Võ Minh Tập[*]
Từ
khi triết học ra đời đến nay, thế giới đã có nhiều thay đổi, song nhu cầu hiểu
biết và sự say mê tìm tòi, khám phá những quy luật chung nhất của thế giới
(giới tự nhiên, xã hội và con người) vẫn luôn thường trực đối với mỗi con
người, mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy không phải là “khoa học của mọi khoa học” và
hình thức phản ánh thế giới của triết học cũng đã khác, song vai trò của nó
không hề giảm đi mà ngược lại, càng thể hiện như một công cụ sắc bén để nhận
thức và cải tạo thế giới của con người.
Trong
xã hội hiện đại, các khoa học chuyên ngành giúp con người hiểu sâu một lĩnh vực
cụ thể nào đó của thế giới, còn triết học khái quát những hiểu biết cụ thể ấy
để chỉ ra những nét đặc trưng nhất của thế giới, xem xét nó dưới dạng một chỉnh
thể thống nhất trong tính đa dạng, chỉ ra các mối quan hệ bản chất, bên trong
và tìm ra những quy luật vận động, biến đổi, phát triển của nó để trên cơ sở
đó, định hướng hoạt động của con người theo hướng có lợi nhất.
Trong
nghiên cứu sử học, việc vận dụng những tri thức triết học (nhất là nội dung,
bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như phép biện chứng duy vật),
trong đó có các phạm trù của phép biện chứng duy vật là vô cùng cần thiết và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của các nhà
nghiên cứu khoa học lịch sử nói riêng và con người nói chung cách suy nghĩ và
hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh. Xin được giới thiệu nội dung vận
dụng tính khoa học trong triết học để nghiên cứu sử học để chúng ta tham khảo.
A.
Nhận thức luận
Mácxít trong nhận thức sử học
Đây là điểm mấu chốt trong chủ nghĩa lịch
sử. Nó quy định sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, giữa
chủ nghĩa chủ quan với chủ nghĩa khách quan khoa học, giữa tính Đảng vô sản với
tính khoa học.
Xin khỏi phải trở lại chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật. Chỉ xin đề cập đến chủ nghĩa chủ quan với chủ nghĩa khách
quan khoa học, giữa tính Đảng và tính khoa học.
Về
chủ nghĩa chủ quan.
Một khi đã coi đối đối tượng của sử học là tồn tại khách quan, kể cả tự nhiên
và xã hội, phát triển một cách có quy luật, con người chỉ có thể nhận thức được
từng bước qua tư duy khoa học của mình,
mà tư duy khoa học là hữu hạn trước chân lý (tuyệt đối) là vô hạn, nên bất cứ
thứ chủ nghĩa chủ quan nào, dù là chủ quan duy tâm hay chủ quan duy vật, đều
không tiếp cận được chân lý một cách đúng đắn.
Về
chủ nghĩa khách quan.
Một khi đã thừa nhận lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đều là tồn tại khách quan và nhờ có tư duy khoa
học mà con người ngày càng nhận thức được đúng hơn chân lý lịch sử thì bất cứ
ai có được tư duy khoa học đạt đến trình độ cao hơn sẽ nhận thức được chân lý lịch
sử cao hơn và đúng hơn.
Các nhà khoa học tư sản cũng đã từ có
nhiều người đạt đến trình độ cao của nhận thức so với thời đại của họ. Cụ thể
như Đác-uyn với thuyết “Tiến hóa luận”
trong sinh vật học đã từng được chủ nghĩa Mác kế thừa trong khoa học, coi như một
chân lý khách quan của lịch sử đã được khám phá ra nhờ tư duy khoa học. Liên
quan với vấn đề này, chúng ta thấy ngày nay, tiến bộ khoa học-công nghệ của thời
đại đã vượt xa chân lý mà Đác-uyn đã tìm ra trong sinh vật học như thụ tinh
trong ống nghiệm, ghép cấy bào thai…nhưng khám phá của Ông vẫn có giá trị lịch
sử. Hay như nhà khoa học xã hội Mỹ L.Morgan trong công trình Nghiên cứu về con đường tiến bộ của nhân loại
từ mông muội qua dã man tới văn minh (1877) đã đạt tới chân lý khoa học nhất
định mà F.Ăngghen đã ca ngợi và kế thừa thành tựu trong công trình Nguồn gốc của gia đình, của sử hữu tư nhân
và của nhà nước nổi tiếng của mình.
Ngày nay, khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc đóng
góp lớn vào lịch cử văn hóa và văn minh của nhân loại. Mặc dầu vậy, vẫn không
thể phủ nhận được những sai lầm, hạn chế, hoặc do tư duy khoa học chưa đạt tới, hoặc do lợi ích cá nhân che giấu,
xuyên tạc đi.
Còn với tư duy khoa học vô sản gắn với tính
Đảng của giai cấp vô sản thì về nguyên tắc là luôn thống nhất với tính khoa học.
