Bài viết luận
chứng để làm rõ tính khách quan và tính năng động của hoạt động thực tiễn –
một vấn đề không chỉ cần thiết về mặt lý luận, mà còn có giá trị thực
tiễn. Theo tác giả, hoạt động thực tiễn của con người vừa mang tính khách
quan, vừa mang tính năng động. Tính khách quan và tính năng động của hoạt
động thực tiễn luôn thống nhất biện chứng với nhau.
Hoạt động
thực tiễn của con người vừa có tính khách quan, vừa có tính năng động. Hoạt
động thực tiễn là sự thống nhất giữa tính quy luật và tính mục đích, giữa
tính khách quan và tính năng động. Nghiên cứu tính khách quan và tính năng
động cùng mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta lý giải chính xác tính chủ
thể, từ đó tiến thêm một bước trong việc tăng cường vai trò tích cực cũng như ngăn ngừa tác động tiêu cực của tính chủ thể
trong thực tiễn, khiến cho tính chủ thể của thực tiễn được đặt trên nền tảng
khoa học, đồng thời được phát huy một cách đầy đủ nhất. Xét trên ý nghĩa
đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tính khách quan và tính năng động không
chỉ cần thiết về mặt lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn.
1.
Tính khách quan của thực tiễn
Nguyên nhân
quan trọng khiến hoạt động của con người khác với bản năng động vật là ở chỗ,
hoạt động của con người có sự tham dự và chi phối của lý tính, tinh thần, ý
thức. Tuy nhiên, thực tiễn không thể được quy về hay đồng nhất với lý tính,
tinh thần, ý thức; nó là một loại hoạt động vật chất cảm tính, nhận thức và
cải tạo thế giới hiện thực một cách năng động dưới sự chi phối của lý tính,
tinh thần, ý thức.
Thực tiễn
không phải là một loại hoạt động tinh thần như chủ nghĩa duy tâm quan niệm,
mà đó là hoạt động mang tính vật chất hiện thực. Tại sao thực tiễn được coi
là hoạt động khách quan? Trước hết, yếu tố cấu thành hoạt động thực
tiễn là khách quan. Nói cụ thể hơn, chủ thể thực tiễn (con người) là
khách quan. Thứ nữa, kết quả thực tiễn là khách quan. Kết quả của thực tiễn
độc lập với ý thức của con người và tồn tại khách quan. Cuối cùng, quá
trình thực tiễn cũng là khách quan. Quá trình của thực tiễn là hoạt động vật
chất biến đổi hiện thực. Mức độ, chiều rộng, chiều sâu và trạng thái phát
triển của toàn bộ quá trình đó đều chịu sự chế ước của điều kiện vật chất
khách quan và sự chi phối của quy luật khách quan. Do đó, thực tiễn là hoạt
động khách quan.
Con
người là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá, phát triển trong quá trình vận
động lâu dài của giới tự nhiên, là thứ linh thiêng nhất trong vạn vật. Tuy
nhiên, con người vẫn là một dạng tồn tại vật chất hiện thực, thường xuyên
phải trao đổi (năng lượng và thông tin) với thế giới vật chất hiện thực. Thực
tiễn chính là phương thức cơ bản nhất để con người xử lý mối quan hệ với thế
giới bên ngoài một cách tự giác. Nó không giống với quan điểm, lý luận có
tính trừu tượng và phổ biến, cũng không phải là hoạt động tư duy được thực
hiện trong bộ não người, mà là hoạt động vật chất khách quan khác biệt với
hoạt động ý thức chủ quan, là một dạng hoạt động vật chất hiện thực vượt lên
trên tính chủ quan, hướng về thế giới bên ngoài và khiến cho thế giới vật
chất khách quan phát sinh những biến đổi thực sự; có đầy đủ tính hiện thực
trực tiếp và tính thực tại khách quan. V.I.Lênin đã chỉ rõ:
"Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), bởi nó không chỉ
có đầy đủ phẩm chất của tính phổ biến mà còn có cả phẩm chất
của tính hiện thực trực tiếp"(1).
Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người tác động đến thế giới cảm tính khách quan bên
ngoài; từ đó, hình thành mối quan hệ giữa bản thân mình như một thực thể cảm
tính với đối tượng cảm tính, dùng hoạt động thực tiễn cảm tính phù hợp với
tính chất đối tượng để tạo nên sự thay đổi hợp tính mục đích của đối
tượng cảm tính. Đồng thời, lý luận, nhận thức mới của con người tác động trở
lại, được ứng dụng và chuyển hóa thành tồn tại có tính hiện thực trực tiếp.
Thực tiễn là một loại hoạt động cảm tính, chứ không phải là hoạt động khách
quan của tư duy và ý thức con người. Thực tiễn không phải là hoạt động
chủ quan ở bên trong, mà là hoạt động khách quan ở bên ngoài thực tại.
Triết học Mác
lý giải thực tiễn là một loại hoạt động hiện thực cảm tính, nó không chỉ vạch
ra một ranh giới rõ ràng với các nhà duy tâm chủ nghĩa – những người lý
giải thực tiễn thành hoạt động tinh thần trừu tượng, mà còn khắc phục khuyết
điểm căn bản của chủ nghĩa duy vật cũ - không thấy hoạt động của con
người là hoạt động khách quan. Triết học Mác khẳng định vận động xã hội là hình thức cao nhất của vận động
vật chất có đầy đủ tính hiện thực khách
quan, từ đó kiên định nguyên tắc của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Có thể thấy rằng, thực tiễn là tất cả
các hoạt động vật chất khách quan, mang tính xã hội nhằm cải tạo
nhận thức và thế giới hiện thực một cách có mục đích, năng động, đồng
thời tồn tại ngoài ý thức, không lệ thuộc vào ý thức chủ quan của con
người.
2. Tính năng
động của thực tiễn
Thực
tiễn là hoạt động biến đổi thế giới khách quan, có đầy đủ tính năng động.
Tính năng động của thực tiễn được đề cập ở đây là sự thể hiện tính chủ
thể của thực tiễn, là tính nỗ lực tự giác, tính tích cực của con người trong
hoạt động thực tiễn. Mao Trạch Đông viết: "Tất cả mọi việc đều do con
người tiến hành, sẽ không có thắng lợi cuối cùng nếu không có con người kiên
trì đấu tranh và thực hiện. Nhất thiết phải có con người căn cứ vào thực
tế khách quan và được tư tưởng dẫn dắt, chỉ đạo,… thì mọi phương châm, chính
sách, chiến lược, chiến thuật mới có thể thực hiện được. Những thứ như
tư tưởng chỉ là cái chủ quan, việc làm hoặc hành động là sản phẩm của sự kết
hợp giữa chủ quan với khách quan. Tất cả những điều đó đều biểu hiện
tính năng động đặc thù của con người. Chúng ta gọi tính năng động này là
"tính năng động tự giác" cái
khiến con người khác với con vật. Tất cả những tư tưởng có căn cứ và phù hợp
với hiện thực khách quan là tư tưởng đúng đắn, tất cả những việc làm hay hành
động căn cứ vào tư tưởng đúng đắn là hành động đúng đắn. Chúng ta cần
phải phát huy những tư tưởng và hành động như vậy, cần phải phát huy tính
năng động tự giác ấy"(2).
