Trong
bài viết này, tác giả đã bước đầu có những đánh giá mang tính tổng kết, khái
quát lịch sử đấu tranh giải phóng và bảo vệ Thăng Long – Hà Nội; trên cơ sở đó, rút ra và luận chứng 6 vấn đề
có tính quy luật - những vấn đề mang tính lý luận khoa học và hợp thành hệ
giá trị văn hoá - lịch sử quân sự. Theo tác giả, việc nghiên cứu những vấn đề
có tính quy luật trong lịch sử đấu tranh giải phóng và bảo vệ Thăng Long –
Hà Nội sẽ làm rõ cơ sở khoa học của việc kế thừa, phát triển và phát huy
những giá trị văn hoá - lịch sử quân sự phục vụ sự nghiệp bảo vệ đất nước
hiện nay.
Thăng
Long - Hà Nội đã có hàng nghìn năm văn hiến và là nơi "địa linh, nhân
kiệt", luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử tồn tại và phát triển
của đất nước và con người Việt Nam. Dưới góc độ nhất định, hầu như toàn bộ
lịch sử thành văn của dân tộc ta đều hiện diện ở đây - một trong những kinh
đô đầu tiên và là quốc đô qua hầu hết các thời kỳ lịch sử của đất nước, là
viên ngọc sáng không những trong cuộc đấu tranh bền bỉ chống chính sách đồng
hoá của ngoại bang, mà còn trong chiến đấu chống lại nhiều đội quân xâm lược
hùng mạnh. Kể cả khi không là quốc đô, thì sự nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng
Long - Hà Nội vẫn luôn là điểm hội tụ và toả sáng những nét đẹp văn
hoá quân sự truyền thống của dân tộc, thể hiện ở nhiều chiến công hiển hách
mang ý nghĩa quyết chiến chiến lược, cùng rất nhiều tài năng, anh hùng, nhân
vật lịch sử quân sự. Đương nhiên, nơi đây cũng diễn ra những sự biến mà qua
đó, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích. Việc nghiên cứu
thấu đáo sự nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội mang ý nghĩa đột
phá khẩu để tiến tới tổng kết toàn diện hơn, sâu sắc hơn các bài học kinh
nghiệm trong lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam.(*)
Trong tiếp cận khoa học sự nghiệp bảo vệ, giải phóng
Thăng Long - Hà Nội, có thể thấy tổ tiên ta thường xuyên phải giải quyết
những khía cạnh hết sức cơ bản; bởi lẽ, đây là một vùng địa - quân sự đặc
biệt trong một quốc gia dân tộc có hoàn cảnh lịch sử cũng rất đặc thù. Xét ở
tầm vĩ mô, dân tộc Việt Nam luôn phải thường xuyên chống lại những kẻ thù xâm
lược có tiềm lực quân sự lớn hơn nhiều. Còn xét ở tầm vi mô, Thăng Long - Hà
Nội luôn là một địa bàn mang tính chiến lược quân sự trọng yếu hàng đầu của
đất nước. Chính trong quá trình giải quyết các khía cạnh cơ bản ấy đã hình
thành nên những vấn đề có tính quy luật - những vấn đề mang tính lý
luận, khoa học và hợp thành hệ giá trị văn hoá - lịch sử quân sự, được biểu
hiện tập trung ở những bài học kinh nghiệm lịch sử của sự nghiệp bảo
vệ, giải phóng Thăng Long - Hà Nội. Việc nghiên cứu những vấn đề có tính quy
luật ấy cho phép làm rõ cơ sở khoa học trong việc kế thừa, phát triển,
phát huy những giá trị văn hoá - lịch sử quân sự phục vụ sự nghiệp
bảo vệ Thủ đô Hà Nội hiện nay.
Trước
hết, đó là thường xuyên xác định và nhận thức đúng đắn tầm quan trọng
chiến lược của Thăng Long - Hà Nội trong cả thời bình lẫn thời chiến.
