Cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, lịch sử phát triển tư tưởng Việt Nam nói chung,
tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng đã có sự chuyển biến về chất, đặc biệt
là sự chuyển biến của tư tưởng yêu nước Việt Nam từ truyền thống sang hiện
đại. Đây là vấn đề quan trọng, thu hút nhiều công trình nghiên cứu, nhưng đến
nay, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Bài viết này góp phần làm rõ khái
niệm tư tưởng yêu nước, tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam; làm rõ bối
cảnh lịch sử trong nước, khu vực và quốc tế đã tác động đến tư tưởng yêu nước
và dẫn đến sự chuyển biến của tư tưởng yêu nước từ truyền thống sang hiện
đại; vai trò của Hồ Chí Minh, nội dung tư
tưởng yêu nước hiện đại, đặc sắc ở Hồ Chí Minh.
1.
Tư tưởng yêu nước, tư tưởng yêu nước Việt Nam truyền thống
Xã hội, dưới bất cứ hình thức nào,
cũng là sự tác động qua lại giữa người và người. Mối liên hệ phụ thuộc, gắn
bó giữa con người và con người trong quá trình nhận thức và cải tạo hiện thực
đã làm xuất hiện các cộng đồng người tiến hoá dần từ bầy người nguyên thuỷ
đến thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự hình thành và phát triển các hình
thức tồn tại của con người trong các cộng đồng dân tộc nhất định trên những
đất nước hay lãnh thổ khác nhau, trong những điền kiện tự nhiên và sinh hoạt
văn hoá khác nhau, hình thành nên mạng lưới các quan hệ ngày càng phức
tạp. Đó không chỉ là quan hệ trong hoạt động sản xuất, mà còn là quan hệ
trong hoạt động tinh thần. Sự phát triển cao của hình thức cộng đồng xã hội
mang tính ổn định đó là cộng đồng quốc gia dân tộc. Hoạt động thực tiễn của
con người trong các quốc gia dân tộc chiếm vị trí trung tâm là hoạt động xây
dựng và bảo vệ quốc gia dân tộc. Từ đó mà hình thành nên ý thức về xây dựng
và gìn giữ đất nước, quốc gia dân tộc, ý thức yêu nước, chủ nghĩa yêu nước.
Như vậy, tư tưởng yêu nước là tư
tưởng và tình cảm phổ biến của nhân dân ở mọi cộng đồng quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Bởi thế, nó là đối tượng thu hút sự quan tâm của khoa
học xã hội và nhân văn. Tuỳ theo góc độ tiếp cận, khái niệm yêu nước đã được
nghiên cứu, làm rõ ở các khía cạnh khác nhau.
Dưới góc độ tâm lý học, yêu nước
được coi là một tình cảm bậc cao. Tình cảm yêu nước xuất hiện trong quá trình
hình thành và phát triển cộng đồng quốc gia dân tộc. Là một trình độ nhận
thức xuất phát từ chính nhu cầu tồn tại và phát triển của cộng đồng dân tộc,
khi đã hình thành, tình cảm yêu nước không chỉ là mục tiêu, mà còn trở thành
một bộ phận quan trọng, một động lực thúc đẩy hành động của mỗi cá nhân và
toàn thể cộng đồng. Tình cảm yêu nước phát triển là cơ sở để hình thành nên
tư tưởng yêu nước, ý thức yêu nước.
Dưới góc độ đạo đức học, yêu nước
là một giá trị đứng đầu bậc thang giá trị của dân tộc, là tiêu chuẩn cao nhất
của đạo lý các dân tộc, đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển của mỗi dân
tộc.
Dưới góc độ triết học và từ khía
cạnh triết học nhân sinh, tư tưởng yêu nước là một bộ phận của ý thức xã hội,
là mặt tinh thần của đời sống xã hội hiện thực, bị quy định bởi tồn tại xã
hội nhưng vẫn có tính độc lập tương đối trong quan hệ với tồn tại xã hội. Tư
tưởng yêu nước, đương nhiên, có mối quan hệ chỉnh thể hữu cơ với tình cảm yêu
nước, với nền tảng triết học nhân sinh. Với cái nhìn như vậy, các tác giả Từ
điển triết học giản yếu đã giải thích: “Yêu nước là một trong những tình
cảm sâu sắc nhất được củng cố bởi sự tồn tại hàng trăm, hàng nghìn năm của
những Tổ quốc riêng rẽ, yêu nước là tình yêu, lòng trung thành với Tổ quốc, ý
thức phục vụ Tổ quốc”(1). Hay cũng có thể định nghĩa về yêu nước: “Yêu nước
là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình
yêu và lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện
tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc”(2).
