LTS. Từ đầu năm 2007 đến nay, nước Mỹ
đã bùng phát cuộc khủng hoảng tín dụng trên thị trường thế chấp nhà đất, sự
khủng hoảng của thị trường này đã nhanh chóng lan sang các khu vực tài chính
khác, đồng thời mở rộng ra phạm vi toàn thế giới. Nhằm cung cấp cho bạn đọc
tài liệu tham khảo về sự hình thành, ảnh hưởng và nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ, Tạp chí Triết học xin giới thiệu nội dung cuộc đối thoại
giữa Giáo sư Trình Ân Phú, Hội trưởng Hội Kinh tế chính trị học thế giới, Uỷ
viên Hội đồng khoa học Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Viện trưởng Viện
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác và nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ - Giáo sư
David Kotz xung quanh vấn đề kinh tế chính trị nóng bỏng này.
1. Về cuộc khủng hoảng tín dụng ở
nước Mỹ trong những năm gần đây
GS.Trình Ân Phú: Gần đây, cuộc
khủng hoảng tài chính và tín dụng ở Mỹ khiến không chỉ người Mỹ quan tâm, mà
cả công chúng các nước, trong đó có Trung Quốc rất quan tâm và thực sự kinh
ngạc. Tôi được biết, Hiệp hội thế chấp quốc dân của Chính phủ Mỹ, năm 1970,
là tổ chức đầu tiên trên thế giới phát hành trái phiếu cho vay thế chấp, gói
gọn một số nghĩa vụ nợ thế chấp tương tự nhau làm chứng chỉ sở hữu, rồi đem
những chứng chỉ đó bán cho các nhà đầu tư; vì thế, thu nhập từ tiền lãi cũng
như những rủi ro từ các khoản vay nợ sẽ được chuyển cho các nhà đầu tư.
Năm 2001, bộ phận bán trái phiếu tín
dụng nhà đất của ba công ty chủ chốt tương tự nhau thuộc Hiệp hội thế chấp
quốc dân Mỹ đã chiếm tới gần một nửa trong số tất cả các khoản tín dụng vay
nợ. Thị trường tín dụng thế chấp của Mỹ dựa trên sự cao thấp của các cấp tín
dụng mà chia thành các loại tín dụng tốt, tín dụng thứ cấp (tín dụng xấu) và
một loại thứ ba nằm ở ranh giới giữa hai loại kia. Cái gọi là khủng hoảng tín
dụng nhằm chỉ cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra do việc mua lại nhà đất với
quy mô lớn của những tầng lớp thu nhập thấp mà năng lực bồi hoàn các khoản
vay nợ rất kém, đồng thời các khoản tín dụng nhà ở này (tín dụng thứ cấp) lại
được trái phiếu hoá.
GS.D.Kotz: Tình hình của nước Mỹ đúng là như
vậy. Từ năm 2002 đến 2007, tình trạng đầu cơ trong thị trường nhà đất Mỹ tương
đối nghiêm trọng, tốc độ tăng giá của nhà ở nhanh đến chóng mặt, thị trường
nhà đất xuất hiện tình trạng bong bóng. Theo tính toán, đầu năm 2007, tổng
giá trị nhà ở trên thị trường nhà đất của Mỹ khoảng 21.000 tỷ USD, trong đó
có 8.100 tỷ USD là giá trị đầu cơ, thị phần bong bóng chiếm 38% tổng giá trị
nhà đất.
Trong thời gian này, có hai biến động
trên thị trường thế chấp ngấm ngầm chứa đựng hiểm hoạ khủng hoảng về sau. Thứ
nhất, trước đây, ngân hàng cung cấp tín dụng cho những người mua nhà luôn
tự mình nắm lấy thế chấp; trong khoảng 25 đến 30 năm liên tục, họ đã không
ngừng thu tiền và lợi tức từ những người mua nhà ở. Hiện nay, các tổ chức cho
vay này lại đem các thế chấp bán cho các ngân hàng đầu tư hoặc các tổ chức
tiền tệ. Những ngân hàng đầu tư này lại gom tất cả những thế chấp khác nhau
đó lại, biến thành một thứ “trái phiếu được đảm bảo bởi thế chấp” và bán ra
trên thị trường. Thứ hai, năm 2004, các tổ chức tiền tệ lần đầu tiên
tung ra cái gọi là vay nợ thế chấp thứ cấp. Người đi vay để mua nhà không cần
phải giao nộp 20% hay một khoản trả nợ ban đầu cao hơn như trước, ngân hàng
cũng không điều tra bất cứ thứ gì về hoàn cảnh và tình hình thu nhập của
người vay.
GS.Trình Ân Phú: Từ đó có thể
thấy, không nên cho rằng tất cả các công cụ, biện pháp “sáng tạo tiền tệ” đều
có lợi hơn hại, chúng đều cần phải được lựa chọn và rút kinh nghiệm. Vốn dĩ
các khoản vay thứ cấp có mức tín dụng thấp, thêm vào đó là quá trình không
ngừng trái phiếu hoá dẫn đến lợi nhuận và rủi ro của việc chuyển nhượng nhiều
thứ bậc, sẽ tất yếu hình thành “hiểm hoạ ngầm” mà Giáo sư D.Kotz đã nói. Khi
tình hình kinh tế tốt, như người đi vay có thu nhập thấp nhưng ổn định, hoặc
giá cả nhà ở không ngừng tăng cao, nguy cơ to lớn của tín dụng thứ cấp và
trái phiếu hoá sẽ được che đậy và chìm xuống. Tuy nhiên, một khi tình trạng
kinh tế đảo chiều, khủng hoảng tín dụng sẽ là điều khó tránh.
GS.D.Kotz: Lãi suất của các khoản vay thứ cấp
ban đầu rất thấp, thế nhưng 2 năm sau, năm 2006, lãi suất đột ngột tăng
nhanh, một số người vay nợ thứ cấp bắt đầu không có khả năng trả các khoản
nợ. Năm 2007, tỷ lệ những người không thể trả nợ thế chấp đúng hạn ngày càng
cao. Đồng thời, tới quý II năm 2007, bong bóng giá cả nhà đất đã lên tới đỉnh
điểm. Từ tháng 2 năm 2007 đến tháng 2 năm 2008, giá nhà đất ở San Francisco
hạ xuống 17%, tại Los Angeles hạ xuống 19%, tại Phoenix hạ xuống 21%, tại
Miami xuống 22%, tại Las Vegas xuống 23%.