Sự thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học của giai cấp vô sản thể hiện ngay
trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác.
Triết học Mác là thế giới quan của giai
cấp vô sản, đồng thời là quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Lập trường
chân chính của giai cấp vô sản tức quyền lợi giai cấp chính đáng của nó, đồng
thời cũng là sự phát triển của lịch sử. Nguyện vọng của giai cấp vô sản là xóa
bỏ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng nên một xã hội không người bóc lột người,
cũng là nhu cầu khách quan của sự tiến bộ xã hội, là một tất yếu lịch sử.
Nhưng thực tiễn cũng cho thấy các chính
đảng vô sản trong từng giai đoạn lịch sử cũng đều bao gồm những đảng viên, những
con người có tư duy khoa học hữu hạn
đứng trước chân lý tuyệt đối vô hạn. Họ cũng không tránh khỏi có những hạn chế
về tư duy cũng như về phẩm chất, đạo đức cách mạng, khiến các chân lý mà họ nhận
thức được không phải luôn là tuyệt đối đúng. Cụ thể, nhận thức về Liên xô những năm 90 là đã qua thời kỳ quá độ và tiến
tới “chủ nghĩa xã hội phát triển”, hay về tính ưu việc tuyệt đối của công hữu
hóa tư liệu sản xuất…, nay đã thấy là chủ
quan và duy ý chí. Vì vậy không
nên tuyệt đối hóa, coi tính Đảng vô sản lúc
nào cũng là đồng nhất với tính khách quan khoa học.
Trong toàn bộ tính khoa học của chủ
nghĩa lịch sử Mác-xit thì hệ thống cấu
trúc bên trong của nó có tầm quan trọng quyết định.
Trong định nghĩa chủ nghĩa lịch sử có đoạn
“…Chủ nghĩa lịch sử bao hàm cả sự nhìn nhận đối tượng như một hệ thống có giới
hạn của cấu trức bên trong trong sự nghiên cứu quá trình phát triển của đối tượng,
làm sáng tỏ sự thay đổi về chất của đối tượng cũng như quy luật quá độ của đối
tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác”.
Cấu trúc bên trong đó không phải là gì
khác, mà chính là hệ thống nhận thức luận
mácxít bao gồm chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng cùng
các nguyên lý, các cặp phạm trù, khái niệm khoa học, được coi như các mắc xích,
các nấc thang trong quá trình nhận thức.
Có thể kể ra như:
-
Tính quy luật của
lịch sử,
bao gồm cả quy luật phổ biến. quy luật đặc thù và mối liên hệ biện chứng giữa
các quy luật.
-
Tính kế thừa lịch
sử
nằm trong phép biện chứng của phủ định có kế thừa.
-
Quan
điểm nhận thức lịch sử theo phạm trù nhân
quả-cái nhân trong quá khứ có thể để lại cái quả cho hiện tại hay trong
tương lai.
-
Quan
điểm nhậ thức theo phạm trù cặp đôi hiện
tượng và bản chất- cái lịch sử thường chỉ biểu hiện ra bằng những hiện tượng,
nhưng tư duy khoa học lại tìm ra được bản chất của các hiện tượng đó.
-
Quan
điểm nhìn nhận lịch sử theo phạm trù: cái
đơn nhất, cái đặc thùm cái phổ biến:
lịch sử thường biểu hiện ra như những cái đơn nhất, cái đặc thù, nhưng
nhận thức quy luật lịch sử lại nắm được cái phổ biến thông qua những hiện tượng
cá biệt, đặc thù.
-
Nhận
thức lịch sử thông qua phạm trù tất yếu
và ngẫu nhiên: các hiện tượng lịch sử
xuất hiện dường như là những cái ngẫu nhiên, nhưng lại mang trong mình nó cái tất
yếu lịch sử được nhận thức qua tư duy khoa học.
-
Cao
hơn cả là phạm trù lý luận và thực tiễn: thực tiễn là phong phú, sinh
đọng, mang trong mình nó tính khách quan của tiến trình lịch sử. Còn lý luận là
chân lý đúc kết được từ thực tiễn và có tác dụng chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế
giới.
-
Cuối
cùng là phạm trù lịch sử và lôgích được coi như phạm trù đặc biệt của
chuyên ngành sử học. Nó là cơ sở cho sự
ra đời của phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong công tác sử học.
Trong việc vận dụng hai phương pháp này là một cách kết hợp, tất yếu phải đụng
đến các nguyên lý và các quan điểm kể trên trong hệ thống cấu trúc bên trong của
chủ nghĩa lịch sử.
B. Hai phương pháp biện chứng: Phương pháp lịch sử và
phương pháp logích
Bài GIỚI THIỆU
này xin đi vào nghiên cứu hai phương pháp biện chứng: phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgích để người đọc hiểu sâu hơn vào các phạm trù biện chứng trong
triết học kể trên.
I.