Trong thực
tiễn, con người không chỉ dựa vào các hình thức nhận thức cảm tính, như cảm
giác, tri giác, biểu tượng để phản ánh hiện tượng bên ngoài của sự vật, mà
còn vận dụng hình thức nhận thức lý tính với các khái niệm, phán đoán, suy
luận, v.v. để tái hiện bản chất và quy luật của sự vật. Nó không những
"phục chế" lại được đối tượng trước mắt, mà còn có thể tiến xa
hơn, dự đoán tương lai, làm bộc lộ sâu sắc những điều bí ẩn của tự nhiên
và xã hội, năng động cải tạo thế giới. Mao Trạch Đông chỉ rõ: "Tính
năng động tự giác là đặc điểm của con người. Con người bộc
lộ đặc điểm ấy một cách rõ ràng nhất trong chiến tranh. Sự
thắng thua trong chiến tranh, đương nhiên được quyết định bởi các
điều kiện quân sự, chính trị, kinh tế, địa lý, tính chất chiến tranh,
viện trợ quốc tế của hai bên, song không hoàn toàn như vậy. Nếu chỉ có thế
thì mới là có khả năng thắng bại, tự chúng không thể phân định thắng
thua. Muốn phân thắng bại, còn phải có thêm nỗ lực chủ quan, đây mới là cái
chỉ đạo và thực hiện chiến tranh. Nó chính là tính năng động tự giác trong
chiến tranh"(3).
Trong
hoạt động thực tiễn, con người không những có thể xúc tiến quá trình biến đổi
thế giới khách quan, mà còn có thể sáng tạo ra những thứ mà nếu thiếu sự tham
dự thực tiễn của con người thì sẽ không thể có được. Mao Trạch Đông nói:
"Những người chỉ đạo chiến tranh không thể vượt qua giới hạn mà điều
kiện khách quan cho phép để tìm kiếm thắng lợi chiến tranh, mà chỉ có
thể trong giới hạn điều kiện khách quan và năng động tranh thủ các điều kiện
đó để giành thắng lợi. Vũ đài hoạt động của người chỉ huy chiến đấu nhất
thiết phải xây dựng trên cơ sở điều kiện khách quan, từ đó họ dựa vào vũ đài
ấy mà đạo diễn những vở kịch có thanh có sắc, uy vũ hùng tráng"(4). Một mặt, con người cần
tôn trọng tính khách quan của thế giới vật chất và quy luật vận động của nó,
khi làm việc cần xuất phát từ thực tế, thực sự cầu thị; mặt khác, con
người cũng cần đặc biệt coi trọng việc phát huy tính năng động của thực tiễn,
trong phạm vi điều kiện khách quan cho phép, phát huy đầy đủ và chính xác
tính năng động của thực tiễn, dốc sức làm tốt công việc.
Sự tồn tại và
phát triển của con người không thể tách rời thế giới khách quan. Song,
thế giới khách quan lại không thể luôn thích ứng với nhu cầu sinh tồn và
phát triển của con người. Vì vậy, nhằm làm cho thế giới khách quan thích ứng
với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, con người nhất thiết phải phát
huy tính năng động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan. V.I.Lênin chỉ ra
rằng, "Thế giới sẽ không thoả mãn con người, mà con người phải quyết tâm
lấy hành động của mình để cải tạo thế giới"(5).
Tính
chủ thể của thực tiễn là một loại tính năng động. C.Mác đã khẳng định:
"Trong khi cải tạo thế giới đối tượng, con người mới có thể chứng minh
được tính tồn tại loài của mình. Kiểu sản xuất này là đời sống loài của
sự năng động người. Thông qua sự sản xuất ấy, giới tự nhiên mới biểu hiện
thành tác phẩm của con người và hiện thực của con người. Do đó, đối tượng của
lao động là sự đối tượng hoá đời sống loài của con người: con người không chỉ
tái hiện mình một cách lý trí trong ý thức, mà còn tái hiện mình một cách
năng động, hiện thực, từ đó có trực quan về bản thân trong thế giới mà mình
sáng tạo"(6).