Kết quả là, số nợ của 10,3% những
người có nhà ở vay nợ còn cao hơn giá trị nhà ở của họ. Các nhà đầu tư đột
nhiên phát hiện ra sự rủi ro rất lớn của những trái phiếu mà họ đang có, càng
không may là, về cơ bản, họ không biết sự rủi ro mà mình phải gánh chịu cao đến chừng nào. Các nhà đầu tư nhận
thấy rằng, những trái phiếu mà họ đang giữ có thể liên quan tới vài trăm
người vay nợ thế chấp, thế nhưng họ lại không biết chút gì về tình trạng của
mấy trăm người đó. Những tổ chức tiền tệ này không thể không hạ giá những
trái phiếu đó xuống, thậm chí có nơi gần đến mức phá sản.
GS.Trình Ân Phú: Cuối những
năm 80 của thế kỷ XX, “nền kinh tế bong bóng” của Nhật Bản cùng sự suy thoái
của nó cũng có điểm giống với tình trạng trên. Doãn Đằng Thành, Viện sĩ Đại học Tokyo, cố vấn học thuật
Hội Kinh tế chính trị học thế giới chỉ rõ, những giao dịch đầu cơ khi đó ở
Nhật Bản đã đẩy giá nhà đất cao lên, thúc đẩy các gia đình lao động đi vay,
kết quả là gây nên những thiệt hại to lớn. Kiểu tiếp thị mang tính tấn công
này của việc cho vay nhà đất chỉ có thể trở thành thủ đoạn bóc lột mới được
phát minh với quy mô hiện đại hoá lớn cho các tổ chức tiền tệ, như ngân hàng,
v.v..
Ngôi nhà khó
khăn lắm mới có được thì bị xiết nợ, bản thân thì bị ngân hàng đuổi ra khỏi
cửa. Đứng trên lập trường của đa số người đó, không có gì lạ khi tín dụng thứ
cấp được gọi là lối cho vay cướp giật. Phân tích này của Doãn Đằng Thành được
các nhà kinh tế học mácxít trên thế giới ủng hộ.
GS.D.Kotz: Trong cuộc khủng hoảng này của Mỹ,
đối tượng “giơ đầu chịu báng” chính là các ngân hàng đầu tư quy mô lớn nắm
giữ một số lớn các trái phiếu loại này, vì thế mà Cục dự trữ Liên bang Mỹ
phải ra tay cứu viện. Xét từ góc độ pháp lý, Cục dự trữ Liên bang chỉ được
phép viện trợ cho một loại tổ chức tiền tệ là ngân hàng thương nghiệp. Nhưng
tháng 3 năm 2008, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã vượt khỏi quy định để xuất ra 30
tỷ USD cứu viện cho một ngân hàng đầu tư chưa bao giờ thuộc quyền giám sát
của nó - Bear Stearns. Bởi vì Cục dữ trữ lo rằng, nếu không cứu trợ, thì việc
Bear Stearns phá sản sẽ có thể dẫn tới sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống tín
dụng Mỹ cũng như tín dụng toàn cầu.
GS.Trình Ân Phú: Bởi vậy, dẫu
cho các nước đang phát triển nỗ lực rao giảng về một nước Mỹ với lý luận và
chính sách kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới, với mục đích bảo vệ nhu cầu của
lợi ích toàn cục trong các nước tư bản chủ nghĩa và các nhà đại tư bản, thì
thể nào cũng có lúc lựa chọn các biện pháp vượt ra ngoài sự cho phép của luật
pháp, trong lịch sử chuyện này là bình thường. Điều đó cho thấy, khi Trung
Quốc lựa chọn biện pháp nào đó để khống chế những thị trường như địa ốc, ở
trong và ngoài nước, sự xuất hiện những dư luận chỉ trích là đi ngược với
nguyên tắc kinh tế thị trường đương nhiên cũng khó đứng vững. Các biện pháp
pháp luật, kinh tế, hành chính v.v. mà nhà nước dùng để điều tiết cần phải
được vận dụng linh hoạt. Điều quan trọng là khi xử lý một vấn đề nào đó, cần
chọn biện pháp nào ít tốn kém nhưng lại có hiệu quả tốt. Giáo sư Stiglitz,
Chủ tịch Hội uỷ viên cố vấn kinh tế cho Tổng thống của Chính phủ Clinton từng
phát biểu một nội dung tương tự như vậy tại Trung Quốc.
GS.D.Kotz: Tôi cũng tán thành quan điểm của
ông. Cuộc khủng hoảng này của Mỹ vẫn còn tiếp tục. Số nợ xấu của các tổ chức
tiền tệ lớn ở Mỹ, rốt cuộc, là bao nhiêu tới bây giờ vẫn không ai biết rõ. Mà
các tổ chức tiền tệ nắm giữ lượng lớn nợ xấu không chỉ có ở Mỹ mà có ở khắp
thế giới. Những tính toán cuối cùng về thiệt hại của cuộc khủng hoảng tiền tệ
này, có người nói có thể là mấy trăm tỷ USD, có người lại cho rằng có thể đạt
tới cả ngàn tỷ USD.
GS.Trình Ân Phú: Mấy ngày
trước đây, ngày 30 tháng 8, Tổng thống Mỹ Bush phát biểu trên truyền hình
rằng, tình hình kinh tế Mỹ gần đây đang có chuyển biến tốt, như lượng tiêu
thụ nhà ở tại một số nơi tăng trở lại, số đơn đặt hàng các mặt hàng đắt tiền
trong tháng 7 tăng nhanh, nền kinh tế trong quý II theo tỷ lệ hàng năm tăng
3,3%, phương án thúc đẩy nền kinh tế của chính phủ trị giá 168 tỷ USD đang
dần đạt được hiệu quả như ước tính, thông qua số tiền hoàn thuế cho người
tiêu dùng và doanh nghiệp đã kích thích việc tiêu dùng và doanh nghiệp đầu
tư. Đồng thời, Bush cũng nói rằng, sự lo lắng của dân chúng Mỹ đối với viễn
cảnh dầu lửa, giá cả thực phẩm cho đến nhà ở và công ăn việc làm là có thể
hiểu được. Ngoài ra, có một số chứng cứ cho thấy, thu nhập cá nhân của người
dân Mỹ giảm sút, chỉ số tiêu dùng không tăng. Rất nhiều nhà phân tích Mỹ cho
rằng, điều này cho thấy viễn cảnh kinh tế Mỹ vẫn không dễ lạc quan. Vị Tổng
thống đang tại vị chỉ nói ở mặt tích cực, nhưng viễn cảnh còn rất nhiều tính
khả năng, không dễ đo lường dự đoán.