Xác
định đúng đắn tầm quan trọng chiến lược của Thăng Long - Hà Nội là điều kiện
tiên quyết để quy tụ Thăng Long - Hà Nội và cả nước chuẩn bị toàn diện nhằm
bảo vệ yếu địa này. Việc nhận thức rõ ràng và toàn diện tầm quan trọng của
Thăng Long - Hà Nội phụ thuộc rất lớn vào khả năng trí tuệ, trình độ, kinh
nghiệm của các chủ thể quân sự, mà trực tiếp là quân dân sở tại. Lịch sử giải
phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội cho thấy, những triều đại giữ vững được nền
độc lập thường là những triều đại mà các nhà lãnh đạo và nhân dân luôn xác
định, nhận thức đúng tầm quan trọng chiến lược của Thăng Long - Hà Nội ngay
từ thời bình, chuẩn bị kỹ lưỡng và khi có tình huống thì ứng phó mau lẹ, kịp
thời.
Ngay
từ thời tiền Thăng Long, vấn đề chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ vùng yếu địa Cổ Loa
đã được Nhà nước, nhân dân Âu Lạc sớm nhận ra và gắng sức giải quyết thông
qua xây dựng một kinh thành kiêm quân thành kiên cố, đủ sức tự bảo vệ.
Tuy nhiên, Nhà nước Âu Lạc sau đó lại mất cảnh giác trước thủ đoạn "diễn
biến hoà bình" của địch, đến khi nhận ra địch chiếm được Cổ Loa cũng
đồng nghĩa với chiếm cả đất nước thì đã quá muộn. Kể từ chiến thắng oanh
liệt của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, dân tộc ta đã giành lại
quyền làm chủ đất nước và ngay từ đó, tinh thần cảnh giác “khoá chặt cửa ải
phía Bắc” (Bắc môn toả khược) đã được đề cao. Đặc biệt, từ khi trở thành
quốc đô, các nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam đều coi việc phòng bị
kinh đô là một bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược phòng thủ chung của
đất nước. Sự định đô của nhà Lý tại Thăng Long, nơi tuy không có thế giữ
hiểm bằng cựu đô Hoa Lư nhưng lại có thế rồng bay để mở mang nền văn
hiến, chứng tỏ Đại Việt đã đủ sức bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh đô bằng
phương thức không giống như trước, chắc chắn vị trí chiến lược quân sự của
Thăng Long - Hà Nội với tư cách kinh đô mới đã được nhìn nhận toàn diện
hơn nhiều. Các triều đại thời Lý - Trần đều lo việc đắp thành, dựng
luỹ biến miền đất bằng phẳng, không có núi non hiểm trở này thành một căn
cứ phòng thủ vững chắc. Chính sách "ngụ binh ư nông" ra đời.
Triều đình tập trung xây dựng lực lượng vũ trang chủ lực mạnh nhất ở kinh
đô, mở mang đường giao thông thuỷ bộ nối liền Thăng Long với cả
nước để tiện cơ động lực lượng, bố trí quân ở các cửa ải hiểm yếu trên các
ngả đường tiến về Thăng Long, hoặc dựng đồn luỹ ngăn chặn giặc từ xa.
Mặt
khác, việc nhận rõ vị thế chiến lược quân sự cực kỳ quan trọng của Thăng Long
- Hà Nội không đồng nghĩa với việc coi hiểm địa này là nơi duy nhất,
mất nó là mất tất cả. Thời Trần, cả ba lần đều chủ động rút khỏi kinh
thành để bảo toàn lực lượng trước thế giặc mạnh, dụ chúng vào sâu, phát
động chiến tranh toàn dân, kết hợp đánh du kích và đánh vận động tiêu hao
sinh lực địch, rồi thực hiện tiến công giải phóng kinh thành ngay
trong chiến tranh bảo vệ đất nước. Trong chiến tranh giải phóng chống
quân Minh xâm lược, vị trí chiến lược của Thăng Long - Hà Nội được nhận thức
là mục tiêu chiến lược cuối cùng của cuộc kháng chiến, song thực hiện trận
quyết chiến chiến lược lại ở Chi Lăng. Đây là một sự sáng tạo hết sức độc đáo vượt qua các binh thư đã có
thời bấy giờ để kết thúc chiến tranh. Từ nhận thức đúng đắn tầm quan trọng
chiến lược của Thăng Long - Hà Nội, dưới thời Tây Sơn, công cuộc tiến đánh
Bắc Hà, giải phóng Thăng Long là sự kết hợp giữa giải phóng mang tính
thanh lọc triều đình (chống nội phản) với giải phóng mang tính bảo vệ
đất nước (chống ngoại xâm).