Sự khác biệt giữa hai phương pháp biện chứng
I.1.
Phương pháp lịch sử
Chủ
nghĩa Mác hiểu phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến trình phát triển
của các hiện tượng và các sự kiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của chúng.
Do đó, đặc điểm của nó như sau:
Thứ
nhất,
nó phải đi sâu vào tính muôn màu, muôn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ biến. Và trên cơ sở nắm được những
đặc thù, cá biệt đó mà trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử.
Ví dụ: vận động phổ biến của chiến tranh
nhân dân là ở du kích chiến, phương pháp lịch sử phải tìm hiểu và trình bày du
kích chiến ở Việt Nam với những nét đặc thù của nó như du kích chiến toàn dân,
của đặc công, của bộ binh, của không quân…tức với mọi biểu hiện cụ thể của nó.
Thứ
hai,
nó yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái
không lắp lại bên cái lắp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ diễn
lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử yêu cầu phải tìm ra cái khác trước,
cái không lắp lại để thấy những nét đặc thù của lịch sử.
Ví dụ: Cũng là khởi nghĩa nông dân,
nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa
Thám về đối tượng, qui mô và hình thức đấu tranh…Cũng là chuyên chính vô sản,
nhưng chuyên chính vô sản ở nước ta sẽ không hoàn toàn lắp lại hình thức chuyên
chính vô sản ở Nga sau 1917…
Thứ
ba,
nó yêu cầu chúng ta phải theo dõi những
bước đường quanh co, thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bở vì lịch sử
phát triển muôn màu muôn vẻ, có khi cái cũ chưa thật tàn tạ, cái mới đã nảy
sinh. Hoặc có khi cái mới tuy đã chiếm ưu thế nhưng cái cũ hãy còn có điều kiện
và nhu cầu tồn tại trong một chừng mực nhất định. Phương pháp lịc sử phải đi
sâu vào những ẩn khuất đó.
Ví dụ: sau cách mạng tháng Tám, những mầm
mống quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa như Ngân hàng nhà nước, các hợp tác xã sản
xuất, tiêu thụ, những đồn điền. xí nghiệp quốc doanh…đã nảy sinh. Nhưng thực
dân Pháp trở lại xâm lược, quan hệ sản xuất thực dân, phong kiến chưa bị hoàn
toàn thủ tiêu, nên những mầm mống kinh tế-xã hội chủ nghĩa đã có bước thụt lùi
tạm thời. Từ 1950 trở đi mới lại có điều kiện phát triển. Từ khái quát logich
phát triển của kinh tế lúc đó là kinh tế dân chủ nhân dân, nhưng trình bày lịch
sử của thời kì này thì chúng ta phải chú ý đến những bước thụt lùi tạm thời đó.
Ví dụ khác, về bước đường quanh co như
sau cách mạng tháng Mười 1917 ở Nga, quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa đã thống
trị, nhưng khoảng năm 1918-1920, Lê nin đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), mục
đích là lợi dụng kinh tế TBCN trong một thời gian nhất định để phát triển kinh
tế xã hội. Trong khái quát logich không thể coi thời kì đó không phải là chuyên
chính vô sản, mà là chuyên chính công nông chẳng hạn. Nhưng trong trình bày,
biên soạn lịch sử thì phải hiểu rõ bước quanh co đó để thấy tính muôn màu muôn
vẻ trong sự phát triển của nó.
Thứ
tư,
nó yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm
lẫn về diện, hiểu từ cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội.
Ví dụ: nói về cách mạng tháng Tám 1945,
nếu chỉ nêu lên được đặc điểm, quy luật và sự kiện điển hình thì chưa đủ để thấy
được sắc thái đặc biệt của nó khác cuộc cách mạng khác. Tâm lý quần chúng trước
ngày khởi nghĩa, tình cảm đối với Đảng, đối với cách mạng…nững hành vi biểu lộ
tâm lý, tình cảm đó lại là những nét mà lịch sử phải chú ý để cho sự miêu tả được
sinh động, tránh khô khan, công thức, gò bó.
Tóm lại, phương pháp lịch sử nhằm diễn lại
tiến trình phát triển lịch sử với tính muôn màu muôn vẻ của nó, nhằm thể hiện
cái lịch sử với tính cụ thể của nó, tính hiện thực, tính sinh động của nó. Nó
giúp cho ta nắm vững được cái lịch sử để có cơ sở nắm cái logich được sâu sắc,
đúng đắn hơn.
Tuy nhiên, nếu hiểu phương pháp lịch sử
một cách đơn thuần, không thống nhất, tách biệt với phương pháp logich thì sẽ
không giúp chúng ta nắm được tính đúng đắn
chân lý khách quan. Đây rõ ràng là nhược điểm của nó, Ăngghen “phương pháp lịch sử mới nhìn qua thì hình thức
đã có cái ưu điểm là hết sức rõ ràng hơn, vì ở đây người ta theo dõi tiến trình
phát triển hiện thực, nhưng trong thực tế, hình thức đó nhiều lắm cũng chỉ là
hình thức thông tục hơn mà thôi”[6:594, 595].
