Trong
bài viết này, tác giả đã phân tích, lý giải để làm rõ thêm các khái niệm dân
tộc và chủ nghĩa dân tộc. Theo tác giả, dân tộc là cộng đồng những người cùng
chung một lịch sử, nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một vùng lãnh thổ và
có chung một nền văn hoá. Chủ nghĩa dân tộc là ý thức của mỗi người về cội
nguồn dân tộc, ý thức về quyền dân tộc, về phẩm giá dân tộc,… Chủ nghĩa dân tộc có nhiều loại khác nhau, song chỉ có
chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Chủ
nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao
động, luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Dân
tộc là tên chỉ cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, sau khi
xã hội đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước. Trong xã hội nguyên
thuỷ đã có thị tộc, rồi bộ lạc. Những thành viên trong thị tộc gắn bó
với nhau bằng quan hệ huyết thống. Bộ lạc bao gồm những người cùng họ và những
người khác họ, cùng sinh sống trên một địa bàn. Sản xuất phát triển thì bản
thân con người cũng phát triển theo, cùng với những đặc trưng như ngôn ngữ, văn
hoá vật chất (thể hiện trong phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt) và
văn hoá tinh thần (thể hiện thành ý thức và các hình thái ý thức). Hình thức
của cộng đồng người cũng có sự tiến hoá: từ phân tán đến tập trung, từ thấp đến
cao, kết quả là hình thành nên những tộc người và những dân tộc khác
nhau như chúng ta thấy hiện nay. Có thể quan niệm dân tộc là cộng đồng những
người cùng chung một lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc),
nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, có chung một nền văn
hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này là tổng hợp các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho trình độ văn minh đã đạt
được. Văn hoá của các dân tộc có những nét chung giống nhau (thí dụ như đều
trải qua nền văn minh nông nghiệp tiến lên nền văn minh công nghiệp), nhưng
cũng có những nét đặc thù gọi là tính cách dân tộc hay bản sắc dân
tộc (các phong tục, tập quán sinh hoạt và ứng xử, các nếp tâm lý và tư duy,
các ưu thế phát triển về mặt này hay mặt khác) tạo ra tính đa dạng, vô cùng
phong phú của văn hoá nhân loại.
Về
mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng hợp với khái niệm quốc
gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị - xã hội được quản lý bằng bộ máy
nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc (hiếm có, như trường hợp Triều
Tiên trước khi bị chia cắt), song phần lớn là những quốc gia nhiều dân tộc
(nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một dân tộc chủ yếu, thường là đông hơn và
phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hình là những người cùng một dân
tộc nhưng sống phân tán ở những quốc gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc
hình thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống
lẫn trình độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự phát liên kết với
nhau, hoà nhập vào nhau hoặc đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của
dân tộc là cần có nhà nước để bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ quyền
lãnh thổ phát triển thành ý thức quốc gia dân tộc hay chủ nghĩa yêu
nước. Bản thân nhà nước, đến lượt nó, lại có tác động trở lại củng cố sự
đoàn kết dân tộc, sự thống nhất nhiều dân tộc trong biên giới của mình. Bộ máy
nhà nước trung ương tập quyền của nhà Tần ở Trung Quốc chẳng hạn, khi ban hành
những pháp luật thống nhất trong cả nước, bắt mọi người cùng viết một kiểu chữ,
cùng đi một cỡ xe (thư đồng văn, xa đồng quỹ) đã đẩy nhanh sự cố kết của dân
tộc Hán ngay từ trước Công nguyên.
Trước
đây, các học giả phương Tây chưa nghiên cứu nhiều về vấn đề dân tộc nói riêng.