Về tiến trình hình thành tư tưởng
yêu nước, các định nghĩa trên đây đều cho rằng, nó là sự phản ánh hiện thực,
phụ thuộc vào các điền kiện lịch sử - cụ thể: “xã hội nguyên thuỷ đã có mầm
mống của tư tưởng yêu nước (dựa trên tình cảm huyết thống giữa các thành viên
của thị tộc hay bộ lạc). Khi xã hội nguyên thuỷ tan rã, tình cảm tự nhiên gắn
bó với quê hương, tiếng mẹ đẻ, v.v., kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của
người dân đối với cả cộng đồng xã hội đã được thiết lập. Chủ nghĩa yêu nước
biển hiện trong ý thức mong muốn cho Tổ quốc được phát triển về kinh tế, xã
hội và văn hoá, bảo vệ Tổ quốc chống lại sự xâm lược của nước ngoài. Cùng với
sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu
là một yếu tố trong tâm lý xã hội đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực
lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ Tổ quốc
chống xâm lược...”(3).
Ở Việt Nam, cộng đồng dân tộc được
hình thành từ sớm do điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, văn hoá,… nên tư
tưởng yêu nước cũng hình thành sớm và được phát triển ngày một phong phú, sâu
sắc. Nó là bộ phận chính yếu của đời sống tinh thần nói chung, lịch sử tư
tưởng triết học của dân tộc nói riêng. Sự phát triển của tư tưởng yêu nước là
sợi chỉ đỏ của lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam. "Yêu nước là một truyền thống lớn của dân tộc. Nhưng yêu nước có
thể là một ý chí, một tâm lý, một tình cảm xã hội, đồng thời cũng có thể là
những lý luận. Với tư cách là một bộ phận của lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, tư tưởng yêu nước phải được xét trên bình diện lý luận, mà ở đây là lý
luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền; về chiến lược và sách lược
chiến thắng kẻ thù, về nhận thức và vận dụng quy luật của cuộc chiến tranh
giữ nước, tức là những vấn đề lý luận lớn làm cơ sở cho chủ nghĩa yêu
nước"(4).
Như vậy, tư tưởng yêu nước Việt
Nam chính là sự phản ánh các yêu cầu đặt ra của tồn tại xã hội Việt Nam trong
qúa trình xây dựng và phát triển đời sống cộng đồng dân tộc; đồng thời,
nó tác động trở lại cuộc sống đó. Nói cách khác, nó vừa là kết quả của cuộc
đấu tranh để cộng đồng dân tộc Việt Nam sinh tồn, phát triển, vừa là nguyên
nhân, động lực thúc đẩy quá trình đó. Từ khi được hình thành trong thời kỳ
dân tộc sơ khai, tư tưởng yêu nước Việt Nam đã và đang vận động phát triển
ngày một hoàn thiện hơn. Khái quát sự vận động đó với tính cách một quá trình
nhận thức, chúng ta có thể thấy rằng, giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Mười,
cùng với sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
tư tưởng yêu nước Việt Nam hiện nay đã đạt đến trình độ hiện đại. Nói đến tư
tưởng yêu nước truyền thống là nói đến giai đoạn phát triển của tư tưởng yêu
nước từ những thời kỳ đầu dựng nước, giữ nước cho đến những năm cuối
thế kỷ XIX, mà đỉnh cao của nó là những nội dung tư tưởng yêu nước đặt trên
cơ sở nền tảng thế giới quan và nhân sinh quan phong kiến phương Đông. Nội
dung cơ bản của tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam là giá trị bền vững
của độc lập dân tộc và cố kết cộng đồng để bảo vệ và giành độc lập dân tộc
trước sự xâm lược và đô hộ của các thế lực bên ngoài, để xây dựng và phát
triển đất nước.