Khi bàn về cuốn Phê phán chính trị kinh tế học, Ăng-ghen cho rằng, lịch sử thường
phát triển quan những bước nhảy và những bước khúc khuỷnh quanh co và nếu như
nhất định bất cứ ở chỗ nào cũng đều phải đi theo nó, thì không những phải chú ý
đến nhiều tài liệu không quan trọng, mà thường còn phải ngắt đoạn quá trình tư
tưởng nữa. Hơn nữa, không thể viết lịch sử chính trị kinh tế học mà lại bỏ qua
lịch sử xã hội tư sản và như thế sẽ làm cho công việc trở nên vô cùng tận, bởi
vì tất cả mọi công tác chuẩn bị đều thiếu cả. Cho nên, phương pháp nghiên cứu
logich là phương pháp thích hợp duy nhất.
Như vậy, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến tầm
quang trọng về ưu điểm của phương pháp logich.
I.2.
Phương pháp logich.
Phương pháp này khác với phương pháp lịch
sử ở chỗ nó không nhằm diễn lại toàn bộ tiến trình của lịch sử, mà nhằm nghiên
cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình
thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận
động của chúng.
Do đó, đặc điểm của nó là:
Thứ
nhất,
nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ
biến, cái lắp lại của các sự vật, hiện tượng. Muốn vậy, nó phỉ đi vào nhiều
hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra bản chất của những sự vật,
hiện tượng.
Ví dụ: Giữa năm 1965, Mỹ ào ạt kéo quân
vào xâm lược miền Nam nước ta. Các trận đánh của quân và dân diễn ra khác nhau
trên các mặt trận và dưới nhiều hình thức: quân sự, chính trị, kinh tế…Phương
pháp logich đi sâu vào nghiên cứu các trận đánh và nhằm phát hiện ra cái chung
của các trận đánh đó, có thể khái quát ra nhiều nét bản chất, phổ biến, trong
đó có tính chất tấn công liên tục, từ đầu trên khắp các mặt trện…chẳng hạn.
Thứ
hai,
nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những bước đường quanh co, thụt lùi tạm
thời của lịch sử, thì phương pháp logich lại có thể bỏ qua những bước đường đó,
mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của
nó, nắm lấy cái xương sống phát triển của nó, nắm lấy quy luật của nó. Như Ăng-ghen đã nói “ Logich không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự
phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình
lịch sử đem lại”[6:592].
Thứa
ba,
khác với phương pháp lích sử, phải nắm lấy từng sự việc cụ thể, nắm lấy không
gian, thời gian, tên người…cụ thể, phương pháp logich lại chỉ cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai
đoạn điển hình và nắm qua những phạm trù, quy luật nhất định.
Ví dụ: Trong khi viết Tư bản luận, Mác có thể đi ngay vào giai
đoạn phát triển điển hình cao nhất của lịch sử lúc đó là xã hội tư bản. Khi
phát hiện ra được quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật thặng dư giá
trị, tức nắm được sâu sắc các giai đoạn điển hình, thì từ đó có thể dễ dàng tìm
ra quy luật phát triển của các xã hội trước tư bản chủ nghĩa mà không nhất thiết
phải đi từ giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người.
Ngay trong khi nghiên cứu xã hội tư bản,
Mác cũng không cần phải bắt đầu từ tích lũy tư bản nguyên thủy, từ tư bản
thương mại, mặc dầu là những quan hệ này có trước tư bản công nghiệp. Mác cũng
không bắt đầu từ ruộng đất và địa tô là những cái tồn tại rộng rãi trong xã hội
tư bản, mà bắt đầu từ hàng hóa, tiền tệ, tư bản, phát hiện ra quy luật thặng dư
là giường mối của cơ cấu xã hội tư bản. Từ đó, có thể giải thích được các mối
quan hệ khác. Đó là nói về sự bắt đầu từ giai đoạn điển hình, sự kiện điển
hình.
Còn trong thể hiện trình bày thì phương
pháp logich cần vận dụng những khái niệm, phạm trù, quy luật hơn là trình bày
những nhân vật, sự việc cụ thể. Cũng như trong Tư bản luận, Mác không cần chỉ rõ nhà tư sản A hay B nào đó, cũng
như hàng hóa cụ thể gì, tiền tệ của nước nào đó, mà bằng những khái niệm chung:
tư sản, hàng hóa, tiền tệ, giá trị…
Nhờ những đặc điểm đó, mà phương pháp
logich có những khả năng riêng:
Thứ
nhất,
giúp ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì
logich là sự phản ảnh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới
khách quan thì không ngừng phát triển, cái mới luôn luôn nảy sinh. Do luôn luôn
chú ý đến cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy logich dễ nhìn thấy những bước
phát triển nhảy vọt và thấy được cái mới đang nảy sinh và phát triển như thế
nào. Đặc điểm của cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là hình thức
thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh.