Các sách báo mácxít cũng dựa chủ yếu vào tình hình của châu Âu mà cho rằng, dân
tộc chỉ trở thành dân tộc khi có sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, khi xuất
hiện thị trường dân tộc(1). Thực ra, trên thế giới, tính cố kết dân tộc có thể
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị khác, như nhu cầu có những
công trình trị thuỷ lớn ở các vùng trồng lúa nước, nhu cầu chống lại sự xâm
lược, đô hộ và đồng hoá của ngoại tộc. Việt Nam đã từng bị ngoại tộc đô hộ hơn
một nghìn năm mà không bị đồng hoá, sở dĩ như vậy là vì con người (Việt Nam) đã
có ý thức về bản sắc của dân tộc mình và nổi dậy chống lại sự đồng hoá ấy. Ý
thức về quốc gia - dân tộc đã thể hiện rõ trong hành động lịch sử của Lý Bí khi
ông tự xưng là Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân thế kỷ thứ VI, hoặc trong câu thơ
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư" thế kỷ thứ XI, trong áng văn bất hủ
"Bình Ngô đại cáo" thế kỷ thứ XV. Vậy mà cho đến thế kỷ thứ XX, Việt
Nam vẫn chưa đạt đến trình độ một nước tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng là, người Việt
Nam đã hình thành nên dân tộc của mình ngay từ thời cổ đại, có thể là ngay từ
khi bị ngoại tộc đô hộ mà không sao đồng hoá nổi, chứ không phải đợi đến khi
lập ra nhà nước phong kiến độc lập bền vững vào thế kỷ thứ X.
Có
dân tộc hình thành rồi, sau đó mới có ý thức dân tộc. Con người được sinh ra
trong cộng đồng, từ cộng đồng. Chỉ có thông qua cộng đồng, ở đây là cộng đồng
dân tộc, cá nhân con người mới được xã hội hoá, mới trở thành
người. Đứa trẻ sơ sinh chỉ mới là “con người dự bị”; nó phải tập ăn, tập
nói như người, cảm xúc, ứng xử và suy nghĩ như người. Nắm được ngôn ngữ dân tộc
- vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là phương tiện nhận thức - đứa trẻ càng
nhanh chóng đi vào những khuôn nếp của xã hội, những tục lệ, tín ngưỡng,
đạo lý, pháp luật sẵn có của một trình độ văn hoá nhất định. Đến tuổi thành
niên, nó mới được xã hội công nhận là một thành viên đủ tư cách. Một cách rất
tự nhiên, mỗi cá nhân con người đều cảm thấy rất rõ, trong cả thể xác và tâm
hồn mình, là người của một dân tộc nhất định. Đó chính là ý thức dân tộc,
tinh thần dân tộc hay là chủ nghĩa dân tộc.
Như
vậy, ý thức dân tộc trước hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con
người: mình từ đâu đến? Sau đó là ý thức về quyền dân tộc: quyền làm chủ
lãnh thổ (đất nước), làm chủ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình.
Đó là tinh thần độc lập, tự chủ của mỗi dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi
thành viên của dân tộc đều thấy có nghĩa vụ thiêng liêng phải giữ gìn và bảo
vệ. Chủ nghĩa dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc
tồn tại và phát triển là thành quả của sức lao động và đấu tranh sáng tạo của
nhiều thế hệ tiền bối. Họ đã tạo ra tất cả những giá trị vật chất và tinh thần
hợp thành nền văn hoá dân tộc, vừa có bản sắc riêng, vừa là bộ phận hợp thành
nền văn hoá chung của nhân loại.
Song,
điều phức tạp của lịch sử là ở chỗ, các tộc người, các dân tộc hình thành và
phát triển khi đã có sự phân tầng xã hội thành các giai cấp. Sự xuất
hiện giai cấp không làm tan rã cộng đồng dân tộc, mà chỉ chia rẽ con người
trong cộng đồng dân tộc, thậm chí đến mức đối kháng. Trong cùng một dân tộc, ý
thức dân tộc của mỗi giai cấp lại được chiết quang qua ý thức về lợi ích giai
cấp; vì vậy, nó không thể không mang thêm những sắc thái riêng bắt nguồn từ
tính giai cấp.