2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín
dụng Mỹ và đối sách của Trung Quốc
GS.D.Kotz: Theo tôi, cuộc khủng hoảng tiền tệ
của nước Mỹ lần này có nhiều khả năng trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Điều đặc
biệt đáng chú ý là, cuộc khủng hoảng tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến thực
thể kinh tế(1) đồng thời có thể sẽ đem lại sự khủng hoảng đối với thực thể
kinh tế. Nói cụ thể hơn, cuộc khủng hoảng tiền tệ lần này gây ảnh hưởng đối
với thực thể kinh tế thông qua 4 con đường dưới đây:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng thế chấp có thể
gây ra sự sụt giảm nghiêm trọng của đầu tư nhà đất. Ở Mỹ, đầu tư nhà đất
chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số đầu tư xã hội. Đầu năm 2006, đầu tư địa ốc
ở Mỹ bắt đầu giảm xuống. Theo tính toán tỷ lệ hàng năm, từ quý IV năm 2007
tới 9 - 2008, đầu tư tại Mỹ vào các công trình kiến trúc nhà ở giảm xuống
25%.
Thứ hai, giá nhà ở không ngừng đi xuống đã
dẫn đến việc người tiêu dùng tiết giảm chi tiêu. Từ năm 2002, do giá nhà đất
tăng lên, rất nhiều gia đình đem nhà ở làm vật thế chấp để vay tiền chi trả
cho các chi tiêu sinh hoạt gia đình. Năm 2007, những người có nhà ở đó đột
nhiên được biết rằng họ không thể đem nhà ở ra làm vật thế chấp vay tiền ngân
hàng nữa, điều này khiến chi tiêu của họ giảm xuống 10%. Nếu như toàn bộ số
bong bóng đầu cơ 8.000 tỷ USD vào thị trường địa ốc biến mất, thì sẽ dẫn đến
số chi tiêu của người dân Mỹ hàng năm hạ xuống 320 - 480 tỷ USD. Nhưng sự
tiêu dùng trong xã hội Mỹ là vô cùng quan trọng, nó chiếm tới 70% GDP của Mỹ.
Do sự giảm sút của chi tiêu và đầu tư nhà đất, cuộc khủng hoảng nhà ở này có
thể khiến cho GDP giảm từ 3,1% - 7,0%.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng tín dụng dẫn đến
thị trường cổ phiếu không sáng sủa và đến lượt nó, điều này cũng gây ra những
ảnh hưởng tiêu cực đối với tiêu dùng.
Thứ tư, khủng hoảng tiền tệ dẫn đến quyết
sách của các doanh nghiệp đối với mức tiêu thụ trong tương lai rất đáng lo
ngại nên cắt giảm đầu tư. Quý I năm 2008, mức đầu tư cố định vào máy móc,
thiết bị và nhà xưởng giảm xuống 2,5%.
Đương nhiên, do đồng USD không ngừng
xuống giá, xuất khẩu của Mỹ đang tăng không ngừng, nhưng điều này không đủ để
ngăn cản kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Cho nên, có thể đưa ra một kết luận sơ
bộ là, khủng hoảng thị trường tiền tệ đang gây ra bước thụt lùi cho thực thể
kinh tế Mỹ.
GS.Trình Ân Phú: Cuộc khủng
hoảng tiền tệ xảy ra do khủng hoảng tín dụng Mỹ có ảnh hưởng không nhỏ đối với
các nước. Nước Mỹ chiếm tới 34% khối lượng tiền trên thế giới, chiếm 25%
lượng “tổng giá trị sản phẩm quốc nội” thế giới, 11% kim ngạch thương mại thế
giới, vì thế mà việc kinh tế Mỹ sút kém và khủng hoảng tiền tệ chắc chắn sẽ
gây ra những ảnh hưởng xấu đối với các thực thể kinh tế chủ yếu trên thế giới
và nền kinh tế toàn cầu. Chính sách giảm lãi suất và hạ giá đồng USD của Mỹ
sẽ khiến cho giá dầu thô và lương thực tăng cao, đồng thời tăng thêm áp lực
lạm phát lên các nước khác, khiến các nước thu hẹp việc dữ trữ đồng USD lại
v.v, cũng như làm cho thị trường cổ phiếu thế giới tuột dốc, giao dịch quốc
tế và tăng trưởng quốc tế chậm chạp v.v.. Chẳng hạn, trong năm 2008, kinh tế
Pháp trong quý I chỉ tăng trưởng 0,4%, trong quý II đã xuất hiện tăng trưởng âm;
quý II, kinh tế các nước sử dụng đồng EURO như Đức, Ý, Ailen đều giảm sút ở
các mức khác nhau. Trong tháng 7, mức lạm phát tại các nước sử dụng đồng EURO
ở mức cao trong lịch sử là 4%; tháng 8, giá nhà ở Anh giảm 10,5% so với cùng
kỳ năm trước. Ngày 2 tháng 9, Anh đưa ra
kế hoạch 1,8 tỷ USD để chấn hưng thị trường nhà đất, hy vọng nhờ đó có thể
xoay chuyển được sự tuột dốc thê thảm nhất trong 18 năm qua. Theo phán đoán
trong báo cáo mới nhất của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế, nửa cuối
năm 2008, nước Anh sẽ xuất hiện tăng trưởng âm, suy thoái kinh tế chỉ là vấn
đề thời gian.
GS.D.Kotz: Đúng vậy, nếu kinh tế Mỹ rơi vào suy
thoái nghiêm trọng, rất có thể sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế thế giới rơi vào
suy thoái. Có thể nói, kinh tế thế giới hiện đang đối mặt với việc đi vào rủi
ro của cảnh tiêu điều trên phạm vi toàn cầu.
GS.Trình Ân Phú: Theo Giáo
sư Kotz, khủng hoảng tiền tệ lần này có thể lan đến Trung Quốc không?
GS.D.Kotz: Điều này có thể lan sang Trung Quốc.
Trong giai đoạn đầu của cải cách mở cửa, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chủ
yếu dựa vào thị trường trong nước. Những năm 80 của thế kỷ trước, xuất khẩu
Trung Quốc luôn thấp hơn GDP 10%, nhưng từ sau thập niên 90 trở đi, tỷ trọng
xuất khẩu của Trung Quốc so với GDP tăng mạnh. Những năm gần đây, con số này
tăng lên càng nhanh, khoảng 38%. Do vậy,
nếu như kinh tế Mỹ và châu Âu rơi vào suy thoái, sẽ gây ra ảnh hưởng rất lớn
đối với kinh tế Trung Quốc, khiến cho phương thức tăng trưởng trước mắt của
Trung Quốc không còn hoặc không thể tiếp tục duy trì. Điều này đòi hỏi Trung
Quốc phải thay đổi phương thức tăng trưởng, mà sự thay đổi đó bắt buộc phải
dựa nhiều hơn hoặc dựa chủ yếu vào thị trường trong nước.