Ví dụ: Trong xây dựng nông thôn mới theo
cơ chế thị trường và kinh tế nhiều thành phần hiện nay đã nảy sinh những làng
có tính chất thị tứ, như làng Trai Trang, làng Hội Xuyên (Hải Dương) trong những
năm 90…đó là những làng từ nông nghiệp chuyển mạnh sang công, thương nghiệp “ly
nông bất ly hương”, cả làng có hàng trăm ô tô tải và ô tô chỏ hàng nhỏm có tới
50-60 máy điện thoại gia đình.
Rõ ràng đây là những điển hình làng xã mới
có thay đổi về chất, so với làng xã cũ.
Lãnh đạo trung ương và địa phương đang từ
đó rút ra điểm có tính bản chất để xây dựng nên các làng thị tứ, làng văn hóa
trong cả nước.
Thứ
hai,
do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp này giúp ta thấy trước được hướng đi của lịch sử, nhằm chỉ đạo thực
tiễn, cải tạo thế giới.
Ví dụ: Hiện nay, trong xây dựng giai cấp
công nhân có hiện tượng chuyển dịch từ khu vực nhà nước sang khu vực tư doanh
công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Trở lại những năm 80-90, ở Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ tính từ (1988-1992), đã có
67.000 công nhân chuyển khỏi khu vực công nghệ quốc doanh, gần 20% công nhân
lành nghề, thợ bậc cao chuyển từ khu vực quốc doanh sang khu vực tư nhân và gần
70% công nhan giỏi nghề chuyển sang các đơn vị liên doanh. Hậu quả đến năm
1993, TP chỉ còn 13% công nhân làm ciệc ở khu vực quốc doanh, 87% làm việc ở
khu vực kinh tế tư nhân, cá thể và tập thể. Cái mới đó, cho ta thấy hướng đi của
lịch sử này hợp hay không hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa mà có biện pháp bổ sung, điều chỉnh, đào tạo bồi dưỡng,
cải tiến công tác quản lý.
Thứ
ba,
Phương pháp giúp chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động
cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ nắm được những qui luật khách quan đó.
Ví dụ: Từ cuối những năm 90 đến nay, một
số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hóa đã giúp công nhân có thể trở thành người
vừa sản xuất, vừa làm chủ thực sự xí nghiệp, lại cải thiện nhanh chóng được đời
sống. Nhà nước đã chủ động tác động tới quá trình đó, đưa lịch sử tiến lên…
II.
Tính thống nhất của hai phương pháp biện chứng.
Trong thực tế công tác nghiên cứu khoa học
theo phương pháp biện chứng mác-xít, không bao giờ có phương pháp này hay
phương páp kia thuần túy tách rời nhau, mà trong cái nọ có cái kia, hai cái
thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn của chúng chỉ là tương đối và
có điều kiện. Phương pháp logich không phải chỉ phản ánh một cách thụ động, có
tính chất chụp ảnh hiện thực khách quan, mà là nhằm nhận thức hiện thực theo sự
phát triển hợp với quy luật của nó.
Tuy vậy, vì “logich không phải chỉ là cái phổ biến trừu tượng mà là cái phổ biến tự
nó bao hàm sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái cá biệt…”, nên muốn
nắm được cái phổ biến, cái quy luật thì không thể không dùng phương pháp lịch sử
đi sâu vào cái đặc thù, cái cá biệt… Vì vậy, trong phương pháp logich đã có
phương pháp lịch sử.
Ngược lại phương pháp lịch sử cũng không
phải là nhằm miêu tả lịch sử một cách đơn giản, mà là phải qua miêu tả làm nổi
bật lên sợi giây logich chủ yếu của sự phát triển lịch sử, hay nói một cách
hình ảnh là phương pháp lịch sử phải “khoác
lên sợi giây logich căn bản máu và thịt” của những hiện tượng cụ thể, bằng
cách theo sát từng bước những hiện tượng ấy, bằng cách phản ảnh toàn bộ tính
liên tục lịch sử về sự phát sinh, phát triển của những hiện tượng ấy. Vì vậy,
trong phương pháp lịch sử đã có phương pháp logich.
Xin nêu một cách tóm tắt tính biện chứng
(tính thông nhất) của hai phương pháp như sau:
Phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến
trình phát triển của lịch sử, diễn lại mỗi bước đường quanh co, ngẫu nhiên, thụt
lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực nhưng không phải là miêu tả lịch
sử một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, chất
đống tài liệu, mà là miêu tả theo một sợi giây logich nhất định của sự phát triển
lịch sử, không phải miêu tả lịch sử phát triển một cách mù quáng mà là phát triển
một cách có quy luật.