Việc
cải tiến công cụ lao động tuy chậm chạp nhưng liên tục trong xã hội nguyên thủy
làm tăng dần năng suất lao động của con người; đến một độ nhất định (thời đại
đồ đồng, đồ sắt), sản xuất xã hội đủ sức tạo ra những sản phẩm thặng dư. Tiền
đề này đã dẫn đến một tất yếu lịch sử là sự hình thành giai cấp và kèm theo nó
là sự phân công lao động xã hội thành lao động chân tay và lao động trí
óc. Một số người có điều kiện chiếm dụng những sản phẩm thặng dư và sống trên
lưng người khác, trở thành giai cấp ăn bám và thống trị. Đa số người còn lại
vẫn buộc phải sản xuất trực tiếp đổ mồ hôi kiếm miếng ăn, đó là những giai cấp
bị bóc lột và bị trị, là nhân dân lao động. Đồng thời, cũng chỉ có người nào
không buộc phải trực tiếp lao động sản xuất mới có thì giờ rảnh để chuyên làm
lao động trí óc, phát triển mọi năng khiếu tinh thần của con người và trở thành
những nhà trí thức. Trong xã hội có giai cấp, tầng lớp trí thức phần nhiều xuất
thân từ giai cấp thống trị hoặc phụ thuộc vào họ. Tình hình này đưa đến sự lầm
lẫn cho rằng, kẻ lao tâm thì trị người và được người nuôi, còn kẻ lao lực thì
nuôi người và bị người trị (Mạnh Tử). Thực ra, những thành viên của các
giai cấp thống trị trong lịch sử trước đây không phải đều là trí thức hoặc bắt
đầu từ chỗ là trí thức. Sở dĩ họ thống trị là vì họ đã nắm được quyền lực, mà
cơ sở vật chất của quyền lực là sự chiếm đoạt, chủ yếu bằng bạo lực.
Sự
hình thành các giai cấp và tầng lớp trí thức đánh dấu sự xuất hiện của bất bình
đẳng xã hội giữa con người với nhau, xâm hại tính cộng đồng gắn liền với bản
chất của con người là một động vật xã hội, có tính xã hội. Trong đấu tranh giai
cấp, hiện tượng mạnh được yếu thua, cường quyền át công lý, “cá lớn nuốt cá bé”
chẳng qua là biểu hiện của quy luật đấu tranh sinh tồn, của "luật
rừng" trong giới sinh vật. Các giai cấp đấu tranh với nhau, song vẫn dựa
vào nhau cùng tồn tại: đấu tranh giai cấp không làm tan rã được xã hội. Nó
không phủ định bản chất con người đã bắt đầu định hình, mà chỉ minh hoạ cho
thấy rằng, việc hình thành con người là một quá trình tiến hoá trường
kỳ, từ tính động vật đơn thuần đến tính người hoàn thiện hơn, thực sự là con
người. Tính động vật hay thú tính là cái nền tảng ban đầu nhưng được cải biến
dần dần, còn tính người hay nhân tính thì ngày càng được trau dồi và
nâng cao. Sự đối kháng giai cấp không điều hoà, tuy đã biến con người thành
"chó sói đối với người"; nhưng cũng chính đấu tranh giai cấp lại là động lực làm cho xã hội tiến hoá
đi lên, từ hình thức bóc lột và thống trị tàn nhẫn và thô bạo của chế độ chiếm
nô, đến chế độ phong kiến hết sức chuyên chế nhưng đã ít tàn bạo hơn, đến chế
độ tư bản bóc lột tinh vi hơn và thống trị một cách "dân chủ”, nghĩa là
che đậy hơn. Tính động vật đơn thuần đã từng bước chuyển hoá, mở đường cho tính
người được nâng lên dần dần một cách không thể đảo ngược được.
