Chủ Nhật, 13 tháng 2, 2011

4. Quán triệt phương pháp Lịch sử và phương pháp Logic trong nghiên cứu Sử học


Võ Minh Tập[*]

Từ khi triết học ra đời đến nay, thế giới đã có nhiều thay đổi, song nhu cầu hiểu biết và sự say mê tìm tòi, khám phá những quy luật chung nhất của thế giới (giới tự nhiên, xã hội và con người) vẫn luôn thường trực đối với mỗi con người, mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy không phải là “khoa học của mọi khoa học” và hình thức phản ánh thế giới của triết học cũng đã khác, song vai trò của nó không hề giảm đi mà ngược lại, càng thể hiện như một công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Trong xã hội hiện đại, các khoa học chuyên ngành giúp con người hiểu sâu một lĩnh vực cụ thể nào đó của thế giới, còn triết học khái quát những hiểu biết cụ thể ấy để chỉ ra những nét đặc trưng nhất của thế giới, xem xét nó dưới dạng một chỉnh thể thống nhất trong tính đa dạng, chỉ ra các mối quan hệ bản chất, bên trong và tìm ra những quy luật vận động, biến đổi, phát triển của nó để trên cơ sở đó, định hướng hoạt động của con người theo hướng có lợi nhất.
Trong nghiên cứu sử học, việc vận dụng những tri thức triết học (nhất là nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như phép biện chứng duy vật), trong đó có các phạm trù của phép biện chứng duy vật là vô cùng cần thiết và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của các nhà nghiên cứu khoa học lịch sử nói riêng và con người nói chung cách suy nghĩ và hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh. Xin được giới thiệu nội dung vận dụng tính khoa học trong triết học để nghiên cứu sử học để chúng ta tham khảo.

A.    Nhận thức luận Mácxít trong nhận thức sử học
Đây là điểm mấu chốt trong chủ nghĩa lịch sử. Nó quy định sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa chủ quan với chủ nghĩa khách quan khoa học, giữa tính Đảng vô sản với tính khoa học.
Xin khỏi phải trở lại chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Chỉ xin đề cập đến chủ nghĩa chủ quan với chủ nghĩa khách quan khoa học, giữa tính Đảng và tính khoa học.
Về chủ nghĩa chủ quan. Một khi đã coi đối đối tượng của sử học là tồn tại khách quan, kể cả tự nhiên và xã hội, phát triển một cách có quy luật, con người chỉ có thể nhận thức được từng bước qua tư duy  khoa học của mình, mà tư duy khoa học là hữu hạn trước chân lý (tuyệt đối) là vô hạn, nên bất cứ thứ chủ nghĩa chủ quan nào, dù là chủ quan duy tâm hay chủ quan duy vật, đều không tiếp cận được chân lý một cách đúng đắn.
Về chủ nghĩa khách quan. Một khi đã thừa nhận lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đều là tồn tại khách quan và nhờ có tư duy khoa học mà con người ngày càng nhận thức được đúng hơn chân lý lịch sử thì bất cứ ai có được tư duy khoa học đạt đến trình độ cao hơn sẽ nhận thức được chân lý lịch sử cao hơn và đúng hơn.
Các nhà khoa học tư sản cũng đã từ có nhiều người đạt đến trình độ cao của nhận thức so với thời đại của họ. Cụ thể như Đác-uyn với thuyết “Tiến hóa luận” trong sinh vật học đã từng được chủ nghĩa Mác kế thừa trong khoa học, coi như một chân lý khách quan của lịch sử đã được khám phá ra nhờ tư duy khoa học. Liên quan với vấn đề này, chúng ta thấy ngày nay, tiến bộ khoa học-công nghệ của thời đại đã vượt xa chân lý mà Đác-uyn đã tìm ra trong sinh vật học như thụ tinh trong ống nghiệm, ghép cấy bào thai…nhưng khám phá của Ông vẫn có giá trị lịch sử. Hay như nhà khoa học xã hội Mỹ L.Morgan trong công trình Nghiên cứu về con đường tiến bộ của nhân loại từ mông muội qua dã man tới văn minh (1877) đã đạt tới chân lý khoa học nhất định mà F.Ăngghen đã ca ngợi và kế thừa thành tựu trong công trình Nguồn gốc của gia đình, của sử hữu tư nhân và của nhà nước nổi tiếng của mình.
Ngày nay, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc đóng góp lớn vào lịch cử văn hóa và văn minh của nhân loại. Mặc dầu vậy, vẫn không thể phủ nhận được những sai lầm, hạn chế, hoặc do tư duy khoa học chưa đạt tới, hoặc do lợi ích cá nhân che giấu, xuyên tạc đi.