Cho tới đầu thế kỷ này, thị trường
tiền tệ Trung Quốc đều tuyệt giao với thị trường tiền tệ thế giới. Cuộc khủng
hoảng tiền tệ Đông Nam Á năm 1997, về cơ bản, hầu như không gây ảnh hưởng
nhiều đến Trung Quốc. Khi đó, Chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn rất nhiều biện
pháp ngăn chặn những kiểu đầu tư và vay nợ ngắn hạn tham gia vào thị trường
Trung Quốc. Thế nhưng, tình hình trong những năm gần đây đã thay đổi rất
nhiều. Một lượng lớn tư bản đầu tư lưu động chảy vào Trung Quốc bằng nhiều
con đường, trong đó một phần đáng kể tham gia vào thị trường địa ốc. Do đó,
chỉ cần một cuộc khủng hoảng tiền tệ có tính chất toàn cầu, sẽ rất có thể tạo
nên sức tấn công lớn tới toàn bộ hệ thống tiền tệ Trung Quốc.
GS.Trình Ân Phú: Tôi cũng có
chung cảm nhận đó. Năm nay, lạm phát của Trung Quốc tăng cao, lượng tiền nóng
(tiền đầu cơ ngắn hạn - ND.) quốc tế đổ vào nhiều, sự biến động của giá cổ
phiếu và giá nhà ở đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc khủng
hoảng tín dụng Mỹ. Trung Quốc cần có hai tầng tư duy đối sách: đối sách ở
tầng kiểm soát thị trường nhà đất, đối sách ở tầng kiểm soát sự biến đổi
phương thức phát triển kinh tế đối ngoại. Với đối sách cơ bản ở tầng thứ đầu
tiên, một là, hệ thống tiền tệ không nên buông lỏng sự tính toán và
giám sát đối với những rủi ro tất yếu vì mải cạnh tranh những khoản tín dụng
nhà đất, cần phải quy định chặt chẽ đối với thị trường vay nợ thế chấp, giải
quyết “hiện tượng gián đoạn” trả nợ của một số người mua nhà đất; hai là,
nhà nước cần thuận theo hệ thống quản lý thị trường nhà đất, khống chế hiệu
quả hệ thống dự báo rủi ro đối với thị trường nhà đất và các tổ chức tiền tệ
bao gồm cả đầu tư nước ngoài; ba là, chính sách cần phải thể hiện thị
trường nhà đất thuộc về thị trường dân sinh lấy tiêu dùng là chính, chứ không
phải thị trường đầu cơ để kiếm chác, đồng thời có nhiều cách để đầu tư và
tiêu thụ hợp lý nhà đất, ngăn ngừa sự trồi sụt lớn của giá cả nhà ở.
GS.D.Kotz: Điều mà giáo sư Trình nói về “đối
sách ở tầng thứ kiểm soát những biến đổi của phương thức phát triển kinh tế
kinh tế đối ngoại” có nội dung gì?
GS.Trình Ân Phú: Chúng ta
buộc phải tuân thủ sự chỉ đạo của quan điểm phát triển khoa học, xây dựng mô
hình mở cửa đối ngoại khôn khéo với đặc trưng chủ yếu là theo đuổi hiệu quả
chất lượng mở cửa và hợp tác hai bên, cân đối tương quan giữa phát triển kinh
tế trong nước và mở cửa với bên ngoài, thúc đẩy kinh tế quốc dân đồng thời
phải phát triển vừa nhanh vừa tốt. Cụ thể là, cần phải đạt tới “năm thứ được
nâng cao”: một là, giảm tỷ lệ giao dịch ngoại thương, tăng cường vai
trò tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Theo con số tính toán của WTO và
IMF, tỷ lệ giao dịch ngoại thương năm 2003 đạt gần 45%. Trong đó, tỷ lệ bình
quân ở các nước phát triển là 38,4%, tỷ lệ bình quân ở các nước đang phát
triển là 51%, con số này năm 2004 và 2006 là 68,44% và 65,51%, cao hơn khá
nhiều so với tỷ lệ trung bình của thế giới. Điều này cho thấy, tỷ lệ giao
dịch ngoại thương không chỉ cao hơn rất nhiều so với các quốc gia phát triển,
mà còn cao hơn tuyệt đại đa số các nước đang phát triển, thậm chí cao hơn tỷ
lệ trung bình ở các nước đang phát triển từ 10% trở lên. Năm 2004, tỷ lệ tiêu
dùng của Trung Quốc là 53,6%, năm 2007 bắt đầu có chuyển biến tốt nhưng vẫn
chưa đủ. Vì thế, cần thúc đẩy mạnh sức tiêu dùng của những người có thu nhập
thấp và trung bình ở các thành thị, đầu tư nhiều vào các lĩnh vực an sinh xã
hội, như y tế, vệ sinh, giáo dục, cải thiện hiệu quả những ước tính tiêu dùng
của dân chúng, nâng cao định hướng tiêu dùng, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định
về thu nhập cho những người có thu nhập trung bình và thấp; đẩy mạnh tiêu
dùng ở nông thôn, thiết thực nâng cao thu nhập của nông dân, tăng cường đầu
tư cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn; nỗ lực đẩy mạnh việc nâng cấp
kết cấu tiêu dùng và trọng điểm tiêu dùng, phát triển mạnh các ngành và sản
phẩm có liên quan tới các nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại của nhân dân, như nhà
cửa, thông tin, giáo dục văn hóa, du lịch v.v..
GS.D.Kotz: Một nước mà tỷ lệ giao dịch ngoại
thương quá cao thì rủi ro dây chuyền sẽ càng lớn.
GS.Trình Ân Phú: Hai là, khống chế
các nguồn đầu tư nước ngoài với tỷ lệ thích đáng, tăng cường điều tiết lợi
dụng hiệu quả sự đầu tư trong nước và quốc tế. Từ cải cách mở cửa đến nay,
việc lợi dụng triệt để sự đầu tư bên ngoài chiếm một vai trò không thể thay
thế đối với sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội của Trung Quốc. Tuy
nhiên, cũng vì vậy mà Trung Quốc phải bỏ ra một nguồn vốn lớn, như vốn đất
đai. Dù Nhà nước nghiêm cấm việc dùng thủ đoạn ép giá đất xuống thấp để kêu
gọi đầu tư, nhưng để đạt mục đích nhận được đầu tư, chính quyền tại một số
địa phương vẫn không cảm thấy tiếc rẻ khi chuyển nhượng đất cho công nghiệp
sử dụng với giá lỗ vốn, thậm chí không cả bồi thường nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài, đến cái mức mà “bậc thềm hạ mỗi ngày một thấp, vốn mỗi ngày một giảm,
không gian mỗi lúc một nhường”. Chưa kể tới vốn thu thuế, vốn môi trường v.v..