Thực
tiễn lịch sử cũng chứng tỏ rằng, khi xác định và nhận thức không đúng
về tầm quan trọng chiến lược của Thăng Long - Hà Nội đối với sự tồn vong và
phát triển của dân tộc Việt Nam, thì chắc chắn sẽ dẫn đến những sai lầm mang
tính chiến lược. Dưới triều Nguyễn, Hà thành gần như bị bỏ ngỏ. Nguyễn
Tri Phương và Hoàng Diệu thừa dũng khí và
tinh thần yêu nước, lại có thành lũy kiên cố và khá đông quân lính nhưng đã
bị đánh bại bởi vỏn vẹn vài trăm quân Pháp, vì triều đình "không cho
đánh". Các cuộc kháng Pháp tiếp đó cũng đã manh nha chiến thuật "nội công, ngoại kích", trong ngoài Hà Nội cùng phối hợp, nhưng do nhận thức không đúng của
triều đình về quyết giữ Hà Nội nên cũng không thành công.
Trong
thời đại Hồ Chí Minh, việc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng chiến
lược của Thăng Long - Hà Nội trong thời bình và thời chiến mang một chất
mới hoàn toàn. Giải phóng và bảo vệ Hà Nội không chỉ tiêu biểu cho việc
khẳng định giá trị của độc lập dân tộc, mà còn tiêu biểu cho việc khẳng định
sức sống của chế độ xã hội mới của dân, do dân, vì dân. Hơn nữa, nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng chiến lược của Hà Nội không phải được "truyền
từ trên xuống" mà là được "nhân bội từ dưới lên", tức là trở
thành một yếu tố tự giác của nhân dân, tạo nên sức mạnh thực sự. Hà Nội được
chọn làm nơi mở đầu, đột phá cho cả nước nổi dậy giành chính quyền. Cách
mạng Tháng Tám thành công, Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam độc lập
và thay mặt quân và dân cả nước tiếp tục cuộc đấu tranh trực tiếp bảo vệ
Trung ương Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ. Chính do nhận thức đúng đắn về
vị trí chiến lược quan trọng của Thủ đô Hà Nội, thể hiện được sức mạnh đoàn
kết của nhân dân cả nước ủng hộ Chính phủ Việt Minh, ủng hộ Hồ Chủ tịch, nên
20 vạn quân Tưởng mặc dù có danh nghĩa đồng minh cũng không thể thực hiện âm
mưu "diệt Cộng - cầm Hồ". Quân Pháp tiếp đó cũng không thể nỗ lực
tập trung lực lượng "đánh nhanh, giải quyết nhanh" tại Hà Nội. Tầm
quan trọng chiến lược của Thủ đô Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ được nhận
thức vừa là trái tim của cả nước, nơi cung cấp dòng máu lành mạnh nuôi dưỡng
cuộc đấu tranh hào hùng "bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước", vừa tiêu biểu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Bảo vệ Thủ đô Hà Nội là bảo vệ Đảng và Nhà nước, cơ quan đầu não
của toàn bộ công cuộc kháng chiến, bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc để chi viện
cho tiền tuyến lớn miền Nam, đồng thời là bảo vệ "thủ đô của lương tri,
phẩm giá con người".
Bài
học về xác định và nhận thức đúng đắn tầm quan trọng chiến lược của Thăng
Long - Hà Nội không chỉ có giá trị khi chiến tranh xảy ra, mà còn có ý nghĩa
cảnh báo sâu sắc ngay trong thời bình. Chính vì vậy, sau khi hoà bình lập
lại, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, song cũng không hề
lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tầm quan trọng chiến lược quân sự của Hà
Nội vẫn được khẳng định. Điều kiện xây dựng thời bình, môi trường hoà bình
trong xu thế quốc tế, bối cảnh hội nhập kinh tế… dễ dẫn đến những nhận thức
lệch lạc, tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, nhất là mất cảnh giác trước những âm
mưu thủ đoạn mới của địch như "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật
đổ… Chính do nhận thức đúng tầm quan trọng chiến lược của Thủ đô ngay trong
thời bình nên cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, Đảng
và Nhà nước ta, mà trực tiếp là Đảng bộ và Chính quyền Hà Nội đã quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân và các lực lượng vũ trang thực hiện tốt nhiệm vụ
phòng, chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ; đồng thời,
chuẩn bị tiềm lực tổng hợp sẵn sàng đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược kiểu
mới của địch ngay trên địa bàn Thủ đô.