Còn với tư duy khoa học vô sản gắn với tính Đảng của giai cấp vô sản thì về nguyên tắc là luôn thống nhất với tính khoa học. Sự thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học của giai cấp vô sản thể hiện ngay trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác.
Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp vô sản, đồng thời là quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Lập trường chân chính của giai cấp vô sản tức quyền lợi giai cấp chính đáng của nó, đồng thời cũng là sự phát triển của lịch sử. Nguyện vọng của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng nên một xã hội không người bóc lột người, cũng là nhu cầu khách quan của sự tiến bộ xã hội, là một tất yếu lịch sử.
Nhưng thực tiễn cũng cho thấy các chính đảng vô sản trong từng giai đoạn lịch sử cũng đều bao gồm những đảng viên, những con người có tư duy khoa học hữu hạn đứng trước chân lý tuyệt đối vô hạn. Họ cũng không tránh khỏi có những hạn chế về tư duy cũng như về phẩm chất, đạo đức cách mạng, khiến các chân lý mà họ nhận thức được không phải luôn là tuyệt đối đúng. Cụ thể, nhận thức về Liên xô  những năm 90 là đã qua thời kỳ quá độ và tiến tới “chủ nghĩa xã hội phát triển”, hay về tính ưu việc tuyệt đối của công hữu hóa tư liệu sản xuất…, nay đã thấy là chủ quanduy ý chí. Vì vậy không nên tuyệt đối hóa, coi tính Đảng vô sản lúc nào cũng là đồng nhất với tính khách quan khoa học.
Trong toàn bộ tính khoa học của chủ nghĩa lịch sử Mác-xit thì hệ thống cấu trúc bên trong của nó có tầm quan trọng quyết định.
Trong định nghĩa chủ nghĩa lịch sử có đoạn “…Chủ nghĩa lịch sử bao hàm cả sự nhìn nhận đối tượng như một hệ thống có giới hạn của cấu trức bên trong trong sự nghiên cứu quá trình phát triển của đối tượng, làm sáng tỏ sự thay đổi về chất của đối tượng cũng như quy luật quá độ của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác”.
Cấu trúc bên trong đó không phải là gì khác, mà chính là hệ thống nhận thức luận mácxít bao gồm chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng cùng các nguyên lý, các cặp phạm trù, khái niệm khoa học, được coi như các mắc xích, các nấc thang trong quá trình nhận thức.
Có thể kể ra như:
-      Tính quy luật của lịch sử, bao gồm cả quy luật phổ biến. quy luật đặc thù và mối liên hệ biện chứng giữa các quy luật.
-      Tính kế thừa lịch sử nằm trong phép biện chứng của phủ định có kế thừa.
-      Quan điểm nhận thức lịch sử theo phạm trù nhân quả-cái nhân trong quá khứ có thể để lại cái quả cho hiện tại hay trong tương lai.
-      Quan điểm nhậ thức theo phạm trù cặp đôi hiện tượng và bản chất- cái lịch sử thường chỉ biểu hiện ra bằng những hiện tượng, nhưng tư duy khoa học lại tìm ra được bản chất của các hiện tượng đó.
-      Quan điểm nhìn nhận lịch sử theo phạm trù: cái đơn nhất, cái đặc thùm cái phổ biến:  lịch sử thường biểu hiện ra như những cái đơn nhất, cái đặc thù, nhưng nhận thức quy luật lịch sử lại nắm được cái phổ biến thông qua những hiện tượng cá biệt, đặc thù.
-      Nhận thức lịch sử thông qua phạm trù tất yếungẫu nhiên: các hiện tượng lịch sử xuất hiện dường như là những cái ngẫu nhiên, nhưng lại mang trong mình nó cái tất yếu lịch sử được nhận thức qua tư duy khoa học.
-      Cao hơn cả là phạm trù lý luậnthực tiễn: thực tiễn là phong phú, sinh đọng, mang trong mình nó tính khách quan của tiến trình lịch sử. Còn lý luận là chân lý đúc kết được từ thực tiễn và có tác dụng chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.
-      Cuối cùng là phạm trù lịch sửlôgích được coi như phạm trù đặc biệt của chuyên ngành sử học. Nó là cơ sở  cho sự ra đời của phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong công tác sử học. Trong việc vận dụng hai phương pháp này là một cách kết hợp, tất yếu phải đụng đến các nguyên lý và các quan điểm kể trên trong hệ thống cấu trúc bên trong của chủ nghĩa lịch sử.