Từ năm 1995, các tổ chức tiền tệ ở Trung Quốc lần đầu tiên xuất hiện tình
trạng tồn đọng tiền, những năm gần đây con số vốn tồn đọng đã phá ngưỡng
10.000 tỷ USD. Điều này phản ánh sức tăng dự trữ quá nhanh, tăng trưởng tín
dụng không theo kịp, việc phân bổ nguồn tiền và hiệu quả sử dụng thấp. Có thể
nhận thấy, trước mắt Trung Quốc không thiếu vốn xây dựng; ngược lại, nguồn
vốn trong nước lại quá dư thừa. Trong tình hình mới đó, nếu vẫn tiếp tục tiếp
nhận đầu tư bên ngoài như đói khát, sẽ nảy sinh tình hình “hiệu ứng gạt bỏ”,
gây ảnh hưởng tới sự phân bố hữu hiệu và sử dụng hiệu quả nguồn tiền đầu tư
trong nước. Do vậy, khống chế một cách thích hợp nguồn đầu tư nước ngoài,
nâng cao việc điều tiết hiệu quả nguồn đầu tư trong và ngoài nước là vấn đề
trọng tâm trong việc nhận thức và thiết lập chính sách mới đồng bộ.
|
ế lại không sánh bằng. Điều này chủ yếu vì đại đa số sản phẩm xuất khẩu của Trung
Quốc đều là sản phẩm sơ cấp, giá trị
thấp, tuy số lượng nhiều nhưng lợi nhuận thấp. Trung Quốc bị coi là “công xưởng của thế
giới”, nhưng một bộ phận tương đối các doanh nghiệp xuất khẩu không có
kỹ thuật và năng lực cạnh tranh
trọng tâm, như các
ngành dệt may, giày
dép, DVD v.v.. Thực tế chứng minh rằng, lợi ích thương mại có được từ mô hình “ba cao một thấp” (ô nhiễm cao, năng lượng tiêu hao cao, mức độ phụ thuộc
cao, giá trị gia tăng thấp) chỉ là tạm
thời, gián đoạn và phải trả giá đắt, cuối cùng rơi vào “cạm bẫy của ưu thế so sánh”. Do đó, chiến lược thương mại đối ngoại của Trung Quốc tuy phải coi trọng phát huy
“ưu thế cạnh tranh”, nhưng không thể lấy ưu thế cạnh tranh làm mô hình chiến lược cơ bản. Cần giải phóng tư tưởng, phá bỏ sự trói buộc của mô hình
phân công quốc tế truyền thống lấy lý luận ưu thế cạnh tranh làm nền tảng, biến “chiến lược ưu thế cạnh tranh” thành “ưu thế quyền sở hữu tài sản trí tuệ”. Cần ra
sức phát triển các tập đoàn doanh nghiệp dân tộc với mô hình “tam khống (ba sự
khống chế)”: khống chế cổ phiếu, khống chế kỹ thuật (đặc biệt là kỹ thuật trọng
tâm và tiêu chuẩn kỹ thuật) và khống chế thương hiệu (đặc biệt là các thương hiệu nổi tiếng), bồi dưỡng và phát huy cao độ ưu thế quyền sở hữu trí tuệ, sớm thực sự tạo
ra một nước Trung Quốc là xưởng sản xuất của thế giới chứ không phải xưởng gia
công cho thế giới. Từ đó, nhanh chóng hoàn thành bước chuyển từ một nước giao
dịch thương mại lớn thành
cường quốc thương mại, từ nước
kinh tế lớn thành cường quốc về kinh tế.
GS.D.Kotz: Vấn đề năng lượng Trung Quốc là rất
nổi bật, nhưng dư luận ở các nước phát triển phê bình Trung Quốc khi khai thác
năng lượng theo kiểu “chủ nghĩa thực dân mới” ở khu vực châu Phi hoàn toàn là
yêu quái hóa một Trung Quốc đang trong phát triển hòa bình. Những người tiến bộ
không tán đồng với quan điểm này.
GS.Trình Ân Phú: Ngài nói rất
đúng, đối sách thứ tư của Trung Quốc chính là giảm đáng kể sự phụ thuộc
vào “tài nguyên nước ngoài”, tăng cường hiệu quả của việc bổ sung tài nguyên.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, “năng lượng bên ngoài” của Trung
Quốc (chỉ một số nguồn năng lượng và tài nguyên nhập khẩu với tỷ lệ lớn như dầu
mỏ, quặng sắt v.v.) tăng nhanh. Sự phụ thuộc quá lớn vào bên ngoài về tài
nguyên gây ảnh hưởng trầm trọng đối với kinh
tế Trung Quốc. Lý luận cho rằng sự phụ thuộc về nhập khẩu năng lượng của Trung
Quốc không chứa đựng rủi ro nào không thể đứng vững. Biện pháp ngăn ngừa đầu
tiên là nhanh chóng xây dựng hệ thống dự trữ dầu mỏ chiến lược, hình thành bức
tường lửa cơ bản. Tiếp theo, cần kiên trì khích lệ và giúp đỡ việc tìm kiếm và
tận dụng những nguồn năng lượng mới; đồng thời, cần có chính sách thưởng việc
tiết kiệm, trừng phạt việc lãng phí năng lượng.
GS.D.Kotz: Trung Quốc để rất nhiều dự trữ ngoại
hối ở Mỹ, như vậy có thích hợp không?