Bước chuyển từ tư tưởng yêu nước
Việt Nam truyền thống lên trình độ hiện đại là cả một thời đoạn lịch sử: từ
khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam cho tới khi Hồ Chí Minh tiếp nhận những
tư tưởng tiến bộ của phương Tây, phương Đông; cải tạo nó và đặt trên cơ sở
thế giới quan, nhân sinh quan tiên tiến nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin, coi đó
là cơ sở nền tảng của nhận thức mới, lý luận mới về con đường cứu nước, cứu
dân. Chính Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng yêu nước truyền thống lên một trình độ
mới, hiện đại. Để thấy được ý nghĩa những nội dung chuyển biến mới về chất
của tư tưởng yêu nước hiện đại thể hiện ở Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải trở
lại bối cảnh lịch sử, xem xét cơ sở hiện thực khách quan của bước chuyển biến
đó.
2. Những
tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam và thế giới cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX cho sự chuyển biến tư tưởng yêu nước
Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra
những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội tư bản. Mâu thuẫn đó làm cho phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc và phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ngày càng phát triển và gắn
bó với nhau. Vì lợi ích của các tập đoàn tư bản mà chủ nghĩa đế quốc đã phản
lại các mục tiêu lý tưởng của thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang lên. Sự xâu xé
lợi ích giữa các nước đế quốc đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất
1914 -1918, gây thêm nhiều tai hoạ cho nhân dân các nước. Để giải quyết mâu
thuẫn, không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga 1917 nổ ra và thắng lợi đã mở ra một
thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Nó gắn sự thức tỉnh của nhân dân các nước thuộc địa và
phụ thuộc với các phong trào vô sản. Tại Nga, vào năm 1919, Quốc tế Cộng sản
III ra đời và hoạt động của nó có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế
giới; trong đó có phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt là ở Việt Nam.
Trước đó và lúc bấy giờ, những biến động mạnh mẽ của các nước trong phạm vi
Đông Á, như vận động Duy tân của Minh trị Nhật Bản (1868); vận động biến pháp
Duy Tân (1898), vận động dân chủ tư sản (1905-1912) và cách mạng vô sản sau
Ngũ tứ vận động (1919) ở Trung Quốc, đều tác động rất lớn đến sự chuyển biến
tư tưởng yêu nước ở Việt Nam trong giai đoạn này, góp phần quyết định nội
dung nhảy vọt về chất của tư tưởng yêu nước Việt Nam.
Tuy nhiên, tác động trực tiếp đến
sự chuyển biến của tư tưởng yêu nước Việt Nam hơn cả là sự chuyển biến trong
lòng xã hội Việt Nam từ sau khi thực dân Pháp xâm lược (1858) đến nửa
đầu thế kỷ XX. Sau khi chiếm được Việt Nam, về chính trị, thực dân
Pháp chủ trương duy trì chế độ thực dân nửa phong kiến, dùng bộ máy phong kiến
chuyên chế lạc hậu làm công cụ thống trị, đàn áp các phong trào phản kháng
của nhân dân ta.
Về kinh
tế, một mặt, chúng tiếp tục triệt để lợi dụng các hình thức
kinh tế cổ truyền để bóc lột tài nguyên và nguồn lực có sẵn, duy trì phương
thức sản xuất cổ hủ, lạc hậu. Mặt khác, chúng bắt tay vào công cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1919), lần thứ hai (1919 – 1929), dẫn đến sự
thay đổi kết cấu nền kinh tế và làm tăng sự phụ thuộc vào chính quốc, trở
thành sân sau của chính quốc, phục vụ cho đường lối phát triển chủ nghĩa tư
bản độc quyền ở chính quốc. Sản phẩm của hai đợt khai thác này là sự
xuất hiện một số trung tâm kinh tế thành thị kiểu phương Tây, như Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng... Cùng với các cơ sở sản xuất công nghiệp,
giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc cũng có bước phát triển kiểu
phương Tây. Ngoài ra, các ngành khai khoáng, công nghiệp chế biến, khai thác
đồn điền cũng đã làm nảy sinh các trung tâm tập trung giai cấp công nhân.