                                
B.     Hai phương pháp biện chứng: Phương pháp lịch sử và phương pháp logích
Bài GIỚI THIỆU này xin đi vào nghiên cứu hai phương pháp biện chứng: phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích để người đọc hiểu sâu hơn vào các phạm trù biện chứng trong triết học kể trên.
I. Sự khác biệt giữa hai phương pháp biện chứng
I.1. Phương pháp lịch sử
Chủ nghĩa Mác hiểu phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến trình phát triển của các hiện tượng và các sự kiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của chúng.
Do đó, đặc điểm của nó như sau:
Thứ nhất, nó phải đi sâu vào tính muôn màu, muôn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ biến. Và trên cơ sở nắm được những đặc thù, cá biệt đó mà trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử.
Ví dụ: vận động phổ biến của chiến tranh nhân dân là ở du kích chiến, phương pháp lịch sử phải tìm hiểu và trình bày du kích chiến ở Việt Nam với những nét đặc thù của nó như du kích chiến toàn dân, của đặc công, của bộ binh, của không quân…tức với mọi biểu hiện cụ thể của nó.
Thứ hai, nó yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không lắp lại bên cái lắp lại. Các hiện tượng lịch sử  thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ diễn lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử yêu cầu phải tìm ra cái khác trước, cái không lắp lại để thấy những nét đặc thù của lịch sử.
Ví dụ: Cũng là khởi nghĩa nông dân, nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám về đối tượng, qui mô và hình thức đấu tranh…Cũng là chuyên chính vô sản, nhưng chuyên chính vô sản ở nước ta sẽ không hoàn toàn lắp lại hình thức chuyên chính vô sản ở Nga sau 1917…
Thứ ba, nó yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước đường quanh co, thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bở vì lịch sử phát triển muôn màu muôn vẻ, có khi cái cũ chưa thật tàn tạ, cái mới đã nảy sinh. Hoặc có khi cái mới tuy đã chiếm ưu thế nhưng cái cũ hãy còn có điều kiện và nhu cầu tồn tại trong một chừng mực nhất định. Phương pháp lịc sử phải đi sâu vào những ẩn khuất đó.
Ví dụ: sau cách mạng tháng Tám, những mầm mống quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa như Ngân hàng nhà nước, các hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ, những đồn điền. xí nghiệp quốc doanh…đã nảy sinh. Nhưng thực dân Pháp trở lại xâm lược, quan hệ sản xuất thực dân, phong kiến chưa bị hoàn toàn thủ tiêu, nên những mầm mống kinh tế-xã hội chủ nghĩa đã có bước thụt lùi tạm thời. Từ 1950 trở đi mới lại có điều kiện phát triển. Từ khái quát logich phát triển của kinh tế lúc đó là kinh tế dân chủ nhân dân, nhưng trình bày lịch sử của thời kì này thì chúng ta phải chú ý đến những bước thụt lùi tạm thời đó.
Ví dụ khác, về bước đường quanh co như sau cách mạng tháng Mười 1917 ở Nga, quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa đã thống trị, nhưng khoảng năm 1918-1920, Lê nin đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), mục đích là lợi dụng kinh tế TBCN trong một thời gian nhất định để phát triển kinh tế xã hội. Trong khái quát logich không thể coi thời kì đó không phải là chuyên chính vô sản, mà là chuyên chính công nông chẳng hạn. Nhưng trong trình bày, biên soạn lịch sử thì phải hiểu rõ bước quanh co đó để thấy tính muôn màu muôn vẻ trong sự phát triển của nó.
Thứ tư, nó yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn về diện, hiểu từ cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội.
Ví dụ: nói về cách mạng tháng Tám 1945, nếu chỉ nêu lên được đặc điểm, quy luật và sự kiện điển hình thì chưa đủ để thấy được sắc thái đặc biệt của nó khác cuộc cách mạng khác. Tâm lý quần chúng trước ngày khởi nghĩa, tình cảm đối với Đảng, đối với cách mạng…nững hành vi biểu lộ tâm lý, tình cảm đó lại là những nét mà lịch sử phải chú ý để cho sự miêu tả được sinh động, tránh khô khan, công thức, gò bó.
Tóm lại, phương pháp lịch sử nhằm diễn lại tiến trình phát triển lịch sử với tính muôn màu muôn vẻ của nó, nhằm thể hiện cái lịch sử với tính cụ thể của nó, tính hiện thực, tính sinh động của nó. Nó giúp cho ta nắm vững được cái lịch sử để có cơ sở nắm cái logich được sâu sắc, đúng đắn hơn.