GS.Trình Ân Phú: Tôi cho rằng,
vấn đề này cần phải điều chỉnh, mà trong đối sách thứ năm của Trung
Quốc, chính là khống chế quy mô dự trữ ngoại hối ở mức hợp lý, tăng cường thu
lợi từ việc sử dụng ngoại hối. Tháng 4 năm 2006, quy mô dự trữ ngoại hối của
Trung Quốc, lần đầu tiên, vượt qua Nhật Bản và trở thành nước đứng đầu thế giới
về dự trữ ngoại hối. Tới cuối tháng 12 năm 2007, số dư ngoại hối cả nước là
1.530 tỷ USD, tăng 43,32% so với năm trước. Là một nước kinh tế đang phát
triển, việc dự trữ một lượng ngoại hối đáng kể là điều vô cùng quan trọng. Tuy
nhiên, nếu thời gian dài và số lượng lớn vượt quá mức hợp lý thì tất sẽ làm nảy
sinh những bất lợi đối với phát triển kinh tế. Đầu tiên, dự trữ ngoại hối quá
cao làm tăng áp lực lên giá của đồng nhân dân tệ. Tiếp đó, kết cấu dự trữ ngoại
hối không hợp lý sẽ dẫn tới một lượng lớn của cải quốc dân trôi mất. Quy mô dự
trữ ngoại hối quá lớn, cuối cùng, sẽ khiến mặt trái tiêu cực của nó ảnh hưởng
tới đời sống kinh tế trong nước: gây ra tính biến động lớn trong nước, sự bùng
nổ của các hoạt động đầu tư phi lý tính, bẻ cong cơ chế giá cả, tăng mức độ khó
khăn của điều tiết vĩ mô. Giải quyết vấn đề dự trữ ngoại hối quá mức, không chỉ
cần khống chế quy mô phát triển thương mại gia công đem lại lợi nhuận ít, xét
từ căn nguyên phải giảm thiểu tình trạng xuất siêu thương mại, giảm tốc độ dự
trữ ngoại hối. Đồng thời, cũng cần phân bổ hợp lý nguồn tài nguyên ngoại hối đã
có, giảm vốn cơ hội của dự trữ tư bản tiền tệ, tăng hiệu quả phân bố của tư
bản.
3. Nguyên nhân khủng hoảng tiền tệ là
chủ nghĩa tư bản kiểu chủ nghĩa tự do mới
GS.D.Kotz: Nguyên nhân
sâu xa dẫn đến cuộc khủng hoảng tiền tệ lần này chính là chủ nghĩa tư bản kiểu
chủ nghĩa tự do mới. Từ năm 1945 - 1973, bất luận là ở Mỹ hay trên toàn thế
giới, chủ nghĩa tư bản được kiểm soát luôn chiếm địa vị chi phối. Đặc trưng của
hình thức tư bản chủ nghĩa này là: 1) Chính phủ tiến hành sự quản chế nghiêm
ngặt đối với hệ thống kinh tế và tiền tệ; 2) Để đảm bảo giữ tỷ lệ thất nghiệp
thấp mà có sự chủ động khống chế đối với kinh tế vĩ mô; 3) Nhà nước chế định
một lượng lớn chính sách phúc lợi xã hội; 4) Quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp
quy mô lớn với công đoàn; 5) Giữa các doanh nghiệp lớn kìm giữ cạnh tranh; 6)
Thương mại quốc tế và tư bản lưu động chịu sự khống chế của nhà nước và tổ chức
quốc tế.
GS.Trình Ân Phú: Đúng vậy, 6
năm trước đây, hai chúng ta đã từng có cuộc đối thoại về chủ nghĩa tự do mới và
vấn đề kinh tế toàn cầu hoá dưới sự chi phối của nó. Năm 2006, tại Thượng Hải,
trong bản “Tuyên ngôn về toàn cầu hoá kinh tế và kinh tế học hiện đại chủ nghĩa
Mác” được hơn 70 nhà kinh tế học chủ nghĩa Mác của thế giới ký cam kết, trong
đó có hai chúng ta, đã làm rõ hơn cách nhìn về chủ đề chủ nghĩa tự do mới và
kinh tế toàn cầu dưới sự chi phối của nó. Bây giờ, chủ nghĩa tự do mới đã sinh
ra quả độc của nó là “khủng hoảng tín dụng”.
GS.D.Kotz: Những năm 80, thứ hình thức tư bản chủ
nghĩa chiếm địa vị thống trị đó đã có thay đổi rất lớn, chủ nghĩa tư bản theo
hình thức chủ nghĩa tự do mới đã thay thế hình thức tư bản chủ nghĩa do nhà
nước quản chế vốn có. Đặc trưng của tư bản chủ nghĩa theo hình thức chủ nghĩa
tự do mới là: 1) Thả lỏng sự quản lý đối với kinh tế và tiền tệ, cho phép sự
tồn tại của thị trường tự do; 2) Chính phủ không còn tiến hành điều chỉnh tích
cực đối với kinh tế vĩ mô, theo đuổi việc giảm tỷ lệ lạm phát chứ không phải
giảm tỷ lệ thất nghiệp; 3) Phúc lợi xã hội giảm sút nhanh chóng; 4) Các công ty
lớn cùng nhà nước chống lại và làm suy yếu sức mạnh của công đoàn, cục diện thị
trường lao động biến đổi, nhà tư bản hoàn toàn khống chế người lao động; 5)
Cạnh tranh tự do, tàn khốc thay thế cạnh tranh có điều tiết; 6) Thương phẩm,
dịch vụ và tư bản tự do lưu chuyển giữa các nước khác nhau.
GS.Trình Ân Phú: Hiệu ứng phụ
của kinh tế toàn cầu hoá dưới sự chi phối của chủ nghĩa tự do mới có ba thứ “có
thể tăng mạnh”: Một là, có thể làm gia tăng sự mất cân bằng của phát
triển kinh tế thế giới. Do các nước tư bản phát triển chiếm một ưu thế rõ ràng
trong phát triển kinh tế, nên trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, các nước
này sẽ thu lợi lớn hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển. Điều này sẽ làm tăng thêm một bước sự giãn cách phát triển
không đồng đều ở phạm vi toàn cầu giữa các quốc gia. Đặc biệt, chỉ số thu nhập
bình quân đầu người và quyền sở hữu tài sản trí tuệ, v.v. ở các nước phát triển
và các nước đang phát triển cũng khác nhau nhiều. Sự phát triển mất cân bằng
này được thể hiện cụ thể trên các mặt thương mại đối ngoại, lực lượng khoa học
- kỹ thuật, v.v..
Hai là, có thể làm tăng sự biến động của phát
triển kinh tế thế giới. Ví dụ, năm 1994, ở Mexico đã phát sinh khủng hoảng tiền
tệ; tháng 2 năm 1995, Ngân hàng Pari đóng cửa; năm 1997 là cuộc khủng hoảng
tiền tệ ở Đông Nam Á; tiếp đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ và kinh tế ở
Argentina, rồi đến sự thụt lùi đại quy mô của nền kinh tế các nước Đông Âu và
Liên Xô vốn liên quan mật thiết với tiền tệ quốc tế; kinh tế Nhật Bản trì trệ
trong hơn 10 năm; nước Mỹ thuộc về kinh tế mới cũng phát sinh suy thoái và cuộc
khủng hoảng tín dụng vừa qua, v.v., đều gây ra những thiệt hại lớn đối với sự
phát triển kinh tế thế giới. Điều này cho thấy một thực tế là, tình trạng vô
trật tự của các thị trường tiền tệ thế giới trong quá trình phát triển sẽ đem
lại ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế thế giới.