Cũng vậy, phương pháp logich tuy không
nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch
sử, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể, chỉ
đưa ra những khái quát lý luận vô căn cứ, những quy luật, những phạm trù trừu
tượng không có một nội dung lịch sử, thực tế nào. Phương pháp logich không phải
là sự chụp ảnh dẫn đến một sự phản ánh biết rút ra từ trong lịch sử cái chủ yếu
và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử.
Tóm lại, vì lịch sử phát triển một cách
có quy luật, nên phương pháp lịch sử chỉ đạt được kết quả khi tác phẩm lịch sử
toát lên cái logich khách quan của sự phát triển sự vật, tức tác phẩm lịch sử phải có tính chất lý luận.
Ngược lại, vì lý luận phải thấm nhuần chủ nghĩa lịch sử, nên phương pháp logich
phải phản ánh trong tác phẩm một cách đứng đắn tiến trình phát triển lịch sử, tức
là tác phẩm lý luận phải thể hiện được bản
chất của lịch sử.
Sự thống nhất của hai phương pháp, nếu
nhà khoa học biết quán triệt, vận dụng tốt thì sẽ nắm vững được chân lý khách
quan. Bởi vì, tiêu chuẩn của chân lý là lý luận ăn khớp với thực tiễn, tức là
cái logich phản ảnh đúng bản chất của lịch sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái
logich cái logic khái quát được được mà chưa được thực tiễn lịch sử kiểm tra
thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân lý bao giờ cũng cụ thể trong tri giác,
Lê-nin nhấn mạnh: “nếu chân lý là trừu tượng
thì tức là không phải chân lý”.
Tóm lại, vì hai phương pháp có tính thống
nhất và cungc co mục đích thống nhất là nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của
sự phát triển lích sử, nên trong công tác
nghiên cứu khoa học chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào vì
thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng
(Phép biện chứng duy vật) mác-xít mà thôi.
III.
Tính độc lập tương đối của hai phương pháp biện chứng.
Trong công tác nghiên cứu khoa học.
chúng ta đều phải chú ý đến tính độc lập
tương đối của chúng.
Trên cơ sở tài liệu đã có về cách mạng
tháng Tám 1945 chẳng hạn. Người nghiên cứu để tìm ra tính chất. đặc điểm quy luật
của Cách mạng này và nghiên cứu, miêu tả lại tiến trình của lịch sử, mỗi người
chú ý vận dụng hai phương pháp này ở mức độ nhẹ khác nhau. Trên cơ sở tài liệu
của hàng trăm cuộc biểu tình chống thu thóc, thu thuế, phá lúa trồng đay, người
viết sử phải đi sâu tìm hiểu cuộc đấu
tranh nào là bắt đầu, dù là nhỏ nhất, phải tìm hiểu tình cảm, tâm lý quần chúng
trong cuộc biểu tinhg để miêu tả cho sinh động, gợi cảm. còn người nghiên cứu,
vì mục đích là tìm ra quy luật, như quy luật đấu tranh chính trị kết howph đấu
tranh vũ trang chẳng hạn nên có thể bát đầu đi ngay vào giai đoạn phát triển
cao cuarphong trào qua những cuộc đấu tranh điển hình mà tìm ra bản chất của
chúng.
Trong
công tác trình bày, biên soạn thì tính độc lập tương đối giữa hai phương pháp
được biểu lộ rõ nét.
Trong giai đoạn lịch sử trường kì kháng
chiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp làm ví dụ.
Để làm sống lại một quá trình như trên
thì dùng phương pháp lịch sử để trình bày là thích hợp nhất. Chúng ta không thể
bỏ qua những mốc lịch sử cụ thể như ngày 23-9-1945, 19-12-1946, 7-5-1954…, bỏ
qua những trận đánh cụ thể như Bông Lau, Đoan Hùng, Điện Biên…, không thể không
nêu bật những gương chỉ huy, mưu trí tài tình, những chiến sĩ dũng cảm, không
thể không nêu lên vai trò của quần chúng sau những thắng lợi…chỉ có những sự kiện
cụ thể đó mà miêu tả cuộc đấu tranh theo những quy luật phát triển của nó,
chúng ta mới vẽ lên một bức tranh sinh động về hiện thực kháng chiến. Do đó,
tác phẩm lịch sử của chúng ta mới thành công.
Nhưng nếu chúng ta khái quát lý luận tiến
trình lịch sử kháng chiến thì phương pháp logich lại là thích hợp. Trên cơ sở
nghiên cứu lịch sử cụ thể, chúng ta phát hiện ra bản chất, đặc điểm, quy luật của
cuộc trường kì kháng chiến như tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân, tính
chất trường kì, quy luật đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, quy luật từ
du kích chiến tiến lên vận động chiến, quy luật phát triển của hệ thống ba thứ
quân…Chúng ta trình bày các đặc điểm, quy luật đó một cách có căn cứ khoa học
trong một mối liên hệ biện chứng phù hợp với logich khách quan với tiến trình lịch
sử. Trong việc trình bày đặc điểm, quy luật này, không phải chúng ta chỉ đóng
khung trong phạm vi lý luận trừu tượng thuần túy mà đôi khi chúng ta phải dùng
tài liệu lịch sử để minh họa….