Hai
là, phát huy ưu thế của sự kết hợp
trực tiếp giữa Trung ương với địa phương sở tại trong công cuộc giải phóng,
bảo vệ Thăng Long - Hà Nội.
Sự
nghiệp giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội dù diễn ra ở bất cứ thời kỳ
lịch sử nào cũng đều thể hiện song hành hai hệ giá trị: một mặt,
đó là trực tiếp giải phóng, bảo vệ vùng đất, nhân dân, cuộc sống lao động hoà
bình, những giá trị vật chất và tinh thần của chính Thăng Long - Hà Nội; mặt
khác, có ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều là bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ
quốc hồn, quốc tuý dân tộc Việt Nam. Đương nhiên, công cuộc giải phóng, bảo
vệ Thăng Long - Hà Nội không chỉ là trách nhiệm của quân và dân sở tại, mà
còn là trách nhiệm chung của cả nước. Theo đó, sự kết hợp giữa Trung ương với
Thăng Long - Hà Nội trong sự nghiệp này là sự kết hợp trực tiếp. Trong
chiến đấu chống xâm lược, Thăng Long - Hà Nội luôn vì cả nước và cả
nước chiến đấu vì Thăng Long - Hà Nội. Việc bảo vệ, giải phóng Thăng Long
- Hà Nội không đơn thuần là vấn đề quân sự, mà còn là vấn đề chính trị
trực tiếp của cả quốc gia dân tộc, quy tụ sức mạnh tổng hợp từ mọi phương
diện đời sống xã hội, từ mọi miền đất nước, trước hết là sự kết hợp trực tiếp
giữa Trung ương với Thăng Long - Hà Nội. Đây là một ưu thế đặc biệt.
Trong
lịch sử, khi những nỗ lực toàn diện của bộ máy nhà nước trung ương kết nối
trực tiếp được với sức mạnh của quân và dân Thăng Long - Hà Nội thì sẽ
tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để vượt qua thử thách và ngược lại. Thời kỳ
tiền Thăng Long, hầu như mọi sự kiện chính trị của đất nước (với tư cách đại
cộng đồng các bộ tộc Văn Lang - Âu Lạc) đều diễn ra tập trung tại đây. Hơn
nữa, bảo vệ thành Cổ Loa lúc này đồng nghĩa với bảo vệ đất nước, do chính bộ
máy nhà nước trung ương đảm nhiệm. Sự kết hợp giữa Trung ương với địa phương
sở tại trong công cuộc bảo vệ quốc đô không những là trực tiếp mà còn là
một. Các cuộc nổi dậy chống ách đô hộ tiếp đó đều diễn ra theo phương
thức tương tự. Sự "phân công" và "phối kết hợp"
giữa Trung ương với các lộ, phủ… thể hiện rất rõ trong thời Lý - Trần, và mặt
trận Thăng Long luôn tích hợp được sự cộng hưởng trách nhiệm trực tiếp
của triều đình với quân và dân sở tại.
Sự
kết hợp trực tiếp giữa Trung ương với Thăng Long - Hà Nội được phát triển
lên chất mới và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sự kết
hợp vừa mang giá trị truyền thống văn hoá quân sự, vừa được đặt trên cơ sở lý luận khoa học. Mọi
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như những chiến
thắng oanh liệt tại Thủ đô Hà Nội - dù trong chiến tranh giải phóng hay chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc - đều phụ thuộc vào sự kết hợp trực tiếp giữa
Trung ương và cả nước với Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, ưu thế của sự kết hợp trực
tiếp được nhận thức, phát huy toàn diện và sâu sắc theo một hệ thống
đa cấp và có cơ chế ngày càng hoàn thiện.
Trong
sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, việc phát huy ưu thế của sự kết hợp trực
tiếp giữa Trung ương với Hà Nội cho phép giải được những bài toán khó trong
kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng và phát triển thế
trận quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ
phòng, chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch. Khi đất nước ngày càng tiến sâu
vào lộ trình hội nhập, sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh bảo vệ Thủ đô
đang đứng trước nhiều vấn đề mới phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ ưu
thế của sự kết hợp trực tiếp giữa Trung ương với Hà Nội trên mọi lĩnh vực.