Mặt
khác, giai cấp xuất hiện cũng có nghĩa là con người đã làm gia tăng một cách
đáng kể năng lực sản xuất và khai thác tự nhiên của mình. Con người đã vượt qua
được giai đoạn tiền sử - giai đoạn dã man và tiến vào giai đoạn văn
minh. Việc lao động trí óc được tách ra thành một dạng hoạt động chuyên
biệt là thêm một đòn bẩy hết sức mạnh mẽ để phát triển năng lực nhận thức của
con người: năng lực quan sát, chiêm nghiệm, năng lực tư duy, phân tích và tổng
hợp, tổng kết, nâng nhận thức từ trình độ cảm tính lên trình độ lý tính. Tất
cả những điều đó đã xây dựng nên nền văn hoá đặc trưng cho loài người: nền văn
hoá dân gian rất phong phú của quần chúng nhân dân và cả một nền văn hoá
bác học đồ sộ do những nhà trí thức các thế hệ sáng tạo ra. Sự phát triển
tất cả các hình thái ý thức của con người: tư tưởng, các môn khoa học tự nhiên,
các môn khoa học xã hội giúp con người không chỉ ngày càng nhận thức được và
làm chủ tự nhiên, mà còn vươn lên nhận thức được và làm chủ xã hội và cả bản
thân mình. Có thể nói, con người đã và còn tiếp tục sáng tạo ra cả một thế giới
mang tính người, được "người hoá". Thành tựu rực rỡ này làm
vinh quang cho con người, đồng thời cũng là điểm tới của một lộ trình vô cùng
gian nan và đau khổ, đẫm mồ hôi và máu: cái giá phải trả cho quá trình lịch sử
mấy nghìn năm của xã hội có giai cấp.
Cho
đến nay, xã hội loài người vẫn chưa thoát ra ngoài khuôn khổ của xã hội có giai
cấp. Vậy, ý thức giai cấp đã tác động như thế nào tới ý thức cộng đồng, cụ thể
ở đây là ý thức dân tộc?
Nhìn
một cách đại thể thì xã hội có giai cấp gồm hai lớp người: lớp trên là những
giai cấp bóc lột, thống trị và lớp dưới là những giai cấp lao động, bị trị. Là
thành viên của dân tộc, dĩ nhiên các giai cấp lớp trên cũng có ý thức về dân
tộc mình, có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Là giai cấp thống trị, nắm bộ máy nhà
nước, họ đồng hành với dân tộc mình và hiểu rằng, không có dân thì làm sao có
nước. Lợi ích giai cấp của họ thời kỳ đầu nằm trong lợi ích của dân tộc. Vô số
những anh hùng dân tộc trong lịch sử là những vua sáng, tướng tài, những nhà tư
tưởng, nhà văn hoá thuộc thành phần lớp trên. Nhưng khi một triều đại phong
kiến nào đó đã suy đồi thì cũng có những ông vua bán nước cầu vinh, “cõng rắn
cắn gà nhà” hòng giữ lại lợi ích nhỏ nhen của triều đại mình. Bản thân giai cấp
tư sản đã từng giương cao ngọn cờ cách mạng dân chủ, làm rung chuyển châu Âu
phong kiến các thế kỷ XVII, XVIII. Đại cách mạng Pháp đã đem lại thống nhất, tự
do và vinh quang cho dân tộc Pháp. Nhưng từ giữa thế kỷ XIX, chính giai cấp tư
sản Pháp đã trở thành bảo thủ và phản động; nó đã ký hiệp ước đầu hàng quân Phổ
xâm lược trong khi công nhân và nhân dân lao động Pari ngoan cường chống lại
(1871). Mặt khác, các giai cấp lớp trên đều là giai cấp thống trị, đều có tham
vọng mở rộng sự thống trị của giai cấp mình ra bên ngoài. Trong tư tưởng của
họ, ý thức về quốc gia, chủ nghĩa quốc gia luôn lấn át chủ nghĩa dân
tộc. Đó là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược, chinh phục
triền miên trong lịch sử của chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Ngược
lại là những giai cấp lao động ở lớp dưới. Họ không những duy trì được tính
người, một động vật biết tạo ra công cụ lao động và lao động bằng công cụ, mà
còn phát huy và hoàn thiện tính người với tư cách một động vật xã hội, nương
tựa vào nhau mà sống, có tình thương đồng loại và đạo lý làm người: đó chính là
chủ nghĩa nhân đạo. Dĩ nhiên, nhân dân lao động cũng có thể có biểu hiện
tư tưởng dân tộc hẹp hòi, vị kỷ, và ở thân phận bị trị có thể nhiều ít nhiễm tư
tưởng của giai cấp thống trị; nhưng cùng với sự tiến bộ về dân trí, họ dễ hiểu
ra rằng, lợi ích của mọi người lao động là thống nhất: suy ta ra người, vì
thương thân nên cũng thương người, vì trọng dân tộc mình nên cũng biết trọng
dân tộc khác. Chủ nghĩa dân tộc của họ không đối kháng với các dân tộc khác.