Tuy nhiên, nếu hiểu phương pháp lịch sử một cách đơn thuần, không thống nhất, tách biệt với phương pháp logich thì sẽ không giúp  chúng ta nắm được tính đúng đắn chân lý khách quan. Đây rõ ràng là nhược điểm của nó, Ăngghen “phương pháp lịch sử mới nhìn qua thì hình thức đã có cái ưu điểm là hết sức rõ ràng hơn, vì ở đây người ta theo dõi tiến trình phát triển hiện thực, nhưng trong thực tế, hình thức đó nhiều lắm cũng chỉ là hình thức thông tục hơn mà thôi”[6:594, 595].
Khi bàn về cuốn Phê phán chính trị kinh tế học, Ăng-ghen cho rằng, lịch sử thường phát triển quan những bước nhảy và những bước khúc khuỷnh quanh co và nếu như nhất định bất cứ ở chỗ nào cũng đều phải đi theo nó, thì không những phải chú ý đến nhiều tài liệu không quan trọng, mà thường còn phải ngắt đoạn quá trình tư tưởng nữa. Hơn nữa, không thể viết lịch sử chính trị kinh tế học mà lại bỏ qua lịch sử xã hội tư sản và như thế sẽ làm cho công việc trở nên vô cùng tận, bởi vì tất cả mọi công tác chuẩn bị đều thiếu cả. Cho nên, phương pháp nghiên cứu logich là phương pháp thích hợp duy nhất.
Như vậy, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến tầm quang trọng về ưu điểm của phương pháp logich.
I.2. Phương pháp logich.
Phương pháp này khác với phương pháp lịch sử ở chỗ nó không nhằm diễn lại toàn bộ tiến trình của lịch sử, mà nhằm nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng.
Do đó, đặc điểm của nó là:
Thứ nhất, nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lắp lại của các sự vật, hiện tượng. Muốn vậy, nó phỉ đi vào nhiều hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra bản chất của những sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Giữa năm 1965, Mỹ ào ạt kéo quân vào xâm lược miền Nam nước ta. Các trận đánh của quân và dân diễn ra khác nhau trên các mặt trận và dưới nhiều hình thức: quân sự, chính trị, kinh tế…Phương pháp logich đi sâu vào nghiên cứu các trận đánh và nhằm phát hiện ra cái chung của các trận đánh đó, có thể khái quát ra nhiều nét bản chất, phổ biến, trong đó có tính chất tấn công liên tục, từ đầu trên khắp các mặt trện…chẳng hạn.
Thứ hai, nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những bước đường quanh co, thụt lùi tạm thời của lịch sử, thì phương pháp logich lại có thể bỏ qua những bước đường đó, mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của nó, nắm lấy cái xương sống phát triển của nó, nắm lấy quy luật của nó. Như Ăng-ghen đã nói “ Logich không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đem lại”[6:592].
Thứa ba, khác với phương pháp lích sử, phải nắm lấy từng sự việc cụ thể, nắm lấy không gian, thời gian, tên người…cụ thể, phương pháp logich lại chỉ cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển hình và nắm qua những phạm trù, quy luật nhất định.
Ví dụ: Trong khi viết Tư bản luận, Mác có thể đi ngay vào giai đoạn phát triển điển hình cao nhất của lịch sử lúc đó là xã hội tư bản. Khi phát hiện ra được quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật thặng dư giá trị, tức nắm được sâu sắc các giai đoạn điển hình, thì từ đó có thể dễ dàng tìm ra quy luật phát triển của các xã hội trước tư bản chủ nghĩa mà không nhất thiết phải đi từ giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người.
Ngay trong khi nghiên cứu xã hội tư bản, Mác cũng không cần phải bắt đầu từ tích lũy tư bản nguyên thủy, từ tư bản thương mại, mặc dầu là những quan hệ này có trước tư bản công nghiệp. Mác cũng không bắt đầu từ ruộng đất và địa tô là những cái tồn tại rộng rãi trong xã hội tư bản, mà bắt đầu từ hàng hóa, tiền tệ, tư bản, phát hiện ra quy luật thặng dư là giường mối của cơ cấu xã hội tư bản. Từ đó, có thể giải thích được các mối quan hệ khác. Đó là nói về sự bắt đầu từ giai đoạn điển hình, sự kiện điển hình.
Còn trong thể hiện trình bày thì phương pháp logich cần vận dụng những khái niệm, phạm trù, quy luật hơn là trình bày những nhân vật, sự việc cụ thể. Cũng như trong Tư bản luận, Mác không cần chỉ rõ nhà tư sản A hay B nào đó, cũng như hàng hóa cụ thể gì, tiền tệ của nước nào đó, mà bằng những khái niệm chung: tư sản, hàng hóa, tiền tệ, giá trị…
Nhờ những đặc điểm đó, mà phương pháp logich có những khả năng riêng:
Thứ nhất, giúp ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì logich là sự phản ảnh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới khách quan thì không ngừng phát triển, cái mới luôn luôn nảy sinh. Do luôn luôn chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy logich dễ nhìn thấy những bước phát triển nhảy vọt và thấy được cái mới đang nảy sinh và phát triển như thế nào. Đặc điểm của cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh.