Đặc biệt, trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, cùng với những lợi thế do hội
nhập đem lại, chúng ta không thể không thường xuyên cảnh giác, đánh giá đúng
âm mưu, thủ đoạn của địch lợi dụng tình thế này.
|
Ba
là, nêu cao tính chất chính nghĩa,
nhân đạo, nhân văn của chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ đất nước để
tạo ưu thế chính trị - tinh thần trong giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội.
Chỉ
có những cuộc chiến tranh vì một nền chính trị tiến bộ mới tạo được ưu thế
chính trị - tinh thần trong sức mạnh tổng hợp, do chính tính chất chính nghĩa,
nhân đạo, nhân văn của nó quy định, và điều đó càng được thể hiện tập trung ở
sự nghiệp bảo vệ Thủ đô - trái tim của cả nước. Thực tiễn lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta là lịch sử luôn phải đối phó với các đội quân xâm lược
có lực lượng quân sự mạnh hơn nhiều; vì vậy, cần phải sử dụng sức mạnh
tổng hợp mà nòng cốt là ưu thế chính trị - tinh thần. Mặt trận Thăng
Long - Hà Nội luôn là nơi thể hiện trực tiếp nhất, là tiêu điểm của văn hoá
giải phóng, văn hoá giữ nước, nên luôn mang tính chất chính nghĩa, nhân
đạo, nhân văn và phải dựa trên cơ sở ưu thế chính trị - tinh thần để tạo
lực lượng.
Trong
thời đại Hồ Chí Minh, tính chất chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn của sự
nghiệp giải phóng, bảo vệ Thủ đô có bước phát triển mới về chất. Đó là chính
nghĩa triệt để, nhân đạo triệt để và nhân văn triệt để, gắn với tính cách
mạng cải tạo xã hội để nhân dân làm chủ. Đây cũng là thời đại mà tính chất
chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn của công
cuộc bảo vệ Thủ đô có đủ điều kiện, tiền đề chuyển hoá trực tiếp thành
ưu thế chính trị - tinh thần mà mỗi người đều tự giác tiếp thụ, trân trọng,
biết phát huy, muốn phát huy và dám phát huy. Đó là sự thiết lập khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ bản lĩnh, ý chí, kết hợp được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, nối liền truyền thống với hiện tại và hướng tới
tương lai trong toàn bộ sự nghiệp giải phóng, bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Hiện
nay, tuy có những điều kiện mới và đòi hỏi mới, song chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng như công cuộc bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng vẫn
luôn đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong việc phát huy ưu thế chính trị - tinh
thần tạo ra từ tính chất chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn ấy.
Bốn
là, dựa vào ưu thế "địa linh,
nhân kiệt" cũng như truyền thống văn hiến để hình thành và phát huy sức
mạnh giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội.
Cơ
sở của vấn đề này chính là mối quan hệ "thiên
thời - địa lợi - nhân hoà";
trong đó, thiên thời thường không bằng địa lợi và địa lợi chắc chắn không bằng
nhân hoà. Thiên thời của Thăng Long - Hà Nội bao gồm tổng hợp nhiều yếu
tố mà ngày nay ta có thể hiểu tương dung với tình thế và thời cơ giành thắng
lợi trong chiến tranh. Địa lợi là vùng "địa linh", cả ở sự kết
tinh ngầm trong chiều sâu tâm linh lẫn những đặc trưng địa - quân sự "xâm
dị - trì nan". Còn nhân hoà được thể hiện không những ở mặt bằng
dân trí, văn hoá, khoa học, mà còn ở nhân tâm, ý thức cố kết cộng đồng, cách
thức tổ chức xã hội cơ bản dựa trên quan điểm thân dân của các nhà lãnh đạo đất
nước.
Trong lịch sử, nếu đánh mất lợi thế này thì sẽ gặp thất
bại. Nhà Nguyễn do không tận dụng được nguồn sức mạnh được tạo ra từ ưu thế con
người và cộng đồng nhân dân thị thành nơi "địa linh, nhân kiệt" để
hình thành, phát triển sức mạnh tự bảo vệ nên đã rơi vào trạng huống ấy. Sự bế
tắc trong phòng thủ thành Hà Nội dưới triều Nguyễn chính là do có nguồn sức
mạnh mà không biết sử dụng. Hơn nữa, triều đình bại về phương diện
giữ đất, nhưng dân Thăng Long - Hà Nội vẫn thắng về giữ quốc hồn,
quốc tuý của dân tộc. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, người Hà Nội nói riêng và
người Việt Nam nói chung vẫn không hề chịu mất tiếng mẹ đẻ, chữ quốc ngữ, cách
ứng xử hiếu thuận trong gia đình, vẫn ngẩng cao đầu và kiên trì chờ vận nước.