Về văn
hoá, tư tưởng, thực dân Pháp thi hành chính
sách văn hoá, giáo dục ngu dân. Mặc dù bị cấm đoán, bị ngăn chặn, nhưng đầu
thế kỷ XX, các tư tưởng duy tân dân chủ tư sản của phương Tây vẫn được du
nhập vào Việt Nam qua sách báo chữ Hán, chữ Nhật (Tân thư, Tân văn) và được các
nhà Nho yêu nước duy tân tiếp nhận, trở thành vũ khí tư tưởng mới cho phong
trào dân tộc dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX. Thực dân Pháp đã đàn áp các phong
trào yêu nước dân chủ tư sản trong máu lửa. Tiếp đó, thực tiễn yêu cầu cần có
lý luận yêu nước mới, nên chủ nghĩa Mác – Lênin, qua sách báo và tiếp xúc
trực tiếp theo các ngả đường Pháp, Nga, Trung Quốc, đã được các thanh niên
trí thức yêu nước tân học tiếp nhận và truyền bá vào Việt Nam, mà người đại
diện tiêu biểu là Hồ Chí Minh - Người đã hoàn thành xuất sắc việc “nâng
cấp” tư tưởng yêu nước Việt Nam từ truyền thống lên trình độ hiện đại.
Về cơ
cấu xã hội, xã hội Việt Nam đến nửa đầu thế
kỷ XX đã có sự phân hoá sâu sắc so với trước. Giai cấp phong kiến địa chủ,
trừ một thiểu số nhỏ có tinh thần yêu nước chống Pháp, còn tuyệt đại bộ phận
cam chịu làm tay sai cho thực dân Pháp. Giai cấp nông dân chịu nhiều áp bức,
“một cổ hai tròng”, một bộ phận nông dân bị bần cùng hoá trở thành những
người vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành từ tác động của hai cuộc
khai thác thuộc địa. Họ là lực lượng quan trọng trong các biến cố xã hội, đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và gắn chung số phận với người dân
mất nước bị đoạ đầy đau khổ. Giai cấp tiểu tư sản và tư sản Việt Nam cũng dần
hình thành sau hai lần khai thác thuộc địa. Nhưng giai cấp tư sản Việt
Nam nhỏ yếu và ra đời muộn. Bộ phận tư sản
mại bản là thiểu số, bộ phận tiểu tư sản và tư sản dân tộc không có điều kiện
phát triển, bị chèn ép, nên ở chừng mực nhất định, họ có tinh thần dân tộc,
yêu nước.
Như vậy, trong
xã hội Việt Nam, trừ một số phần tử phản động làm tay sai cho thực dân Pháp,
phần còn lại đều bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản, chính yếu nổi
bật lúc này là mâu thuẫn giữa một bên là thực dân Pháp và bọn tay sai phản
động với một bên là toàn thể nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam với truyền
thống yêu nước đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh cứu nước, nhưng các phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX lần lượt đều thất bại. Điều này do tính chất hạn chế
của lý luận dẫn đường cho các cuộc đấu tranh đó, mặc dù có kế thừa những giá
trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, nhưng chúng chưa vượt được những mặt
hạn chế lịch sử của tư tưởng yêu nước truyền thống. Phong trào Cần Vương do
các sỹ phu phong kiến lãnh đạo vẫn còn gắn chủ nghĩa yêu nước với quyền lợi
của một dòng họ, một triều đại phong kiến; phong trào nông dân Yên Thế chỉ
chú trọng con đường cứu nước bằng bạo lực của nông dân; những phong trào do
các sĩ phu Duy Tân lãnh đạo, như Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và
những phong trào do các trí thức tiểu tư sản yêu nước, như Lương Ngọc
Quyến, Đội Cấn, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo đều chưa vượt khỏi giới hạn của
tư tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ, chưa bắt kịp yêu cầu của thời đại mới.
