệ tiên tiến liên quan tới bảo tồn năng lượng, phát triển
năng lượng sạch và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp và các lĩnh vực
khác là điều quan trọng chủ yếu trong việc tạo ra tính tương hợp giữa môi
trường và nền kinh tế cũng như trong việc giải quyết các vấn đề biến đổi khí
hậu đồng thời đạt được sự tăng trưởng bền vững. Hai bên nhất trí giao các Bộ
ngành liên quan của hai nước trao đổi ý kiến để thực hiện các mục tiêu trên,
bao gồm khả năng thành lập một cơ chế tín dụng bù trừ song phương.
Về
hợp tác khoa học và kỹ thuật
Hai
bên nhắc lại và hoan nghênh kết quả đạt được của cuộc họp Ủy ban Hỗn hợp Việt
Nam - Nhật Bản về Khoa học và Kỹ thuật được tổ chức tại Hà Nội ngày 19 tháng 6
năm 2009.
Phía
Việt Nam hoan nghênh các nỗ lực của Nhật Bản nhằm thúc đẩy hợp tác song phương
về vũ trụ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị
Nhật Bản xem xét khả năng thiết lập một trường Đại học chất lượng cao tại Việt
Nam, và bày tỏ tin tưởng rằng đây sẽ là nội dung hợp tác thiết thực và có ý
nghĩa đặc biệt đối với quan hệ Việt Nam - Nhật Bản về lâu dài. Phía Nhật Bản
bày tỏ ý định sẽ xem xét đề nghị trên của phía Việt Nam.
Về
hợp tác khu vực và quốc tế
Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ và
hợp tác giữa Nhật Bản và các nước khu vực sông Mê Công trong mấy năm qua đã đạt
được tiến triển đáng kể trong nhiều lĩnh vực như chính trị và kinh tế, đóng góp
thiết thực cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.
Hai
bên hoan nghênh kết quả Hội nghị Cấp cao Mê Công-Nhật Bản lần thứ hai tổ chức
vào ngày 29 tháng 10 năm 2010, ghi nhận kết quả đáng kể trong việc triển khai
“Kế hoạch Hành động 63 Mê Công-Nhật Bản” và những sáng kiến khác do các nước
khu vực sông Mê Công đề xuất. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao Sáng kiến
“Một Thập kỷ hướng tới Mê Công xanh” và “Chương trình Hành động Sáng kiến Hợp
tác Kinh tế Công nghiệp Mê Công-Nhật Bản”, bày tỏ hy vọng những sáng kiến này
sẽ được thực hiện có hiệu quả.
Hai bên chia sẻ nhận thức về tầm quan
trọng của việc thúc đẩy hợp tác giải quyết các thách thức khu vực và quốc tế.
Thủ tướng Na-ô-tô Can ca ngợi vai trò xây dựng của Việt Nam với tư cách Chủ
tịch ASEAN 2010. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao vai trò của Nhật Bản
với tư cách Chủ tịch APEC 2010 và khẳng định rằng Việt Nam sẽ hợp tác chặt chẽ
với Nhật Bản để đảm bảo thành công của Hội nghị các Nhà lãnh đạo Kinh tế APEC
lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2010.
Hai bên nhấn mạnh lại tầm quan trọng
của việc hợp tác chặt chẽ nhằm thúc đẩy hơn nữa những khuôn khổ khu vực hiện có
như ASEAN-Nhật, ASEAN+3 và Hội nghị Cấp cao Đông Á; tái khẳng định quyết tâm
thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực cùng quan tâm; khuyến khích các nỗ lực hội
nhập khu vực tại Đông Á, trong đó bao gồm các nghiên cứu về Quan hệ Đối tác
Kinh tế Toàn diện ở Đông Á (CEPEA) và sự đóng góp hiệu quả của Viện Nghiên cứu
Kinh tế ASEAN - Đông Á (ERIA).
Hai bên khẳng định quyết tâm thúc đẩy
hợp tác nhằm sớm cải tổ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó bao gồm việc mở
rộng thành viên thường trực và không thường trực, để tăng tính đại diện, tính
chính đáng, hiệu quả và khả năng đáp ứng thực tế của tổ chức này đối với cộng
đồng quốc tế trong thế kỉ 21. Phía Việt Nam khẳng định lại việc Việt Nam ủng hộ
Nhật Bản trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Hai bên khẳng định lại sự ủng hộ đối
với việc phi hạt nhân hóa hoàn toàn và có thể kiểm chứng trên Bán đảo Triều
Tiên, phù hợp với Tuyên bố chung tháng 9 năm 2005 của đàm phán 6 bên và các
Nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hai bên nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc giải quyết các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế về vấn đề
nhân đạo.
Hai bên bày tỏ sự hài lòng đối với
kết quả chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của Thủ tướng Na-ô-tô Can
và cho rằng chuyến thăm đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ hữu nghị và
hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Triển
vọng phát triển
Tuy
còn có những hạn chế, bất cập trong từng lĩnh vực hợp tác cụ thể, song nhìn lại
toàn bộ chặng đường phát triển quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 35 năm qua, sự tiến
triển này ngày càng khả quan hơn.
Hướng
tới kỷ niệm trọng thể 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, nhiều hoạt động
kỷ niệm phong phú như trao đổi đoàn các cấp, các hoạt động giao lưu kinh tế,
văn hóa, thương mại, đầu tư, du lịch giữa hai nước đã được tổ chức tại Việt Nam
và Nhật Bản. Đặc biệt mới đây, Đại nhạc hội Việt Nam - Nhật Bản với tên gọi
"Giấc mơ về một nền hòa bình" đã diễn ra thành công tốt đẹp tại Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong hai đêm 24 và 26-5-2008. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử quan hệ song phương, có một chương trình âm nhạc lớn được dàn
dựng trọng thể và rất công phu tại Việt Nam với sự tham dự của nhiều ca sĩ Nhật
Bản nổi tiếng; và cũng là lần đầu tiên nhiều ca sĩ tên tuổi của Việt Nam đã
được giới thiệu tới công chúng Nhật Bản qua các kênh truyền hình trung ương của
cả hai nước, được đông đảo công chúng hoan nghênh...
Vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay
và triển vọng cho cả hai nước là làm thế nào tiếp tục nâng cao hơn nữa tính
hiệu quả của quan hệ hợp tác phát triển toàn diện về nhiều lĩnh vực sao cho phù
hợp với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển thực tiễn của cả hai nước
trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa; vừa hợp tác vừa cạnh tranh đang diễn
ra mạnh mẽ, sôi động. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho không chỉ của các vị lãnh đạo
cấp cao, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng liên quan, mà còn của các nhà
nghiên cứu, hoạch định chính sách và giải pháp hợp tác phát triển giữa hai
nước. Thiết nghĩ, nước ta cần chủ động xây dựng một chiến lược hợp tác phát
triển toàn diện dài hạn với Nhật Bản từ nay đến năm 2020, trước hết là phối hợp
cùng với phía Nhật Bản thúc đẩy nhanh việc sớm ký kết VJEPA, và coi Nhật Bản là
một trong số không nhiều những đối tác quan trọng hàng đầu mà hiện nay chúng ta
đang có quan hệ hợp tác phát triển.