Vận
nước đó chính là tư tưởng thời đại do Nguyễn Ái Quốc truyền về và lập
tức toàn bộ thiên thời - điạ lợi - nhân hoà của Thăng Long - Hà Nội nói riêng,
dân tộc Việt Nam nói chung, được thổi bùng thành ngọn lửa cách mạng. Sức
mạnh giải phóng, bảo vệ trong thời đại Hồ Chí Minh không những mang một chất
mới, mà còn là điểm nhấn quan trọng để góp vào phân định sự hơn hẳn của chế
độ xã hội mới so với toàn bộ lịch sử Việt Nam trước đó. Từ 60 ngày đêm giam
chân quân Pháp đến 12 ngày đêm quật cổ pháo đài bay, từ "vành đai đỏ"
trong Cách mạng Tháng Tám đến vùng quân sự Thủ đô trong chống chiến
tranh phá hoại... đều làm bộc lộ biểu tượng rồng bay của Hà Nội - vùng
đất anh hùng nghìn năm văn hiến. Thiên thời - địa lợi - nhân hoà của Thăng Long
đã thắng, nghìn năm văn hiến Việt Nam đã thắng. Hà Nội xứng đáng được tôn vinh
là Thành phố vì hoà bình, Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người. Như vậy,
Thăng Long - Hà Nội đã và tiếp tục là vùng đất "địa linh - nhân
kiệt" trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Năm là, vận dụng sáng tạo và phát triển nghệ thuật quân sự
Việt Nam trong tiến trình giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội.
Sức
mạnh giải phóng, bảo vệ đất nước và quốc đô, xét đến cùng, phụ thuộc vào các
tiền đề, điều kiện tổng thể hợp thành tiềm lực mọi mặt, song đều phải được
chuyển hoá thành sức mạnh quân sự trực tiếp, trong đó mấu chốt là việc
hình thành, phát triển và phát huy mạnh mẽ nền nghệ thuật quân sự. Do là vùng
đất luôn phải xung kích đối đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược, nên nghệ
thuật quân sự giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội sớm được định hình trong
lịch sử, vừa kết tinh trí tuệ, kinh nghiệm, thể hiện tập trung nghệ thuật quân
sự dân tộc, vừa phù hợp với truyền thống văn hoá quân sự vùng miền đồng bằng,
trung tâm dân cư đô thị, nhất là trên địa bàn quốc đô với vị thế chính trị -
quân sự đặc biệt. Trong thực tiễn, những khía cạnh đặc sắc của nền nghệ thuật
quân sự dân tộc Việt Nam đều được thể hiện tập trung tại vùng đất Thăng Long -
Hà Nội và đều được hình thành, phát triển, thể hiện rực rỡ trước hết tại đây.