Về công tác trình bày và biên soạn hai
phương pháp này, Mác đã để lại cho chúng ta những tác phẩm mẫu mực như Đấu tranh giai cấp ở Pháp viết theo
phương pháp lịch sử và bộ Tư bản viết
theo phương pháp logich. Hai tác phẩm có sự khác nhau đều xuất phát từ cơ sở thống
nhất là cả hai đều nhằm phơi bày những chân lý khách quan của lịch sử, cả hai đều
thể hiện ra bản chất, quy luật của lịch sử dưới những hình thức khác nhau.
IV.
Tổng kết kinh nghiệm, phát hiện quy luật, tuyên đoán tương lai, góp phần cải tạo
thự tiễn và thế giới.
Thứ
nhất,
như chúng ta đã biết, đối tượng nghiên cứu của sử học là quá khứ, không phải chỉ
là quá khứ trong quá khứ mà còn là quá khứ trong hiện tại. Nhưng sử học mác-xit
không coi quá khứ là một cái gì cô lập, chết cứng mà coi nó là những dây liên lạc
chằng chịt với quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những dây liên hệ đó là:
-
Lịch sử có tính
quy luật.
-
Lịch sử có tính
kế thừa.
-
Các sự kiện lịch
sử có những mối liên hệ biện chứng với nhiều sự kiện khác trong cả quá khứ,
hiện tại và tương lai. Cách mạng tháng Tám không chỉ tồn tại trên giấy tờ, mà tồn
tại trong hiện thực. Nó đưa nước Việt Nam từ một xã hội thuộc địa lạc hậu đến
xã hội mới ngày nay.
Tóm lại, logich phát triển của lịch sử,
tính kế thừa lịch sử, các dây chuyển liên hệ biện chứng trong lịch sử, cái tồn
tại hiện tại trong lịch sử, đã nối liển quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho
nên, chỉ có nắm vững mối liên hệ của hai phương pháp để nghiên cứu mới thấy được
khả năng nghiên cứu vào quá khứ, hiện tại mà tiên đoán tương lại.
Thứ
hai,
phát hiện ra quy luật chằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Ăng-ghen viết:
‘Lịch sử là quá trình tiến hóa của nhân
loại và nhiệm vụ của nó là phải tìm ra những qui luật vận động của quá trình
đó”[9:172]. Lê-nin nhấn mạnh rằng khoa học lịch sử phải “giúp vào việc lựa chọn một cách tự giác những
phương pháp, phương thức và biện pháp đấu tranh ít tốn lực lượng nhất mà có thể
đạt được những kết quả to lớn nhất và lâu dài nhất”[3:46]. Như vậy, việc tổng kết kinh nghiệm,
phát hiện quy luật, chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới là mục đich của khoa học
lịch sử mác-xít.
Sự chú ý đầy đủ đến tính lịch sử quả quy
luật không những giúp chúng ta phát hiện ra nét đặc thù của quy luật phổ biến
mà còn giúp phát hiện ra những quy luật mới để bổ sung cho lý luận cách mạng.
Ví dụ: Hồ Chủ tịch sau khi nêu lên một
cách khái quát quá trình đấu tranh thắng lợi của lịch sử Việt Nam, đã đi đến kết
luận là “ Trong thời đại đé quốc chủ
nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của
nó, dựa vào quần chúng rộng rãi…sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới…nhân
dân nước đó nhất định sẽ thắng lợi”[8:706]. Kết luận đó có giá trị như một quy luật mới đang được thực tiễn của
một số nước Á, Phi, Mỹ Latinh hiện nay kiểm tra. Những quy luật lịch sử mới
khái quát được sẽ giúp cho giai cấp vô sản chỉ đạo tốt công tác thực tiễn để cải
tạo thế giới khách quan.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ
KIẾN NGHỊ
Phương pháp lịch sử và phương pháp
logich là hai phương pháp bắt nguồn từ hai phạm trù “lịch sử” và “lôgích” của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học. Hay nói
cách khác là đây là hai phương pháp thuộc phương pháp nhận thức khoa học trong
triết học-phương pháp áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học. Không chỉ
riêng sử học mới vận dụng phương pháp
này, mà nhiều ngành khoa học xã hội cũng cần vận dụng. Đặc biệt trong tổng kết
kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm cách mạng, hai phương pháp này nếu được quan
tâm và vận dụng tốt, sẽ đem lại hiệu quả cao.
Trong công tác sử học, hai phương pháp
này vô cùng cần thiết. Đó vừa là phương pháp tư duy vừa là phương pháp cụ thể:
-
Về tư duy: quá trình đi từ
tư duy cảm tính đến tư duy lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
để trở về nhận thức cái cụ thể hơn, sâu sắc hơn, tất cả đều cần phải vận dụng tốt
hai phương pháp này.