Ba là, khả năng tăng thêm tính mâu thuẫn
trong phát triển kinh tế thế giới. Mâu thuẫn chồng chất trong chủ nghĩa tư bản
khiến nền kinh tế toàn cầu chứa đầy các loại rủi ro do mất cân bằng, không điều
hoà, không ổn định. Cuộc chiến thương mại, cuộc chiến tiền tệ không ngừng giữa
các nước phát triển với nhau và giữa các nước phát triển với các nước kém phát
triển lan toả ra toàn thế giới. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đặc biệt
là Mỹ, dựa vào thực lực kinh tế và địa vị ưu thế của mình trong thế giới, càng
ngày càng dấn sâu vào việc can dự, chế tài, uy hiếp các nước khác, thậm chí còn
phát động xâm lược quân sự. Điều này đương nhiên sẽ dẫn tới sự phản kháng từ
các nước khác, từ đó làm tăng thêm mâu thuẫn, va chạm và đấu tranh trên phạm vi
thế giới; đồng thời, gây nên những ảnh hưởng bất lợi cho sự phát triển kinh tế
thế giới.
GS.D.Kotz: Các nhà lý luận của chủ nghĩa tự do mới
tuyên bố rằng, nếu không có sự khống chế của nhà nước, thị trường tiền tệ sẽ
càng có hiệu quả, mọi người có thể đem nguồn đầu tư có hạn để đầu tư vào lĩnh
vực có lời nhiều nhất. Tuy nhiên, họ bỏ qua một sự thực quan trọng là, một khi
thị trường đã mất kiểm soát thì rất dễ sinh ra rủi ro, mà dưới điều kiện của
chủ nghĩa tự do mới thì khủng hoảng tiền tệ lại càng trở nên nghiêm trọng.
Điểm này đã được lịch sử chứng minh vào thế kỷ XIX, nước
Mỹ tiến hành nền kinh tế tự do cạnh tranh, khi đó cứ 10 năm một lần, New York
lại xảy ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ cực kỳ nghiêm trọng. Đến năm 1929, kinh
tế thị trường tự do dẫn tới sự sụp đổ của thể chế tài chính Mỹ. Sau đó, từ năm
1945 – 1973, Mỹ tiến hành chủ nghĩa tư bản có kiểm soát, và trong thời gian
này, không xảy ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ lớn nào, cũng không có một tổ
chức tiền tệ nào bị phá sản. Nhưng từ năm 1980 trở lại đây, cùng với sự trỗi
dậy của chủ nghĩa tự do mới, nền kinh tế Mỹ xuất hiện một loạt hiện tượng đầu cơ
và kéo theo đó là sự nảy sinh vấn đề tiền tệ tương ứng. Vào thập niên 80 của
thế kỷ trước, nước Mỹ đã xuất hiện cuộc khủng hoảng tương đối lớn, một tổ chức
tiền tệ đặc biệt - Ngân hàng tiết kiệm phá sản, Ngân hàng Trung ương không thể
không xuất hàng trăm tỷ USD để cứu viện những ngân hàng này. Sang thập niên 90,
thị trường cổ phiếu Mỹ xuất hiện một đợt bong bóng lớn về tiền tệ trên phạm vi
toàn thế giới, đợt bong bóng này sau khi bị phá vỡ năm 2000 cũng gây ra tổn
thất vài trăm tỷ USD. Bước sang thế kỷ XXI tới nay, thị trường nhà đất Mỹ lại
xuất hiện một đợt bong bóng lớn và chiếc bong bóng này cũng đang tan dần.
GS.Trình Ân Phú: Không nên lấy
làm lạ với hiện tượng này của chủ nghĩa tư bản. Thực ra, như Samuel Brittan
nhận định trên “Thời báo tài chính” Anh, trong 300 năm qua, chủ nghĩa tư bản
thế giới luôn ở trong trạng thái đắp đổi giữa thịnh vượng và tiêu điều;
V.I.Lênin cũng sớm chỉ ra rằng, các nước tư bản chủ nghĩa có lúc phát triển
chiếm ưu thế, có lúc lại đình đốn trì trệ. Vậy thì, theo ông, tại sao chủ nghĩa
tư bản theo chủ nghĩa tự do mới lại càng dễ dẫn tới khủng hoảng tài chính?
GS.D.Kotz: Mối quan hệ của hai thứ thể hiện trên
hai phương diện. Thứ nhất, trừ bỏ sự khống chế đối với tiền tệ. Trừ bỏ
khống chế là một đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa tư bản theo chủ nghĩa tự do
kiểu mới. Thị trường tiền tệ không có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước sẽ cực
kỳ bất ổn. Từ năm 1945 đến 1973, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản bị nhà
nước quản lý, Ngân hàng Trung ương và Chính phủ Mỹ buộc tư bản tiền tệ phải dốc
tiền ra cho doanh nghiệp bộ phận của thực thể kinh tế vay. Trong tình hình đó,
tổ chức tiền tệ không thể theo ý muốn của mình theo đuổi lợi nhuận lớn nhất mà
ngược lại, chúng bị phân thành các loại hình không giống nhau, chỉ có thể tham
gia vào nghiệp vụ của những loại hình bị chỉ định.
Từ năm 1980 - 1982, Quốc hội Mỹ thông qua hai điều luật
quan trọng, bãi bỏ sự khống chế đối với các tổ chức tiền tệ. Như vậy, ngân hàng
Mỹ và các tổ chức tiền tệ khác có thể tự do chạy theo lợi nhuận lớn nhất. Bởi thế
mà ngày càng nhiều tổ chức tiền tệ bị hút vào các ngành có tính chất đầu tư. Do
có thể đem lại nhiều lợi ích cho các tổ chức tiền tệ, nên những thứ vay nợ thứ
cấp và các trái phiếu được đảm bảo bởi nợ thế chấp, cho đến rất nhiều “sáng tạo
mới” khác không ngừng tăng lên. Ví dụ, Quỹ bảo hiểm có lợi nhuận mỗi năm lên
tới 25%, mà để có được mức lợi nhuận cao như vậy, chỉ có một con đường - đem
một lượng tiền lớn ra cho vay, kéo theo nghĩa vụ vay nợ cao lên.