Về
chiến lược, đó là nghệ thuật mở đầu, điều tiết
và kết thúc chiến tranh. Về chiến dịch, trong chiến tranh bảo vệ là lập
tuyến phòng thủ nhiều tầng để bảo vệ từ xa; kết hợp giữa phòng thủ tuyến và
phòng thủ khu vực; vừa kìm chân, tiêu hao lực lượng địch, vừa bảo toàn lực
lượng ta; tiến đánh và rút lui đúng lúc, kể cả rút lui chiến lược; kết hợp giữa
tác chiến của lực lượng vũ trang với phòng thủ dân sự... Trong chiến tranh giải
phóng, đó là tập trung sức mạnh vào thời điểm quyết định để giải phóng; chọn
điểm đột phá, trận then chốt quyết định; kết hợp vây thành với diệt viện; đặt
giải phóng Thăng Long - Hà Nội trong một tổ hợp chiến dịch mang tính cao trào
để giải quyết dứt điểm. Về chiến thuật, đó là những cách đánh hết sức đa
dạng: kết hợp giữa cách đánh chiến dịch với tác chiến chiến thuật; đánh liên
hoàn, chia cắt địch, nghi binh lừa địch; kết hợp đánh chính diện với đánh vu
hồi, đánh tiêu diệt với quấy nhiễu, chính binh với kỳ binh; tiến chắc thắng
chắc, song "thần tốc, táo bạo, quyết thắng" khi có thời cơ…
Chất
mới về nghệ thuật quân sự kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại để
giải phóng, bảo vệ Thủ đô trong thời đại Hồ Chí Minh thể hiện: xây dựng lực
lượng vũ trang sẵn sàng làm nòng cốt cho khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền
cách mạng; bảo vệ chính quyền bằng sách lược phân hoá kẻ thù; huy động toàn dân
ủng hộ chính phủ cách mạng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nhiều thứ quân
chuẩn bị kháng chiến; phát huy tinh thần Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Trong chặn địch là cách đánh thành phố: trận địa liên thông, vật cản, pháo đài,
tập kích, phục kích để chủ động phòng thủ; vừa chặn địch vừa bảo toàn lực
lượng; rút lui chiến lược an toàn. Trong kháng chiến là đánh du kích: tập kích,
đột kích, gây rối. Trong tiếp quản Thủ đô là đặt lên hàng đầu nhiệm vụ bảo vệ
cơ sở vật chất bằng sức mạnh đấu tranh của nhân dân do lực lượng vũ trang tại
chỗ làm nòng cốt, giải quyết những vấn đề hậu chiến để chuẩn bị cuộc kháng
chiến mới. Trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, đó là nghệ
thuật phòng không nhân dân Thủ đô: phòng thủ dân sự; đánh trả bằng hoả lực
nhiều tầng của phòng không nhân dân ba thứ quân; hiệp đồng tác chiến giữa các
binh chủng; tiêu diệt máy bay địch và bảo vệ mục tiêu; cách đánh đa dạng… Trong
chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh thắng
chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch là sự phát triển mới về xây dựng thế
trận, lực lượng, cách đánh… ngày càng tiến sát đến yêu cầu dùng công nghệ cao
chống lại cuộc tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao.
Sáu
là, phát triển "chiến
tranh toàn dân" thành "chiến tranh nhân dân" trong sự kết hợp
nhuần nhuyễn với "chiến tranh nhân dân thành phố" và "chiến
tranh nhân dân Thủ đô".
Trong
lịch sử các cuộc chiến tranh cứu nước và chiến tranh giữ nước của dân tộc ta,
kẻ thù thường là những đội quân nhà nghề, mạnh hơn hẳn cả về tiềm lực quốc gia
và thực lực quân sự trực tiếp. Bối cảnh ấy đòi hỏi các nhà lãnh đạo chỉ có con
đường duy nhất là tìm sức mạnh trong nhân dân để xây dựng cả tiềm lực và thực
lực kháng chiến. Lòng yêu nuớc, tinh thần cộng đồng dân tộc trở thành ý thức
thường trực khiến người dân sẵn sàng gác lại lợi ích riêng trước hiểm hoạ ngoại
xâm để đánh lại bất cứ kẻ thù nào. Các triều đại phong kiến tiến bộ đều đã nhận
thức rõ vấn đề này và hình thành nên phương thức chiến tranh toàn dân
giải phóng và bảo vệ đất nước mang đậm bản sắc Việt Nam. Trong thời đại
Hồ Chí Minh, sự tiếp nối tất yếu các cuộc chiến tranh toàn dân nói trên
gắn với sự phát triển nhảy vọt về chất và những thay đổi căn bản về nền tảng
kinh tế - xã hội và chế độ chính trị phát triển mới đã hình thành chiến
tranh nhân dân Việt Nam giải phóng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và
Thủ đô Hà Nội nói riêng.