Ví dụ: Trong xây dựng nông thôn mới theo cơ chế thị trường và kinh tế nhiều thành phần hiện nay đã nảy sinh những làng có tính chất thị tứ, như làng Trai Trang, làng Hội Xuyên (Hải Dương) trong những năm 90…đó là những làng từ nông nghiệp chuyển mạnh sang công, thương nghiệp “ly nông bất ly hương”, cả làng có hàng trăm ô tô tải và ô tô chỏ hàng nhỏm có tới 50-60 máy điện thoại gia đình.
Rõ ràng đây là những điển hình làng xã mới có thay đổi về chất, so với làng xã cũ.
Lãnh đạo trung ương và địa phương đang từ đó rút ra điểm có tính bản chất để xây dựng nên các làng thị tứ, làng văn hóa trong cả nước.
Thứ hai, do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp này giúp ta thấy trước được hướng đi của lịch sử, nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.
Ví dụ: Hiện nay, trong xây dựng giai cấp công nhân có hiện tượng chuyển dịch từ khu vực nhà nước sang khu vực tư doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Trở lại những năm 80-90, ở Thành phố Hồ Chí Minh  chỉ tính từ (1988-1992), đã có 67.000 công nhân chuyển khỏi khu vực công nghệ quốc doanh, gần 20% công nhân lành nghề, thợ bậc cao chuyển từ khu vực quốc doanh sang khu vực tư nhân và gần 70% công nhan giỏi nghề chuyển sang các đơn vị liên doanh. Hậu quả đến năm 1993, TP chỉ còn 13% công nhân làm ciệc ở khu vực quốc doanh, 87% làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể và tập thể. Cái mới đó, cho ta thấy hướng đi của lịch sử này hợp hay không hợp  với định hướng xã hội chủ nghĩa mà có biện pháp bổ sung, điều chỉnh, đào tạo bồi dưỡng, cải tiến công tác quản lý.
Thứ ba, Phương pháp giúp chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ nắm được những qui luật khách quan đó.
Ví dụ: Từ cuối những năm 90 đến nay, một số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hóa đã giúp công nhân có thể trở thành người vừa sản xuất, vừa làm chủ thực sự xí nghiệp, lại cải thiện nhanh chóng được đời sống. Nhà nước đã chủ động tác động tới quá trình đó, đưa lịch sử tiến lên…
II. Tính thống nhất của hai phương pháp biện chứng.
Trong thực tế công tác nghiên cứu khoa học theo phương pháp biện chứng mác-xít, không bao giờ có phương pháp này hay phương páp kia thuần túy tách rời nhau, mà trong cái nọ có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn của chúng chỉ là tương đối và có điều kiện. Phương pháp logich không phải chỉ phản ánh một cách thụ động, có tính chất chụp ảnh hiện thực khách quan, mà là nhằm nhận thức hiện thực theo sự phát triển hợp với quy luật của nó.
Tuy vậy, vì “logich không phải chỉ là cái phổ biến trừu tượng mà là cái phổ biến tự nó bao hàm sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái cá biệt…”, nên muốn nắm được cái phổ biến, cái quy luật thì không thể không dùng phương pháp lịch sử đi sâu vào cái đặc thù, cái cá biệt… Vì vậy, trong phương pháp logich đã có phương pháp lịch sử.
Ngược lại phương pháp lịch sử cũng không phải là nhằm miêu tả lịch sử một cách đơn giản, mà là phải qua miêu tả làm nổi bật lên sợi giây logich chủ yếu của sự phát triển lịch sử, hay nói một cách hình ảnh là phương pháp lịch sử phải “khoác lên sợi giây logich căn bản máu và thịt” của những hiện tượng cụ thể, bằng cách theo sát từng bước những hiện tượng ấy, bằng cách phản ảnh toàn bộ tính liên tục lịch sử về sự phát sinh, phát triển của những hiện tượng ấy. Vì vậy, trong phương pháp lịch sử đã có phương pháp logich.
Xin nêu một cách tóm tắt tính biện chứng (tính thông nhất) của hai phương pháp như sau:
Phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử, diễn lại mỗi bước đường quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực nhưng không phải là miêu tả lịch sử  một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, chất đống tài liệu, mà là miêu tả theo một sợi giây logich nhất định của sự phát triển lịch sử, không phải miêu tả lịch sử phát triển một cách mù quáng mà là phát triển một cách có quy luật.