Giai cấp vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa không vướng chút nào vào
tư tưởng tư hữu, lại càng có điều kiện vật chất để đi tới tư tưởng chủ nghĩa
quốc tế thực sự(2) - hoàn toàn đối lập với mọi dạng chủ nghĩa quốc gia từng
có trong lịch sử. V.I.Lênin trước đây đã nhận xét: "Mỗi nền văn hoá
dân tộc đều có những thành phần, thậm chí không phát triển, của một nền
văn hoá dân chủ và xã hội chủ nghĩa, vì trong mỗi dân tộc đều có quần
chúng lao động và bị bóc lột mà điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản
sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong mỗi
dân tộc, cũng còn có một nền văn hoá tư sản (…) không phải chỉ ở trong tình
trạng là những “thành phần” mà là dưới hình thức nền văn hoá thống trị"(3).
Như
vậy, trong xã hội có giai cấp, chủ nghĩa dân tộc cũng có tính giai cấp. Có chủ
nghĩa dân tộc tiến bộ, cách mạng, cũng có chủ nghĩa dân tộc lỗi thời, phản
động. Chủ nghĩa dân tộc của các giai cấp lớp trên thay đổi tính chính trị của
nó tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử, khi giai cấp đó còn vai trò tiến bộ hay đã
lỗi thời. Chỉ có chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động là trước sau như một,
đó là chủ nghĩa dân tộc chân chính.
Ra
đi tìm đường cứu nước từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại và hoạt
động cách mạng với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước năm 1941, Người đã trực
tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và trở thành vị Chủ tịch
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đầu năm 1946, Người công khai bày
tỏ tâm tư của mình: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"(4).
Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi xa, Người đã nhìn lại cả cuộc đời mình khi trả
lời một phóng viên: "Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi"(5).
Động lực làm nên chí khí và sự nghiệp Hồ Chí Minh chính là điều mà Người đã
mạnh dạn gọi là chủ nghĩa dân tộc. Đó là tư tưởng nền tảng, nhất quán
trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, nhưng đó là chủ nghĩa dân tộc đã được làm
giàu thêm bằng những tinh hoa trong tư tưởng chính trị của loài người: chủ
nghĩa dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ
Chí Minh đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc mình và cũng vì tất cả các dân
tộc bị áp bức khác trên thế giới. Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động; nó không tách rời mà trái
lại, luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.r
(*) Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1)
Xtalin cho rằng,
“Quá trình thủ
tiêu chủ
nghĩa
phong kiến
và phát triển
chủ
nghĩa
tư
bản
đồng
thời
cũng
là quá trình người
ta kết
hợp
thành dân tộc”.
Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.24.
(2)
Giai cấp tư sản cũng có “tính quốc tế” nhưng họ chỉ liên kết được với nhau
trong chừng mực phải đương đầu với giai cấp vô sản, họ chỉ có tính quốc tế “nửa
vời”, không “thực sự”; còn bản thân họ thì không bao giờ hết cạnh tranh đối
địch với nhau (Tác giả).
(3)
V.I.Lênin. Toàn tập, t.24. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.154.
(4)
Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.161.
(5) Hồ Chí
Minh. Sđd., t.10, tr.560.