Xét
riêng ở Thăng Long - Hà Nội, "chiến tranh toàn dân" qua các triều đại
phong kiến phát triển thành "chiến tranh nhân dân" luôn lưu giữ những
đặc trưng tiến hành chiến tranh tại vùng đất chiến lược này để phát triển thành
"chiến tranh nhân dân thành phố", "chiến tranh nhân dân Thủ
đô" trong thời đại Hồ Chí Minh. Vì vậy, để nhận thức đúng, cần có cái nhìn
tổng thể về phạm trù cặp ba: "chiến tranh nhân dân" -
"chiến tranh nhân dân thành phố" - "chiến tranh nhân dân Thủ
đô". Trước hết, phạm trù này mang cái phổ biến của chiến tranh nhân
dân Việt Nam, nhưng không hoàn toàn giống hệt như chiến tranh nhân dân trên các
địa phương khác. Tiếp tục cấp độ khác, nó mang cái đặc thù của chiến
tranh nhân dân Việt Nam trên địa bàn các thành phố, nên có nét riêng so
với các địa bàn nông thôn, rừng núi, biển đảo… Còn ở cấp độ trực tiếp, nó mang cái
đơn nhất của chiến tranh nhân dân thành phố mà quân và dân Thủ đô trực tiếp
tiến hành trên cơ sở sức mạnh của cả nước; diễn ra trên chiến trường đặc biệt
là nơi cả nước hướng về; bảo vệ mục tiêu đặc biệt là trái tim của cả nước - có
tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ tiến trình và kết cục của chiến tranh nhân
dân giải phóng, bảo vệ đất nước. Có thể coi khởi điểm của chiến tranh nhân dân
trong thời đại mới chính là chiến tranh nhân dân Thủ đô - sự kế thừa và
phát triển đến đỉnh cao những tinh tuý của chiến tranh toàn dân trong lịch sử
dân tộc; đồng thời phản ánh những nét đặc thù của đấu tranh vũ trang trên địa
bàn thành phố, cùng những nét riêng phản ánh vị thế, điều kiện đặc
biệt của Thủ đô Hà Nội. Trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ, đó là chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đến
thời kỳ này, phạm trù cặp ba "chiến tranh nhân dân" - "chiến
tranh nhân dân thành phố" - "chiến tranh nhân dân Thủ đô" đã định
hình rõ nét, phát huy tác dụng to lớn.
Đặc biệt, đã có sự phát triển "chiến tranh nhân dân Thủ đô" trong
điều kiện đối đầu với cuộc tiến công hoả lực bằng vũ khí hiện đại của địch.
Về nghệ thuật quân sự, thế trận phòng không nhân dân được xây dựng nhiều tầng
và rộng khắp, lực lượng là lực lượng toàn dân và lực lượng phòng không nhân dân
ba thứ quân, cách đánh của chiến tranh nhân dân Thủ đô cực kỳ đa dạng và sáng
tạo.
Như vậy, sự phát triển từ "chiến tranh toàn
dân" thành "chiến tranh nhân dân" - "chiến tranh nhân dân
thành phố" - "chiến tranh nhân dân Thủ đô" trong sự nghiệp giải
phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội là sự phát triển hợp quy luật, cả về mục
tiêu, phương thức, lực lượng tiến hành chiến tranh, cả về ý nghĩa và giá trị
hiện thực của nó cũng như về nghệ thuật quân sự. Đây là một giá trị lớn và chủ
đạo trong toàn bộ hệ giá trị văn hoá quân sự Thăng Long - Hà Nội, đồng thời là
vấn đề có tính quy luật mang tính đúc kết cô đọng nhất trong lịch sử dân tộc
Việt Nam nói chung, lịch sử hình thành, phát triển, tự bảo vệ của Thăng Long -
Hà Nội nói riêng.
Việc
nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật trong lịch sử bảo vệ, giải phóng Thăng
Long - Hà Nội hiện nay đáp ứng nhu cầu xã hội cấp thiết trong đời sống
văn hoá tinh thần nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước là được hiểu biết, học
tập kinh nghiệm lịch sử nhằm củng cố ý chí tự lực, tự cường, nâng cao lòng tự
hào và tự tôn dân tộc, học những kinh nghiệm hay, tránh lặp lại những sai lầm
từ lịch sử... nhằm vận dụng, phát huy truyền thống vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Cùng với hoạt động xã hội rộng lớn hướng
tới Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, kết quả nghiên cứu những vấn đề cơ bản của sự
nghiệp bảo vệ, giải phóng vùng đất này sẽ là một đóng góp thiết thực và sâu
sắc. Đây là dịp để giới thiệu Thăng Long - Hà Nội - Thủ đô anh hùng, nghìn năm
văn hiến, "Thành phố vì hoà bình" với bè bạn thế giới, trong đó có hệ
giá trị văn hoá - lịch sử quân sự tiêu biểu./.
(*) Thiếu tướng, phó giáo sư, tiến sĩ. Phó giám đốc Học viện
Chính trị - Bộ Quốc phòng.