Tựu trung lại,
nguyên nhân thất bại chính yếu của các phong trào này là chưa vươn đến được
tính chất hiện đại của lý luận yêu nước, chưa có đường lối ngang tầm thời
đại, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Sự thất bại của
các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, một mặt, cho
thấy cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã bộc lộ ra một cách rõ rệt, sâu
sắc và trầm trọng, cần phải thay đổi tư duy yêu nước, nghĩa là cần phải suy
tư, tìm tòi, hình thành lý luận, tư tưởng, quan điểm mới về con đường, cách
thức, phương pháp cứu dân, cứu nước phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Mặt
khác, chính bài học thất bại của các phong trào đó đã tạo điều kiện, tiền
đề thúc đẩy cho sự hình thành tư duy yêu nước mới, cho sự biến chuyển về chất
từ tư duy yêu nước truyền thống sang tư duy yêu nước hiện đại. Điều đáng nói
là, toàn bộ vận động hiện thực và nhận thức lý luận của các phong trào yêu
nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã chuẩn bị các điều kiện và đặt ra hai
yêu cầu mới cho cách mạng Việt Nam. Thứ nhất, cần phải có một lực
lượng tiến bộ, có đủ sức đoàn kết, tập hợp toàn thể dân tộc thành một khối
thống nhất và lãnh đạo đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lên một trình độ
mới. Thứ hai, cần có một lý luận đúng đắn làm đường hướng cứu nước,
cần có chủ nghĩa yêu nước mang tính hiện đại soi sáng con đường cách mạng.
Đòi hỏi đó của thực tiễn đã được đáp ứng bằng sự xuất hiện của Hồ Chí Minh.
Trải qua nhiều bước thử nghiệm, cuối cùng, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin – hệ tư tưởng tiên tiến nhất
của thời đại. Từ chỗ nhận thức được yêu cầu xây dựng lý luận yêu nước mới, Hồ
Chí Minh đã kết hợp lý luận về con đường cách mạng giải phóng dân tộc gắn với
lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, Hồ Chí Minh là đại diện
tiêu biểu nhất cho xu thế hoàn thiện, hiện đại hóa tư tưởng yêu nước truyền
thống của dân tộc. Quan trọng hơn, chính Người đã dành cả cuộc đời, hy sinh
phấn đấu cho sự nghiệp đó, thực hiện việc hợp nhất giữa "tri và
hành" để biến tư tưởng đó thành hiện thực theo tinh thần cách mạng “cải
tạo” thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân
tích một số nội dung cơ bản thể hiện bước chuyển biến về chất của tư tưởng
yêu nước từ truyền thống đến hiện đại thể hiện ở Hồ Chí Minh.
3. Một
số nội dung cơ bản thể hiện sự chuyển biến mới về chất của tư tưởng yêu nước
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ở Hồ Chí Minh
Trước
hết, điểm nổi bật của bước chuyển biến từ lý luận yêu nước
truyền thống kiểu phương Đông sang lý luận yêu nước cận đại kiểu tư sản
phương Tây và sau đó đạt đến trình độ lý luận yêu nước hiện đại trên lập
trường vô sản được tập trung thể hiện trong bước chuyển ở tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp một cách hài hoà nội dung giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng nhân loại.
Hai là, qua quá
trình trải nghiệm, bằng thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, Hồ Chí Minh
đã hoàn thành bước chuyển biến về lập trường chính trị của lý luận yêu nước:
từ lập trường quân chủ phong kiến Nho giáo hướng tới lập trường dân chủ tư
sản và cuối cùng, dứt khoát hướng tới việc lựa chọn lập trường dân chủ vô sản
hiện đại.
Thứ ba, Hồ Chí Minh
đã hoàn thành việc kế thừa có phê phán lý luận về phương pháp cứu nước trong
truyền thống lịch sử dân tộc và nâng cấp nó lên bằng cách kết hợp với những
hình thức, cách thức cứu nước hiện đại, xây dựng lý luận yêu nước mới. Người
đã sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp tư duy phân tích hiện đại với phương pháp
tổng hợp biện chứng của phương Đông để đưa ra những phương thức yêu nước linh
hoạt, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của cách mạng. Người sử dụng tổng
hợp biến hóa các hình thức yêu nước tương ứng với tương quan thế và lực trong
từng giai đoạn cụ thể. Có khi là phương thức bạo động vũ trang của quần chúng
kết hợp với đấu tranh ôn hòa bằng bạo lực chính trị của quần chúng nhân dân,
kết hợp phương thức đấu tranh vũ trang với phương thức đấu tranh chính trị,
ngoại giao; có khi là phát động thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, văn
hóa... Điều này thể hiện trong các tác phẩm Đường Kách mệnh (1925), Chánh
cương sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) và nhiều tác
phẩm khác...