Thứ hai, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
nghiêm trọng. Chủ nghĩa tự do mới khiến cho sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
nghiêm trọng, tuyệt đại bộ phận tăng trưởng GDP đều rơi vào túi của thiểu số
giai tầng giàu có. Nước Mỹ có 1% số người giàu nhất, sở hữu lượng của cải ở mức
cao nhất từ năm 1928 đến nay. Con số 1% những người giàu có nhất đó chỉ là
300.000 người, thu nhập của họ bằng thu nhập của toàn bộ số người nghèo nhất
chiếm 50% dân số Mỹ (khoảng 150 triệu người). Từ năm 1980 đến năm 2005, thu
nhập của 1% dân số giàu có nhất chiếm một lượng nghiêng lệch so với tổng thu
nhập. Sở dĩ như vậy là vì trong điều kiện của chủ nghĩa tự do mới, công nhân và
công đoàn trong cuộc chơi với tư bản chỉ chiếm địa vị yếu thế, xã hội thiếu
chính sách và kế hoạch viện trợ tương ứng đối với công nhân, khiến cho thu nhập
của công nhân không tăng mà còn giảm xuống, trong khi lợi nhuận lại không ngừng
tăng lên.
Sự phân hoá giàu nghèo đặt ra vấn đề ai là người mua
những thứ tài sản đang không ngừng gia tăng kia? Kết quả là từ khi tiến vào thế
kỷ XXI đến nay, mức thu nhập của các gia đình làm công ăn lương hoặc là không
tăng hoặc là giảm xuống, họ không thể không đem nhà ở ra làm vật thế chấp để
vay tiền nhằm đảm bảo mức sống như trước đây. Tới năm 2006, những thứ nợ này đã
trở nên quá cao mà không thể tiếp tục duy trì, các gia đình làm công ăn lương
nhận thấy rằng họ không thể dựa vào thu nhập để vay tiền như lúc trước, mà
những món nợ trước cũng không thể chi trả nổi, và khủng hoảng bùng phát.
GS.Trình Ân Phú: Đúng là như vậy, theo các báo cáo thống kê do Cục điều tra nhân khẩu Mỹ
công bố thì có thể chứng minh điều này. Theo ngài, số người Mỹ không có bảo
hiểm trong 200 năm vẫn còn tới 45.700.000 người; 12,5% nhân khẩu sống dưới mức
chuẩn nghèo của Liên bang. So với năm trước, số trẻ nhỏ nghèo đói tăng lên
500.000, đạt tới con số 13.300.000; trong số những người thu nhập bằng tiền
lương, thu nhập của 1% số người có thu nhập cao chiếm 23% thu nhập từ lương của
tất cả, là con số cao nhất từ năm 1928 đến nay.
GS.D.Kotz: Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính
này là kết quả tất yếu do sự lan tràn của chủ nghĩa tự do mới trên thế giới từ
năm 1980 đến nay mang lại. Trước mắt, giới học thuật ở Mỹ đang thảo luận nên
chăng kết cấu lại nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là hệ thống tài chính, giúp nhà nước
có thể tiến hành nhiều sự quản lý hơn đối với hệ thống tài chính. Đây là một cơ
hội đối với những nhóm tiến bộ, họ có thể thúc đẩy một cuộc cải cách có tính
chất căn bản đối với toàn bộ kinh tế thế giới, chứ không chỉ là đem một thứ tư
bản chủ nghĩa hình thức khác thay thế cho tư bản chủ nghĩa theo kiểu chủ nghĩa
tự do mới.
GS.Trình
Ân Phú: Vấn đề thay thế và con đường đi, có
lẽ phải đợi đến cuộc Hội thảo “Diễn đàn Hội Kinh tế chính trị học thế giới lần
thứ 4 - Dân chủ ngự trị trong các quốc gia dân tộc và trong kinh tế chính trị
toàn cầu” tổ chức năm tới tại Pari mà hai chúng ta cùng tham dự, sẽ bàn luận cụ
thể hơn. Tôi xin tiết lộ một cách nhìn cơ bản: Từ thế kỷ XX có bốn loại hình
thống trị toàn cầu: 1) Sự ngự trị của việc tranh giành kịch liệt và các đế quốc
xâu xé lẫn nhau (từ 1900 – 1945, xung đột giữa các đế quốc, hai lần đại chiến
thế giới và cuộc chiến của chủ nghĩa thực dân, trật tự thế giới rất lộn xộn,
nhìn tổng thể các nước giống như cảnh “hổ đói vồ mồi”, song, sự ra đời của các
nước xã hội chủ nghĩa khiến cho trật tự thế giới có thêm sinh khí mới); 2) Sự
thống trị của hai trật tự đối nghịch (từ 1946 - 1989, trận địa của hai siêu
cường chi phối chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc liên tục thắng lợi, vai trò của các nước thuộc thế giới thứ ba
không ngừng lớn mạnh, trật tự thế giới có chuyển biến tốt); 3) Sự thống trị của
mô hình một vài cường quốc (từ 1990 đến nay, độc tài một bên hay lũng đoạn
nhiều bên, chiến tranh cục bộ và chiến tranh khủng bố, sự thịnh hành của chủ
nghĩa tự do mới, chủ nghĩa bảo thủ mới, chính sách đế quốc mới đã phá hoại nền
tảng dân chủ toàn cầu, trật tự thế giới có những bước thụt lùi, nhưng nhân dân
các nước đang giác ngộ và ủng hộ việc quản lý bằng dân chủ dưới sự chủ xướng
của Liên hợp quốc); 4) Mô hình quản lý do Liên hợp quốc chủ xướng (mục tiêu
tương lai, hiệp thương dân chủ giữa các nước, các cuộc chiến vũ lực giảm; Liên
hợp quốc tăng số lượng thành viên các nước đang phát triển, cải cách kết cấu tổ
chức và con người của các tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Tổ
chức Thương mại thế giới; nhanh chóng xác lập một đồng tiền chung cho toàn thế
giới, một ngôn ngữ chung toàn cầu; kết luận là trong quá trình toàn cầu hoá bắt
buộc phải quản lý dân chủ toàn cầu, phát triển toàn cầu hoá kinh tế, dân chủ
hoá chính trị, đa dạng hoá văn hoá, tự vệ hoá quân sự một cách công bằng và
chính trực).r
(Đăng
trên Báo Giáo dục Trung Quốc, ngày 14 tháng 10 năm 2008)
Người
dịch: ThS.TRẦN THÚY NGỌC
(Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
(1) Thực thể kinh tế là toàn bộ các bộ phận liên quan đến kinh tế trừ thị trường nhà đất và tiền tệ, bao gồm sản xuất, xuất nhập khẩu, giao dịch thường xuyên, thị trường bán lẻ v.v. - ND.
(1) Thực thể kinh tế là toàn bộ các bộ phận liên quan đến kinh tế trừ thị trường nhà đất và tiền tệ, bao gồm sản xuất, xuất nhập khẩu, giao dịch thường xuyên, thị trường bán lẻ v.v. - ND.