Cũng vậy, phương pháp logich tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch sử, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể, chỉ đưa ra những khái quát lý luận vô căn cứ, những quy luật, những phạm trù trừu tượng không có một nội dung lịch sử, thực tế nào. Phương pháp logich không phải là sự chụp ảnh dẫn đến một sự phản ánh biết rút ra từ trong lịch sử cái chủ yếu và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử.
Tóm lại, vì lịch sử phát triển một cách có quy luật, nên phương pháp lịch sử chỉ đạt được kết quả khi tác phẩm lịch sử toát lên cái logich khách quan của sự phát triển sự vật, tức tác phẩm lịch sử phải có tính chất lý luận. Ngược lại, vì lý luận phải thấm nhuần chủ nghĩa lịch sử, nên phương pháp logich phải phản ánh trong tác phẩm một cách đứng đắn tiến trình phát triển lịch sử, tức là tác phẩm lý luận phải thể hiện được bản chất của lịch sử.
Sự thống nhất của hai phương pháp, nếu nhà khoa học biết quán triệt, vận dụng tốt thì sẽ nắm vững được chân lý khách quan. Bởi vì, tiêu chuẩn của chân lý là lý luận ăn khớp với thực tiễn, tức là cái logich phản ảnh đúng bản chất của lịch sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái logich cái logic khái quát được được mà chưa được thực tiễn lịch sử kiểm tra thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân lý bao giờ cũng cụ thể trong tri giác, Lê-nin nhấn mạnh: “nếu chân lý là trừu tượng thì tức là không phải chân lý”.
Tóm lại, vì hai phương pháp có tính thống nhất và cungc co mục đích thống nhất là nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của sự phát triển lích sử, nên trong công tác nghiên cứu khoa học chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào vì thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng (Phép biện chứng duy vật) mác-xít mà thôi.
III. Tính độc lập tương đối của hai phương pháp biện chứng.
Trong công tác nghiên cứu khoa học. chúng ta đều phải chú ý đến tính độc lập tương đối của chúng.
Trên cơ sở tài liệu đã có về cách mạng tháng Tám 1945 chẳng hạn. Người nghiên cứu để tìm ra tính chất. đặc điểm quy luật của Cách mạng này và nghiên cứu, miêu tả lại tiến trình của lịch sử, mỗi người chú ý vận dụng hai phương pháp này ở mức độ nhẹ khác nhau. Trên cơ sở tài liệu của hàng trăm cuộc biểu tình chống thu thóc, thu thuế, phá lúa trồng đay, người viết sử  phải đi sâu tìm hiểu cuộc đấu tranh nào là bắt đầu, dù là nhỏ nhất, phải tìm hiểu tình cảm, tâm lý quần chúng trong cuộc biểu tinhg để miêu tả cho sinh động, gợi cảm. còn người nghiên cứu, vì mục đích là tìm ra quy luật, như quy luật đấu tranh chính trị kết howph đấu tranh vũ trang chẳng hạn nên có thể bát đầu đi ngay vào giai đoạn phát triển cao cuarphong trào qua những cuộc đấu tranh điển hình mà tìm ra bản chất của chúng.
Trong công tác trình bày, biên soạn thì tính độc lập tương đối giữa hai phương pháp được biểu lộ rõ nét.
Trong giai đoạn lịch sử trường kì kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp làm ví dụ.
Để làm sống lại một quá trình như trên thì dùng phương pháp lịch sử để trình bày là thích hợp nhất. Chúng ta không thể bỏ qua những mốc lịch sử cụ thể như ngày 23-9-1945, 19-12-1946, 7-5-1954…, bỏ qua những trận đánh cụ thể như Bông Lau, Đoan Hùng, Điện Biên…, không thể không nêu bật những gương chỉ huy, mưu trí tài tình, những chiến sĩ dũng cảm, không thể không nêu lên vai trò của quần chúng sau những thắng lợi…chỉ có những sự kiện cụ thể đó mà miêu tả cuộc đấu tranh theo những quy luật phát triển của nó, chúng ta mới vẽ lên một bức tranh sinh động về hiện thực kháng chiến. Do đó, tác phẩm lịch sử của chúng ta mới thành công.