Thứ tư,
Hồ Chí Minh đã thoát khỏi sự ràng buộc hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống mang tính dân tộc hẹp hòi, vị kỷ, sô vanh kiểu phong kiến, tư sản để
coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, gắn
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, thủy chung, nhân văn,
hiện đại. Nội dung này còn có ý nghĩa sâu săc trong bối cảnh toàn cầu hoá
hiện nay.
Thứ năm, Hồ Chí Minh
đã hoàn thành việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mục tiêu của lý luận yêu
nước Việt Nam: từ chỗ xác định mục tiêu yêu nước là phải đánh đuổi thực dân
Pháp giành độc lập cho dân tộc đến mục tiêu không chỉ là phải giành lại độc
lập cho dân tộc, mà còn là đánh đổ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho
dân cày và đem lại hạnh phúc, dân chủ cho nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó,
Hồ Chí Minh đã phát triển mục tiêu cách mạng Việt Nam lên mức cao nhất - đó
là: "độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội”, giải phóng
dân tộc phải gắn với giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho toàn dân.
Thứ sáu,
để đạt được những mục tiêu cao cả này, Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa lý luận
yêu nước truyền thống về lực lượng cách mạng, mà Người còn vận dụng sáng tạo
lý luận chủ nghĩa Mác đi đến sự phát triển nhận thức mới về lực lượng đại
đoàn kết toàn dân, về vai trò lãnh đạo của cách mạng. Đó là tư tưởng về đảng
cách mạng, về mặt trận đoàn kết toàn dân, về nghệ thuật phân hóa lực lượng
của kẻ thù...
Như vậy, có thể nói, với những nội
dung cơ bản mới mẻ, hợp thời đại, hiệu quả, Hồ Chí Minh là đại diện tiêu biểu
nhất cho bước chuyển biến tư tưởng yêu nước từ truyền thống đến hiện đại.
Người đã không chỉ tiếp tục phát huy những nội dung tư tưởng yêu nước truyền
thống, như tình yêu đất nước, quê hương, xứ sở, sự gắn bó, cố kết giữa những
người dân Việt Nam trong cộng đồng, tình cảm hướng về cội nguồn dân tộc, lòng
tự hào về bản sắc văn hóa, ý thức bảo vệ chủ quyền độc lập của quốc gia, dân
tộc, sự đề cao vai trò "gốc nước" của người dân, ý chí quyết tâm
bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc mà hơn thế, Người đã nhận thức được yêu
cầu mới của thời đại để nâng cấp nội dung tư tưởng yêu nước lên trình độ cao
hơn trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa yêu nước vô sản. Nội dung tư tưởng yêu
nước hiện đại đó của Người hết sức đặc sắc, thể hiện ở những tư tưởng cơ bản,
như coi cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới; coi lý tưởng yêu nước là "không có gì quý hơn độc
lập, tự do", nhưng độc lập, tự do của đất nước phải gắn với chủ nghĩa xã
hội, gắn với quyền lợi của nhân dân, của nhân loại; tư tưởng về sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích toàn nhân loại; tư tưởng
về lực lượng cứu nước, về vai trò lãnh đạo và đại diện cho toàn dân tộc của
giai cấp công nhân và chính đảng vô sản, của các lực lượng chính trị trong
mặt trận đoàn kết dân tộc... Hồ Chí Minh đã mở rộng, nâng cao nội dung lý
luận của tư tưởng yêu nước truyền thống khi đặt nó trên nền tảng triết học
Mác - Lênin, mở rộng chủ nghĩa yêu nước ra khỏi phạm vi dân tộc nhỏ hẹp, vươn
tới chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tư tưởng yêu nước Hồ Chí
Minh là bộ phận quan trọng, chính yếu trong tư tưởng của Người, là bước phát
triển cao nhất của tư duy dân tộc từ truyền thống sang hiện đại. Cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ tiếp tục "soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta thắng lợi", là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là kim chỉ nam hướng dẫn cho chúng ta
trong nhận thức và hành động.
(*)
Tiến sĩ, Trưởng Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
(**)
Tiến sĩ, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
(1)
Từ điển triết học giản yếu. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội, 1997, tr.552.
(2)
Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ, Máxcơva, 1975, tr.712.
(3)
Từ điển triết học giản yếu. Sđd., tr. 552.
4) Giáo trình triết học
Mác - Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 80.
|