Khi bàn tới
tính năng động của thực tiễn, C.Mác viết: “Đầu tiên lao động là quá trình
giữa con người và tự nhiên, con người đem hoạt động của mình để khơi gợi,
điều chỉnh, dẫn dắt và khống chế quá trình biến đổi vật chất giữa con người
và tự nhiên, bản thân con người là một loại vật chất tự nhiên và đối lập lại
vật chất tự nhiên. Để chiếm hữu vật chất tự nhiên trên cơ sở hình thức có lợi
cho đời sống của mình, con người đã khiến những sức mạnh tự nhiên trên thân
thể mình – vai và chân, đầu và tay vận động. Thông qua sự vận động này, họ
tác động và cải biến tự nhiên bên ngoài cơ thể mình, đồng thời cải biến cái
tự nhiên trong chính họ. Họ khiến tiềm lực còn “ngủ quên” trong cái tự nhiên
của mình được phát huy, đồng thời khiến hoạt động của loại sức mạnh này chịu
sự chi phối của bản thân họ”(7). Trong quá trình lao động thực tiễn, để chiếm
hữu vật chất tự nhiên trên cơ sở hình thức có lợi cho bản thân, con người
khiến cho sức mạnh tự nhiên trong bản thân mình vận động. Đồng thời, con
người còn khiến cho khí quan cảm giác và tư duy của mình cũng vận động, đem
tính năng động của mình đối tượng hoá vào trong đối tượng, sáng tạo nên một
thế giới mang tính đối tượng.
Thực tiễn là
hoạt động mang tính đối tượng. Trong thực tiễn, trước hết chủ thể thiết lập
một đối tượng mục đích, đồng thời đối tượng hoá nó, tức là khách thể hoá.
Cuối cùng, trong kết quả thực tiễn, con người sáng tạo nên một thế giới đối
tượng. Hoạt động mang tính đối tượng của thực tiễn, trên thực tế, là một loại
hoạt động năng động.
Quá trình
thực tiễn là quá trình đối tượng hoá năng động. Hoạt động thực tiễn của con
người nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó, đạt đến mục đích nào đó. Chỉ có lựa chọn
mục tiêu thực tiễn đúng nhất mới khiến quá
trình thực tiễn ngày càng tiến bộ. Mỗi một thế hệ người chỉ có tiến hành quá
trình thực tiễn ngày càng tiến bộ mới có thể khiến cả xã hội loài người ngày
càng tiến bộ. Như vậy, mới có thể thực thi sự tác động lẫn nhau giữa tính
năng động thực tiễn và tiến bộ xã hội: sự phát huy đầy đủ tính năng động thực
tiễn có lợi cho sự tiến bộ xã hội; ngược lại, tiến bộ xã hội thúc đẩy sự phát
huy đầy đủ tính năng động thực tiễn.
Tính năng
động của thực tiễn có quá trình phát triển của nó. Trong các điều kiện lịch
sử xã hội khác nhau, trình độ phát huy tính năng động của thực tiễn là không
giống nhau.
Các công việc
trong thế giới đều cần có con người thực hiện. Khi con người làm bất cứ việc
gì, đều cần phát huy tính năng động của thực tiễn. Trình độ phát huy tính
năng động thực tiễn của con người trực tiếp quyết định thành tựu lớn hay nhỏ
của hoạt động thực tiễn con người. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là sự
nghiệp của hàng triệu con người. Trong bối cảnh Trung Quốc đang xây dựng và
hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội, việc huy động tối đa sự nỗ lực tự giác, tính
tích cực hoạt động thực tiễn của quảng đại quần chúng nhân dân, phát huy tính
năng động thực tiễn của mọi tầng lớp trong xã hội chính là sự đảm bảo cơ bản
cho việc thực hiện mục tiêu to lớn đó.
Trong phạm vi
điều kiện khách quan cho phép, việc phát huy tính năng động thực tiễn, đối
với bất cứ sự thành công nào, đều đóng vai trò rất lớn. Để phát huy tính
năng động thực tiễn, nhất thiết phải dựa vào những điều kiện vật chất và
các biện pháp vật chất nhất định. Không có cơ sở hiện thực, thì bất luận có
phát huy tính năng động thực tiễn đến thế nào, cũng không thể tạo ra bất cứ
thứ vật chất nào. Ngay cả khi đã có những tiền đề vật chất cần thiết cho
sự cải tạo, cũng vẫn phải dựa vào điều kiện vật chất nhất định, lợi dụng các
phương pháp kỹ thuật vật chất nhất định, như công cụ, cơ khí, v.v. mới có thể
chuyển hoá sự vật trong quan niệm thành sự vật vật chất trong hiện thực.