Nhưng nếu chúng ta khái quát lý luận tiến trình lịch sử kháng chiến thì phương pháp logich lại là thích hợp. Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử cụ thể, chúng ta phát hiện ra bản chất, đặc điểm, quy luật của cuộc trường kì kháng chiến như tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân, tính chất trường kì, quy luật đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, quy luật từ du kích chiến tiến lên vận động chiến, quy luật phát triển của hệ thống ba thứ quân…Chúng ta trình bày các đặc điểm, quy luật đó một cách có căn cứ khoa học trong một mối liên hệ biện chứng phù hợp với logich khách quan với tiến trình lịch sử. Trong việc trình bày đặc điểm, quy luật này, không phải chúng ta chỉ đóng khung trong phạm vi lý luận trừu tượng thuần túy mà đôi khi chúng ta phải dùng tài liệu lịch sử để minh họa….
Về công tác trình bày và biên soạn hai phương pháp này, Mác đã để lại cho chúng ta những tác phẩm mẫu mực như Đấu tranh giai cấp ở Pháp viết theo phương pháp lịch sử và bộ Tư bản viết theo phương pháp logich. Hai tác phẩm có sự khác nhau đều xuất phát từ cơ sở thống nhất là cả hai đều nhằm phơi bày những chân lý khách quan của lịch sử, cả hai đều thể hiện ra bản chất, quy luật của lịch sử dưới những hình thức khác nhau.
IV. Tổng kết kinh nghiệm, phát hiện quy luật, tuyên đoán tương lai, góp phần cải tạo thự tiễn và thế giới.
Thứ nhất, như chúng ta đã biết, đối tượng nghiên cứu của sử học là quá khứ, không phải chỉ là quá khứ trong quá khứ mà còn là quá khứ trong hiện tại. Nhưng sử học mác-xit không coi quá khứ là một cái gì cô lập, chết cứng mà coi nó là những dây liên lạc chằng chịt với quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những dây liên hệ đó là:
-      Lịch sử có tính quy luật.
-      Lịch sử có tính kế thừa.
-      Các sự kiện lịch sử có những mối liên hệ biện chứng với nhiều sự kiện khác trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Cách mạng tháng Tám không chỉ tồn tại trên giấy tờ, mà tồn tại trong hiện thực. Nó đưa nước Việt Nam từ một xã hội thuộc địa lạc hậu đến xã hội mới ngày nay.
Tóm lại, logich phát triển của lịch sử, tính kế thừa lịch sử, các dây chuyển liên hệ biện chứng trong lịch sử, cái tồn tại hiện tại trong lịch sử, đã nối liển quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên, chỉ có nắm vững mối liên hệ của hai phương pháp để nghiên cứu mới thấy được khả năng nghiên cứu vào quá khứ, hiện tại mà tiên đoán tương lại.
Thứ hai, phát hiện ra quy luật chằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Ăng-ghen viết: ‘Lịch sử là quá trình tiến hóa của nhân loại và nhiệm vụ của nó là phải tìm ra những qui luật vận động của quá trình đó”[9:172]. Lê-nin nhấn mạnh rằng khoa học lịch sử phải “giúp vào việc lựa chọn một cách tự giác những phương pháp, phương thức và biện pháp đấu tranh ít tốn lực lượng nhất mà có thể đạt được những kết quả to lớn nhất và lâu dài nhất”[3:46]. Như vậy, việc tổng kết kinh nghiệm, phát hiện quy luật, chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới là mục đich của khoa học lịch sử mác-xít.
Sự chú ý đầy đủ đến tính lịch sử quả quy luật không những giúp chúng ta phát hiện ra nét đặc thù của quy luật phổ biến mà còn giúp phát hiện ra những quy luật mới để bổ sung cho lý luận cách mạng.
Ví dụ: Hồ Chủ tịch sau khi nêu lên một cách khái quát quá trình đấu tranh thắng lợi của lịch sử Việt Nam, đã đi đến kết luận là “ Trong thời đại đé quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần chúng rộng rãi…sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới…nhân dân nước đó nhất định sẽ thắng lợi”[8:706]. Kết luận đó có giá trị như một quy luật mới đang được thực tiễn của một số nước Á, Phi, Mỹ Latinh hiện nay kiểm tra. Những quy luật lịch sử mới khái quát được sẽ giúp cho giai cấp vô sản chỉ đạo tốt công tác thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan.

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phương pháp lịch sử và phương pháp logich là hai phương pháp bắt nguồn từ hai phạm trù “lịch sử” và “lôgích” của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học. Hay nói cách khác là đây là hai phương pháp thuộc phương pháp nhận thức khoa học trong triết học-phương pháp áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học. Không chỉ riêng sử học mới vận dụng  phương pháp này, mà nhiều ngành khoa học xã hội cũng cần vận dụng. Đặc biệt trong tổng kết kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm cách mạng, hai phương pháp này nếu được quan tâm và vận dụng tốt, sẽ đem lại hiệu quả cao.