-
Về phương pháp cụ
thể:
Trong công tác sưu tầm tư liệu, nghiên cứu các đối tượng sử học phải từ cái
logich giả thiết đi tìm tư liệu, tiếp đó bằng cả hai phương pháp kết hợp mà
phân tích, tìm hiểu tư liệu, sự kiện lịch sử, để rồi từ nhiều tư liệu, sự kiện
lịch sử đã phân tích, nhận thức mà khái quát ra được “logich” phát triển nội tại
của đối tượng, thấy được bản chất, đặc điểm đối tượng…
Cũng qua nghiên cứu cho thấy, triết
học không phải là khoa học đưa ra những lời giải cụ thể, cũng không cung cấp
cho người ta cách thức để tìm ra các lời giải cụ thể. Đó là khoa học cung cấp cho người
ta năng lực tư duy trừu tượng để tuỳ vào các lĩnh vực cụ thể mà
các khoa học tìm ra chân lý của mình. Cái năng lực tư duy trừu tượng đó khó có
thể đong đếm bằng những định lượng về tính hiệu quả, tính xác định..., nhưng
nếu thiếu nó, cái mà người ta nhận được chỉ là sự thất bại trong hoạt động thực
tiễn, hệ quả của sự thất bại trong nhận thức. Chính nhờ các cặp phạm trù của
phép biện chứng duy vật này mà khoa học triết học mới liên tục tạo ra những
diện mạo mới về mặt nhận thức trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới
trong công tác sử học.
Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu
tượng và khả năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để có được
điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là
dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong các
thành tựu của khoa học cụ thể tự nó lại không thể tạo thành năng lực tư duy
trừu tượng. Đó là lý do các khoa học cụ thể không thể thay thế cho triết học và
triết học cũng không thể làm được công việc của các khoa học cụ thể.
Một vài kiến
nghị
Để
nâng cao chất lượng trong công tác nghiên cứu khoa học nói chung sử học nói
riêng, cần nhận thức lại một cách đúng đắn vị trí, vai trò của bộ môn triết
học. Bởi vì, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành thế giới quan khoa học
cho nhà khoa học, giúp họ có cái nhìn khách quan, khoa học về thế giới, xã hội,
con người vốn rất phức tạp, đa dạng và luôn vận động, biến đổi; trên cơ sở đó,
có nhân sinh quan đúng đắn để định hướng hoạt động trong khoa học, cuộc
sống…triết học Mác - Lênin góp phần vào sự hình thành và phát triển trí tuệ,
nâng cao năng lực, trình độ tư duy khái quát, lôgíc và hệ thống của các nhà
khoa học…
Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu
tượng và khả năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức
và cải tạo thế giới. Để có được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự
tích luỹ tri thức, đặc biệt là dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Chính nội dung của những tri thức triết học và chỉ
có nó mới làm sản sinh trong
năng lực nhận thức của con người cách suy nghĩ và hành động phù hợp với hiện
thực được phản ánh.
Trên cơ sở thế giới quan khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng ta phải luôn được trang bị bằng lập trường
quan điểm đúng để nhanh chóng tiếp thu những phương pháp đúng Phải nắm vững hai
phương pháp lịch sử và logich trong sự vận dụng tốt chủ nghĩa duy vật biện
chứng, cũng như phép biện chứng, nhà sử học mới thật sự có phong cách khoa học
trung thực, thành công trong công tác nghiên cứu, biên soạn, tổng kết các vấn
đề lịch sử theo phương pháp Mácxít.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và
đào tạo (2006), Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý luạn chính trị, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và
đào tạo (1995), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết học),Tập 3, Nxb
CTQG, Hà Nội.
3. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác bàn về khoa học lịch sử (1960), Nxb Sự thật, Hà nội.
4. Phan Ngọc Liên (chủ biên, 1999), Phương pháp
luận sử học, Nxb.ĐHQG Hà Nội.
5. V.I.Lênin
(1963), Bút kí triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Mác-Ăngghen
(1962), Tuyển tập, Quyển 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. C.Mác (1959),
Tư bản luận, Quyển 1, Nxb Sự thật, Hà nội.
8. Hồ Chí Minh
(1960), Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Sự
(2001), Mác-Ăngghen, Lênin bàn về Tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[*] Cao học, Lịch sử thế giới, ĐHSP TP.HCM, Trong bài giới thiệu tham khảo này,
tác giả phần lớn dựa vào công trình nghiên cứu của GS Văn Tạo về Phương pháp
lịch sử và phương pháp Logich. Đây là nội dung theo tác giả nghĩ là rất quan
trọng cần phải vận dụng triệt để trong công tác nghiên cứu, biên soạn, giảng
dạy lịch sử.