Muốn phát huy
tính năng động thực tiễn, cần phải lấy việc tuân thủ quy luật khách quan của
sự vận động vật chất làm cơ sở và tiền đề. Tính năng động của hoạt động thực
tiễn con người, về thực chất, chính là con người vận dụng tri thức về quy
luật khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan. Nhận thức về quy luật khách
quan càng sâu sắc, càng chắc chắn, thì càng phát huy được tính năng động của
thực tiễn. Khi rời xa quy luật khách quan và điều kiện hiện thực, con người
không những không thể phát huy tính năng động thực tiễn một cách chính xác,
mà còn gặp phải sự trừng phạt của quy luật khách quan. Mao Trạch Đông viết:
"Con người muốn giành được thắng lợi trong công việc, tức cái kết quả
trong dự đoán, thì nhất định phải làm cho tư tưởng của mình phù hợp với tính
quy luật của thế giới khách quan, nếu như không phù hợp thì sẽ chuốc lấy thất
bại trong thực tiễn. Con người, sau khi trải qua sự thất bại, đã nhận được
bài học từ sự thất bại đó. Nếu biết cải biến tư tưởng của mình cho phù hợp
với tính quy luật của thế giới bên ngoài, con người sẽ có thể biến thất bại
thành thắng lợi. Câu "thất bại là mẹ thành công" chính nhằm nói
về đạo lý ấy"(8). Do vậy, nhất định
phải kết hợp sự phát huy tính năng động thực tiễn với việc tôn
trọng quy luật khách quan, kết hợp nhiệt tình thực tiễn cao độ với thái
độ khoa học hiện thực.
3. Quan hệ
giữa tính khách quan và tính năng động của thực tiễn
Hoạt động
thực tiễn của con người có tính chất phù hợp với quy luật, phù hợp với tính
mục đích. Hoạt động thực tiễn của con người mang tính khách quan và năng
động. Tính khách quan và tính năng động của thực tiễn thống nhất biện chứng
với nhau. Một mặt, khách thể thực tiễn có tính chế ước khách quan đối
với chủ thể thực tiễn; mặt khác,
chủ thể thực tiễn có thể tác động, cải tạo khách thể thực tiễn. Trong hoạt
động thực tiễn, chủ thể thực tiễn buộc phải chịu sự chế ước của tự nhiên, xã
hội và sự chế ước tự thân của chủ thể thực tiễn; đồng thời, chủ thể thực tiễn
lại là người cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Hoạt động thực
tiễn của con người là sự thống nhất giữa tính khách quan thực tiễn và tính
năng động thực tiễn.
Việc
nghiên cứu tính khách quan và tính năng động của thực tiễn cũng như quan hệ
giữa chúng cần được tiếp tục phát triển nhằm đạt đến những kết quả mới. Tuỳ
theo mức độ nghiên cứu sâu tính khách quan, tính năng động của thực tiễn và
mối quan hệ giữa chúng mà trình độ tính chủ thể thực tiễn của con người ngày
càng cao hơn.r
Người dịch:
TRẦN THỊ THÚY NGỌC
(Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
(*) Bài đăng trên Tạp chí khoa học Tấn Dương, số 5, 2004 (tiếng
Trung).
([i])
V.I.Lênin. Toàn tập, t. 55. Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1990, tr 183.
(2)
Tuyển tập Mao Trạch Đông, t.2, Nxb Nhân dân Trung Quốc,
1991, tr 477.
(3) Tuyển tập Mao Trạch Đông. Sđd., t.2, tr 478
(4)
Tuyển tập Mao Trạch Đông. Sđd., t.2, tr 478.
(5) V.I.Lênin. Sđd., tr 183.
(6)
C.Mác – Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Nhân dân Trung Quốc, 1979, tr
97.
(7) C.Mác – Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr 201 – 202.
(8) Tuyển tập Mao
Trạch Đông. Sđd., t.1, tr 284
|