Trong công tác sử học, hai phương pháp này vô cùng cần thiết. Đó vừa là phương pháp tư duy vừa là phương pháp cụ thể:
-      Về tư duy: quá trình đi từ tư duy cảm tính đến tư duy lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, để trở về nhận thức cái cụ thể hơn, sâu sắc hơn, tất cả đều cần phải vận dụng tốt hai phương pháp này.
-      Về phương pháp cụ thể: Trong công tác sưu tầm tư liệu, nghiên cứu các đối tượng sử học phải từ cái logich giả thiết đi tìm tư liệu, tiếp đó bằng cả hai phương pháp kết hợp mà phân tích, tìm hiểu tư liệu, sự kiện lịch sử, để rồi từ nhiều tư liệu, sự kiện lịch sử đã phân tích, nhận thức mà khái quát ra được “logich” phát triển nội tại của đối tượng, thấy được bản chất, đặc điểm đối tượng…
Cũng qua nghiên cứu cho thấy,  triết học không phải là khoa học đưa ra những lời giải cụ thể, cũng không cung cấp cho người ta cách thức để tìm ra các lời giải cụ thể. Đó là khoa học cung cấp cho người ta năng lực tư duy trừu tượng để tuỳ vào các lĩnh vực cụ thể mà các khoa học tìm ra chân lý của mình. Cái năng lực tư duy trừu tượng đó khó có thể đong đếm bằng những định lượng về tính hiệu quả, tính xác định..., nhưng nếu thiếu nó, cái mà người ta nhận được chỉ là sự thất bại trong hoạt động thực tiễn, hệ quả của sự thất bại trong nhận thức. Chính nhờ các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật này mà khoa học triết học mới liên tục tạo ra những diện mạo mới về mặt nhận thức trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới trong công tác sử học.
Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng và khả năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để có được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong các thành tựu của khoa học cụ thể tự nó lại không thể tạo thành năng lực tư duy trừu tượng. Đó là lý do các khoa học cụ thể không thể thay thế cho triết học và triết học cũng không thể làm được công việc của các khoa học cụ thể.
Một vài kiến nghị
Để nâng cao chất lượng trong công tác nghiên cứu khoa học nói chung sử học nói riêng, cần nhận thức lại một cách đúng đắn vị trí, vai trò của bộ môn triết học. Bởi vì, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành thế giới quan khoa học cho nhà khoa học, giúp họ có cái nhìn khách quan, khoa học về thế giới, xã hội, con người vốn rất phức tạp, đa dạng và luôn vận động, biến đổi; trên cơ sở đó, có nhân sinh quan đúng đắn để định hướng hoạt động trong khoa học, cuộc sống…triết học Mác - Lênin góp phần vào sự hình thành và phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực, trình độ tư duy khái quát, lôgíc và hệ thống của các nhà khoa học…
Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng và khả năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để có được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Chính nội dung của những tri thức triết học và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của con người cách suy nghĩ và hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh.
Trên cơ sở thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng ta phải luôn được trang bị bằng lập trường quan điểm đúng để nhanh chóng tiếp thu những phương pháp đúng Phải nắm vững hai phương pháp lịch sử và logich trong sự vận dụng tốt chủ nghĩa duy vật biện chứng, cũng như phép biện chứng, nhà sử học mới thật sự có phong cách khoa học trung thực, thành công trong công tác nghiên cứu, biên soạn, tổng kết các vấn đề lịch sử theo phương pháp Mácxít.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý luạn chính trị, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (1995), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học),Tập 3,  Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác bàn về khoa học lịch sử (1960), Nxb Sự thật, Hà nội.
4.  Phan Ngọc Liên (chủ biên, 1999), Phương pháp luận sử học, Nxb.ĐHQG Hà Nội.        
5. V.I.Lênin (1963), Bút kí triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Mác-Ăngghen (1962), Tuyển tập, Quyển 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. C.Mác (1959), Tư bản luận, Quyển 1, Nxb Sự thật, Hà nội.
8. Hồ Chí Minh (1960), Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Sự (2001), Mác-Ăngghen, Lênin bàn về Tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.




[*]  Cao học, Lịch sử thế giới, ĐHSP TP.HCM, Trong bài giới thiệu tham khảo này, tác giả phần lớn dựa vào công trình nghiên cứu của GS Văn Tạo về Phương pháp lịch sử và phương pháp Logich. Đây là nội dung theo tác giả nghĩ là rất quan trọng cần phải vận dụng triệt để trong công tác nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử.