I. Một số điều nên
lưu ý khi nghiên cứu Trung Quốc đương đại
Trung Quốc là một nước lớn, 9,6 triệu
km vuông, chiếm 1/5 diện tích thế giới, 1/4 diện tích châu Á, đứng thứ 3 thế
giới (sau Nga và Canada).
Trung Quốc hiện có khoảng 1,3 tỷ dân (là nước đông dân nhất thế giới, chiếm
khoảng 1/5 nhân loại) dự kiến đến năm 2020 sẽ tăng lên đến 1,5 - 1, 6 tỷ dân
(lúc đó sẽ đứng thứ hai thế giới sau Ấn Độ).
Trung Quốc là nước có đường biên
giới trên đất liền tiếp giáp với 19 nước, dài trên 20.000 km, và bờ biển dài
18.000 km. Từ đầu những năm 60 đến cuối những năm 70 của thế kỷ trước, Trung
Quốc đã chủ động gây ra 3 cuộc chiến tranh biên giới trên bộ (với Ấn Độ,
Liên Xô cũ và Việt Nam). Đến nay Trung Quốc còn tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ
(theo phía Ấn Độ thì Trung Quốc đã chiếm của họ hàng vạn km vuông lãnh thổ,
trong khi Trung Quốc cho là họ chỉ thu hồi lại phần đất mà trước đây thực dân
Anh đã chiếm của họ một cách bất công). Trung Quốc đang tranh chấp về chủ
quyền đảo, biển với nhiều nước, nổi bật là chủ quyền đảo Senkaku (Điếu Ngư)
với Nhật Bản (hiện nay Nhật Bản đang chiếm giữ đảo này), quần đảo Hoàng Sa với
Việt Nam, quần đảo Trường Sa với Việt Nam và một phần quần đảo này với
Phi-líp-pin, Brunei, Malayxia, Đài Loan, với Indonesia và (Bắc) Triều Tiên, Hàn
Quốc có việc phân chia lãnh hải. Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng
toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (năm 1974) và 6 bãi đá ngầm trên quần
đảo Trường Sa của Việt Nam (năm 1988). Trong tranh chấp ở biển Đông, Trung
Quốc đã từ chỗ chưa bao giờ có, nay đã đứng vững trên quần đảo Hoàng Sa và có
chỗ đặt chân trên quần đảo Trường Sa, thể hiện chủ quyền thực tế.
Trung Quốc hiện đã trở thành
cường quốc kinh tế, năm 2004, GDP đạt 13.615,5 tỷ NDT (khoảng 1665 tỷ USD), sản
xuất được 970 triệu tấn xi măng, 175 triệu tấn dầu mỏ, 272 triệu tấn thép,
73,28 triệu tivi màu, 30,38 triệu tủ lạnh, 66,42 triệu điều hòa không khí, 42
tỷ mét vải v.v.., kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1154,8 tỷ USD (trong đó xuất
khẩu 593,4 tỷ USD, nhập khẩu 561,4 tỷ, xuất siêu 32 tỷ USD); dự trữ ngoại
tệ đạt 609 tỷ USD (năm 2002 đạt 270 tỷ USD, năm 2003 đạt 403,3 tỷ, trong 3 năm
liền tăng với tốc độ rất cao). Trung Quốc đã là nước thu hút đầu tư lớn nhất
thế giới, năm 2004 đạt trên 60 tỷ USD. Việc Trung Quốc được mời vào nhóm
G7 đã là hiện thực.
Sau Nga và Mỹ, Trung Quốc là
cường quốc quân sự hàng đầu trên thế giới, có bom nguyên tử, bom khinh khí và
phương tiện mang các vũ khí này tới mọi nơi trên thế giới; sau Nga và Mỹ, Trung
Quốc đã tự đưa được người của mình vào vũ trụ.
Trung Quốc là một cường quốc
chính trị (Nhật Bản hiện giàu mạnh hớn Trung Quốc về kinh tế nhưng Nhật Bản chưa
được thế giới coi là cường quốc về chính trị) là thành viên thường trực của Hội
đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, là nước có ảnh hưởng không thể bỏ qua trong khu vực
(Đông Nam Á và Đông Bắc Á).
Trung Quốc là một trong mấy nước
có nền văn minh cổ xưa huy hoàng nhất thế giới, nền văn minh đó có lúc lên lúc
xuống, nhưng trước sau vẫn nổi tiếng, xưa nay chưa bao giờ gián đoạn, và có
triển vọng phát triển rực rỡ trong thế kỷ 21, Trung Quốc còn có hơn 30 triệu
người Hoa ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có nhiều tỷ phú, nhiều nhà khoa
học nổi tiếng v.v..
Tuy vậy, Trung Quốc đang phải đối
mặt với mấy vấn đề: An toàn về dầu mỏ, an toàn về nước và an toàn về lương
thực.
Mặc dù năm 2004, Trung Quốc đã
sản xuất được 176 triệu tấn dầu mỏ, nhưng Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu 100
triệu tấn. Trung Quốc đã là nước nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ hai, sau Mỹ. Dự
kiến đến năm 2010, lượng nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc mỗi ngày sẽ tăng gấp
đôi, đạt 4 triệu thùng/ngày và đến năm 2030 vào khoảng 10 triệu thùng/ngày.
Nguồn tài nguyên nước của Trung
Quốc chỉ chiếm khoảng 6% thế giới, bình quân đầu người chỉ bằng 1/4 trung bình
thế giới. Dự tính vào khoảng năm 2030, Trung Quốc sẽ đạt đến đỉnh cao về sử
dụng nước, và lượng nước dùng lúc đó đã đến cực hạn của nguồn nước có thể lợi dụng.
Mấy năm gần đây, trung bình mỗi
năm Trung Quốc mất khoảng 300.000 ha đất canh tác, trong khi dân số mỗi năm
tăng khoảng 10 triệu người, người tăng đất giảm, nên việc cung cầu lương thực ở
Trung Quốc đã và sẽ luôn ở trạng thái cân bằng căng thẳng.
Trung Quốc là đất nước có đủ loại
tôn giáo, trong đó đạo Phật rất được tôn sùng ở Tây Tạng, đạo Hồi ở Tân Cương,
Ninh Hạ có nhiều khả năng tự phát, hoặc bị lợi dụng để phát triển thành mâu
thuẫn tôn giáo, mâu thuẫn dân tộc, các tà giáo (như Pháp Luân Công...) còn có
đất phát triển.
Chênh lệch giàu nghèo giữa các
vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng mở
rộng. Một bộ phận quần chúng, chủ yếu là nông dân nghèo, công nhân viên chức bị
mất việc trong quá trình cải cách có tâm lý bất mãn (năm 2004 đã xảy ra nhiều
vụ biểu tình, tuần hành của thôn dân ở Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Hồ Nam..) với
hàng chục vạn người tham gia, gây mất ổn định cục bộ.
Qua một số số liệu và tình hình
trên, có thể thấy Trung Quốc đã trở thành một cường quốc chính trị, quân sự,
kinh tế trên thế giới có vai trò đặc biệt ở khu vực. Địa vị cường quốc đó ngày
một lớn và triển vọng trở thành siêu cường ngang hàng với Mỹ trong khoảng hai
mươi năm nữa không phải là không có khả năng.
II. Vài
nhận định căn bản về liên hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam
Trước
khi đề xuất kiến nghị về chính sách và đối sách có tính lâu dài, cần thấy rõ,
làm rõ một số vấn đề sau:
A. Chiến lược, sách lược, sức mạnh của Trung Quốc đến năm 2020
Cần phải thấy sự tan rã của Liên
Xô, kết thúc chiến tranh lạnh là một cơ hội “trời cho” đối với Trung Quốc. Để
thoát khỏi thế hai cực thống trị thế giới hình thành sau đại chiến thế giới thứ
hai, thoát khỏi kiềm chế của Liên Xô và Mỹ trong những năm 50, 60, 70 của thế
kỷ trước, cấp lãnh đạo Trung Quốc (từ Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình) đã tìm
trăm phương ngàn kế nhằm nhoi lên thành một cực, một siêu cường nhưng chưa thực
hiện được. Liên Xô tan rã, một cực, một siêu cường mất đi. Đây là cơ hội vàng
để Trung Quốc nhoi lên thành siêu cường mới (nước Nga còn rất yếu về kinh tế,
Nhật Bản chưa đủ sức mạnh về quân sự và dã tâm chưa rõ, EU là một thực thể mạnh
về kinh tế, nhưng không thống nhất v.v..) Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng
sự tăng trưởng lớn mạnh về kinh tế của mình có thể giữ được tốc độ cao và tương
đối cao liên tục trong 40 năm (từ năm 1980 đến năm 2020) để đến lúc đó, Trung
Quốc trở thành cường quốc hàng đầu về kinh tế trên thế giới (Theo tính toán
của Ngân Hàng Thế Giới năm 1997 thì đến năm 2020 GDP của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ,
còn theo tính toán của Hồ An Cương – một nhà kinh tế học nổi tiếng Trung Quốc
thì đến năm 2020, Trung Quốc sẽ trở thành một thực thể kinh tế lớn nhất thế
giới, chiếm 22% GDP thế giới – của Mỹ lúc đó chỉ là 20%, còn nếu tính theo sức
mạnh tổng hợp đất nước (tức năng lực tổng hợp của một quốc gia thông qua những
hành động có mục đích nhằm theo đuổi mục tiêu chiến lược của mình)) năm 1998
của Mỹ là 22,7% của thế giới. Đứng đầu thế giới, của Trung Quốc là 7,78% đứng
thứ hai thế giới trên cả Nga, Ấn Độ. Đáng chú ý là nếu năm 1980, sức mạnh tổng
hợp đất nước của Trung Quốc mới bằng 1/5 của Mỹ, thì đến năm 1998, Trung Quốc
đã bằng 1/3 của Mỹ, tức là trong 20 năm, Trung Quốc từ chỗ kém Mỹ năm lần rút
ngắn còn ba lần thôi.
Trung Quốc cho rằng “Hòa bình và
phát triển vẫn là chủ đề chính của thời đại. Sự phát triển đa cực hóa thế giới
và xu thế toàn cầu hóa kinh tế mang lại cơ hội và điều kiện có lợi cho hòa bình
và phát triển của thế giới. Đại chiến thế giới mới sẽ không xảy ra trong khoảng
thời gian có thể dự tính được. Việc tranh thủ môi trường quốc tế lâu dài và môi
trường xung quanh tốt đẹp là có thể thực hiện được”.
Ngoài những chủ trương lớn như
độc lập, tự chủ, gìn giữ hòa bình, xây dựng trật tự kinh tế công bằng hợp lý,
cải thiện và phát triển quan hệ với các nước láng giềng, nước đang phát triển,
chống chủ nghĩa khủng bố v.v.. ra, cần chú ý đến những nguyên tắc của họ: “Ai
cũng không sợ, nhưng không làm mếch lòng ai “Quyết không đi đầu”...
Để thực hiện mục tiêu chiến lược
“Dân giàu nước mạnh” đưa Trung Quốc trở thành siêu cường, cạnh tranh vai trò
siêu cường duy nhất của Mỹ hiện nay, Trung Quốc dốc nhiều tâm sức vào việc đối
phó với đối thủ hàng đầu là Mỹ và một số đối thủ tiềm ẩn khác như Nhật, Nga, Ấn
Độ... Tuy vậy, Trung Quốc không “bỏ qua” Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của
họ.
B. Trung Quốc muốn gì ở Việt Nam?
Việt Nam có trên 1.300 km biên
giới trên bộ với Trung Quốc, ngoài ra với hơn 3.000 km bờ biển, án giữ Biển
Đông, chúng ta là nước duy nhất (không kể Đài Loan) có tranh chấp về chủ quyền
với Trung Quốc toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ khi Việt Nam tiến
hành cải cách và đổi mới, đặc biệt là sau khi gia nhập ASEAN, bình thường quan
hệ với Mỹ, tích cực chuẩn bị gia nhập WTO, chúng ta đã có vai trò đáng kể ở
Đông Dương và khu vực Đông Nam Á. Đó là một sự thực mà Trung Quốc không thể xem
thường. Mặc dù hai nước đã thỏa thuận xây dựng quan hệ Việt – Trung theo phương
châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai” nhưng qua những diễn biến kể từ khi hai nước bình thường hóa
quan hệ đến nay, có thể thấy:
- Yêu cầu tối đa của Trung Quốc
là biến Việt Nam
thành một đồng minh trung thành của họ (trường hợp tốt hơn nữa là “tay sai tin
cậy” của họ).
- Yêu cầu trung bình của Trung
Quốc là không muốn Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, trở thành nước cạnh tranh
về kinh tế với Trung Quốc ở Biển Đông, tranh giành ảnh hưởng của Trung Quốc
trong khu vực.
- Yêu cầu tối thiểu tức là khi họ
không ngăn được sự phát triển nhanh về mọi mặt của ta thì Việt Nam giữ được vị
trí trung lập, không đi theo các nước lớn khác chống Trung Quốc.
Cần thấy thêm là ban lãnh đạo
Trung Quốc hiện nay (và có thể thế hệ sau), không tin ta, một bộ phận Trung
Quốc nhất là thế hệ trẻ không còn cảm tình với ta như trước (do bị giáo dục sai
lệch từ cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đến nay), khi muốn “gây sự” với
Việt Nam, Trung Quốc không cần phải chuẩn bị dư luận nội bộ. Trung Quốc là
nguy cơ trực tiếp nguy hiểm nhất về lãnh thổ, lãnh hải của ta.
3. Việt Nam nên nhận thức Trung
Quốc như thế nào?
Trung Quốc là một nước lớn (sẽ
trở thành siêu cường) láng giềng chung đường biên giới trên bộ – biển (Mỹ là
siêu cường ở xa ta, nên mức độ nguy hiểm giảm đi nhiều). Đừng quên bài học đối
đầu với nước lớn láng giềng Trung Quốc trong mười mấy năm qua.
Trung Quốc là nước còn tồn tại
nhiều vấn đề với ta nhất; ngoài lãnh thổ, lãnh hải, biển đạo còn các vấn đề
“nạn kiều” (280.000 người rời Việt Nam, trong đó có những người có công với
cách mạng Việt Nam) người Hoa (hơn 1 triệu người), nợ vay từ thời xây dựng hòa
bình và thời kỳ chống Mỹ (khoảng 1,5 tỷ NDT, vừa qua dịp Tổng bí thư Nông Đức
Mạnh đi thăm Trung Quốc, Trung Quốc đã xóa bớt cho ta còn 420 triệu NDT), những
phụ nữ Việt Nam nhập cảnh phi pháp lấy chồng sinh con đẻ cái (do bị dụ dỗ và do
cả tự nguyện) hiện còn đang sinh sống nhiều nơi trong Trung Quốc (chưa có con
số thống kê cụ thể, nhưng không ít hơn mười mấy vạn người). Khi muốn gây
chuyện và gây sức ép, Trung Quốc không thiếu con bài để sử dụng.
Trung Quốc không còn chung ý thức
hệ với Việt Nam.
Họ không còn tinh thần quốc tế vô sản, “Đồng chí” đối với họ chỉ là mỹ từ dùng
để lừa gạt những ai nhẹ dạ. Cần nhớ là trong thời gian qua Trung Quốc chưa
giúp được nước nào phát triển cả.
Những người lãnh đạo Trung Quốc
và ban tham mưu của họ là những bậc thầy về lợi dụng mâu thuẫn. Về chính trị,
kinh tế, không bao giờ họ chỉ sử dụng một con bài, một phương án, họ luôn có
con bài dự trữ. Nên ghi nhớ câu nói của người Trung Quốc: “Người tốt với ta
một, ta tốt với người mười. Người xấu với ta một, ta xấu với người một trăm” và
“Ta thà phụ người chứ không bao giờ để người phụ ta” (Ba cuộc chiến tranh biên
giới với Ấn Độ, Liên Xô và Việt Nam, Trung Quốc đều bất ngờ “ra tay trước”).
Mặc dù Trung Quốc đang tồn tại
nhiều vấn đề, sự phát triển không đều giữa các vùng, nông dân, nông nghiệp,
nông thôn chưa xử lý tốt, chênh lệch giàu nghèo ngày càng mở rộng, vấn đề dân
tộc, tôn giáo đang âm ỉ, nhưng nhìn chung xã hội Trung Quốc đang trên đà phát
triển ổn định. Khẩu hiệu “Chấn hưng Trung Quốc” xây dựng một xã hội hài hòa đã
thấm sâu vào lòng người, với tư tưởng quan trọng “Ba đại diện” Đảng cộng sản
Trung Quốc còn có thể duy trì được sự lãnh đạo của mình trong nhiều năm nữa (vì
Đảng này đang tự thay đổi về nhiều mặt tư tưởng, lý luận, tổ chức, chính
sách..) vì vậy đừng đặt ảo tưởng vào việc Trung Quốc xảy ra động loạn lớn
hay quay trở lại con đường đồng chí anh em với ta.
III. Một số đề
nghị và đối sách
A. Những điều kiện không
thể thiếu cho những chính sách và đối sách cụ thể
(1) Nội bộ trước hết là ban
lãnh đạo cao nhất, phải có sự đoàn kết nhất trí cao, xin dùng câu nói của Trần
Hưng Đạo khuyên vua Trần, trước khi ngài mất để khái quát “Trên dưới đồng lòng,
vua tôi hòa thuận”. Khó lại có thể có nổi, nhưng vẫn ao ước được một phần của
thời Bác Hồ, tuyệt đại đa số nhân dân đồng lòng đánh Mỹ, tin tưởng vững chắc ở
sự lãnh đạo của Đảng và của Bác, trong nội bộ lãnh đạo cao nhất dù có bất hòa,
bất đồng, nhưng vẫn có thể nói công khai và chưa dám hoặc chưa thể tìm cách triệt
tiêu nhau, làm hại nhau, kéo bè kéo cánh... Vì vậy đã tập trung được trí tuệ
cao nhất của toàn dân, toàn Đảng vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược.
Còn bây giờ suy nghĩ của người
dân vừa phức tạp, vừa phân hóa mà lãnh đạo chưa tìm được nhân tố nào để liên
kết lại tạo thành sức mạnh. Ở đây có khó khăn là chúng ta đang từ nền kinh tế
kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều
vấn đề cũ đòi hỏi phải giải quyết, nhiều vấn đề mới xuất hiện mà chúng ta chưa
đủ kinh nghiệm và bản lĩnh để xử lý .. (thế nhưng, bài học Trung Quốc giương
cao ngọn cờ “chấn hưng Trung Quốc”, “dân giàu nước mạnh” trong quyết sách những
vấn đề đối nội, đối ngoại rất để chúng ta suy nghĩ).
Trong tình hình hiện nay, chỉ cần
bị chụp cái mũ “phá hoại tình hữu nghị Việt-Trung” hoặc “Thân Mỹ” là nhiều sự
việc đã được giải quyết một cách gọn ghẽ, và sinh mạng chính trị có thể bị đe
dọa.
Không có một ban lãnh đạo đoàn
kết nhất trí, tập trung được tinh hoa của dân tộc thì mọi kiến nghị về chính
sách, đối sách cũng chẳng có tác dụng gì. Nhìn lại lịch sử, mỗi khi nội
bộ nước ta lục đục, triều chính đồi bại, chính là lúc phong kiến phương Bắc
tăng cường sức ép, yêu sách và tiến hành xâm lược, chiếm đóng. Và Trung Quốc
hiện đại cũng chưa bao giờ từ bỏ tác động vào nội bộ ta.
Trong quan hệ giữa nước lớn và
nước nhỏ, nước nhỏ ở thế bị động. Lực lượng nghiên cứu Trung Quốc ở nước
ta hiện nay không ít, nhưng phân tán, rời rạc, thiếu chuyên gia đầu đàn, thiếu
chuyên gia giỏi cho từng lĩnh vực. Cần có sự tổ chức, phân công, chính sách
thích hợp để tập hợp được tinh hoa, giành chủ động trong thế bị động với Trung
Quốc.
(2) Nói chung, chúng ta phải kiên
quyết bảo vệ những nguyên tắc lớn, những vấn đề đụng chạm đến chủ quyền, đến sự
tôn nghiêm của dân tộc, trong khi xử lý quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc,
chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo, cảnh giác, hiểu rõ vai trò và sĩ diện nước
lớn của họ để tùy từng vấn đề, vụ việc mà có khi phải vuốt bụng nhịn,
nhường họ trong một sự việc nhạy cảm cụ thể nào đó, thậm chí có khi phải
tránh đường hoặc đi đường vòng, “tránh voi chẳng xấu mặt nào” mà. Cần hết sức
lưu ý là đừng để bao giờ lâm vào cảnh mình là người đối đầu duy nhất với
Trung Quốc.
(3) Chúng ta tôn trọng Trung
Quốc, hiểu rõ sức nặng nước lớn – láng giềng của họ – nhưng không vì thế mà
chúng ta phải nơm nớp sợ họ, lùi bước trước sức ép của họ một cách bị động,
thậm chí nhượng bộ họ một cách vô nguyên tắc.
Cần phải thấy rằng Trung Quốc
không thể ép chúng ta, đối xử với chúng ta một cách quá mức để Việt Nam phải
ngả sang với Mỹ. Nói giả dụ một nước Việt Nam “thân Mỹ” hùng mạnh, ở ngay biên
giới phía Nam của Trung Quốc, án ngữ biển Đông (nơi 21/39 đường hàng hải Trung
Quốc phải đi qua) sẽ ảnh hưởng tới an ninh của Trung Quốc như thế nào. Hơn nữa,
mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là trở thành siêu cường. Siêu cường không thể
không có đồng minh thân cận (như Mỹ với Anh), Trung Quốc hiện nay chưa có đồng
minh thân cận (Bắc Triều Tiên không được Trung Quốc coi là đồng minh tin cậy)
do đó Trung Quốc không thể từ bỏ ý đồ lôi kéo Việt Nam. Ngoài ra trong đối xử
với Trung Quốc, chúng ta còn có các nước trong khu vực, một số nước lớn khác,
nhiều nước đang phát triển... nên ngoài sức mạnh bản thân, chúng ta còn có sự
ủng hộ của loài người tiến bộ và cả “cái thế” lựa chọn nữa. (Nói như vậy không
có nghĩa là chúng ta ngả hẳn về một phía để chống Trung Quốc).
(4) Trung Quốc là một nước đi tắt
đón đầu tốt nhất, sẽ hoàn thành hiện đại hóa trong thời gian lịch sử tương đối
(khoảng 100 năm). Trung Quốc là nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường tương đối thành công, do
vậy có nhiều điều chúng ta có thể học tập, rút kinh nghiệm từ họ (ngay cả với
những vấn đề không thành công). Tuy vậy cần tránh hai khuynh hướng; cho rằng
cái gì của Trung Quốc cũng hay hoặc ngược lại cho rằng Trung Quốc chẳng có gì
đáng học cả, để tránh bắt chước một cách mù quáng hoặc bài xích.
B. Một số kiến nghị về đối
sách và chính sách
Trước khi nêu một số vấn đề cụ
thể, xin tóm tắt những điều đã nói ở trên: “Trung Quốc là một nước láng giềng
lớn mạnh và ngày càng hùng mạnh hơn nữa. Giữa họ và ta còn tồn tại nhiều vấn đề
(có vấn đề rất phức tạp, gay cấn), họ có tham vọng lớn với ta về cả lãnh thổ,
chính trị, kinh tế. Chúng ta cần tôn trọng, nhân nhượng với Trung Quốc trong
những vụ việc có thể nhân nhượng được. Quyết không đi với nước khác hay nhóm
nước khác chống lại Trung Quốc và không bao giờ để rơi vào thế một mình đối đầu
với Trung Quốc, nhưng quyết không khiếp sợ họ, lùi bước hoặc từ bỏ những vụ
việc không thể từ bỏ được. Nội bộ chúng ta đoàn kết nhất trí, tập trung được
sức mạnh và trí tuệ toàn dân, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước
trong khu vực và trên toàn thế giới, lớn mạnh nhanh chóng về mọi mặt là bảo đảm
vững chắc cho mọi ứng xử đã, đang và sẽ xảy ra trong mối quan hệ hai nước”.
(1) Vấn đề biên giới lãnh thổ
Ngày 30/12/1999, hai nước ký Hiệp
ước biên giới trên đất liền (có hiệu lức từ ngày 6/7/2000). Đến nay hai bên đã
cắm được 400 cột mốc biên giới. Tốc độ cắm như vậy là chậm (theo tính toán sẽ
có khoảng 1.100 cột trên hơn 1300km đường biên). Hiệp định đã được ký và đã có
hiệu lực, thiệt hơn khó có thể sửa được, vì vậy chúng ta không nên kéo dài
thời gian cắm mốc (bởi vì nước yếu hơn bao giờ cũng phải chịu phần thua
thiệt, nhất là khi sự đã rồi). Qua việc ký kết Hiệp ước biên giới giữa Trung
Quốc và Mông Cổ, Lào, Miến Điện, thấy nói chung Trung Quốc tôn trọng đường biên
giới đã ký (cũng có thể mấy nước này không có vấn đề gì gay cấn với Trung Quốc,
nên họ không dùng vấn đề biên giới để gây sự...), tuy vậy có cái rõ ràng để làm
cơ sở đấu tranh sau này còn hơn là không có.
(a) Hiệp định phân định vịnh Bắc
Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá
Ký ngày 25/12/2000 và có hiệu lực
từ ngày 30/2/2004. Nói chung ký được bây giờ còn hơn sau mới ký. Tuy vậy thời
hạn của vùng đánh cá chung để hơi dài (12-15 năm), Trung Quốc sẽ triệt để lợi
dụng thời gian này để khai thác và gây sự. Tàu ta bé, lưới ta nhỏ hơn, phần
thua thiệt đã rõ, oán trách lẫn nhau cũng không xoay chuyển được tình hình, nếu
không vươn lên ngang ngửa với họ (một cách đúng luật) thì đành chấp nhận. Việc
thăm dò khai thác tài nguyên trong lãnh hải thuộc chủ quyền đã phân định của ta
trong Vịnh bắc bộ cần phải cảnh giác, đề phòng mọi khả năng có thể xảy ra.
(b) Về hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa
Quần đảo Hoàng Sa. Chỉ có Việt Nam, Trung Quốc và
Đài Loan đòi chủ quyền quần đảo này, hiện Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng
phi pháp toàn bộ (một nửa năm 1956 và nửa còn lại tháng 1 năm 1974) và ngang
nhiên coi chúng là của mình. Ta không thể dùng vũ lực để thu hồi, nhưng không
thể từ bỏ chủ quyền. Có thể chỉ nên đòi những đảo mà Trung Quốc đánh chiếm từ
tay chính quyền Sài Gòn hồi tháng 1 năm 1974, như thế vừa tỏ ra có nhượng bộ mà
vẫn có cơ sở pháp lý để thế hệ sau giải quyết vấn đề.
Quần đảo Trường Sa. Đây là nơi tranh chấp của Việt
Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi-líp-pin, Brunei, Malaysia về biển đảo và
Indonesia (có thể cả Đông Timor) về lãnh hải. Hiện nay số đảo bãi ngầm mà các
bên chiếm giữ là Việt Nam
21, Phi-líp-pin 8, Trung Quốc 6 và Đài Loan 1.
Chúng ta nên đòi chủ quyền một
phần quần đảo này, nghĩa là ngoài 21 đảo bãi ngầm mà chúng ta đã chiếm giữ ra,
ta chỉ đòi quyền ở những bãi đảo ngầm dọc theo bờ biển nước ta cho đến hết phần
biển Đông. Ta không phản đối Trung Quốc thăm dò khai thác ở vùng lãnh hải sát Phi-líp-pin, Indonesia v.v.. Đây không phải là
sự từ bỏ chủ quyền, việc đồng ý của Trung Quốc và Phi-líp-pin thăm dò ở vùng
thuộc biển Đông nhưng cách rất xa ta là một quyết định khôn ngoan. Từ nay nên
tránh một mình phản đối Trung Quốc ở những nơi xa tít tắp trên biển Đông, nhưng
với những cái đã có và những cái ở sát sườn mình thì quyết không nhân nhượng.
Trong vấn đề quần đảo, Trung Quốc
rất không muốn quốc tế hóa, chính vì vậy mà chúng ta cần khôn ngoan quốc tế hóa
vấn đề, nhất là tìm kiếm sự “có mặt” của Mỹ.
(c) Trong vấn đề biên giới, biển
đảo
Chúng ta cần công khai đến mức
tối đa, tập trung được trí tuệ của toàn dân tộc. Không nên coi đó là việc
làm của riêng một số người và không ai chịu trách nhiệm cả. Cụ Phan Thanh
Giản thời Nguyễn sau khi kí hiệp ước cắt sáu tỉnh Nam Bộ cho xâm lược Pháp, đã
phải uống thuốc độc tự vẫn. Vì vậy quyết không được coi thường dư luận.
(2) Các vấn đề hợp tác kinh
tế, ngoại thương, hợp tác văn hóa, kỹ thuật v.v..
Những vấn đề nay tiến hành như
thời gian qua là tương đối tốt, ngoại trừ tệ nạn buôn lậu và thu hút đầu tư của
Trung Quốc chưa được nhiều.
Chúng ta đều biết, tháng 5 năm
2004, thủ tướng Phan Văn Khải thăm Trung Quốc và tháng 10 cùng năm, thủ tướng
Ôn Gia Bảo thăm Việt Nam. Qua hai chuyến thăm đó, hai bên đã xác định hợp tác;
Hành lang Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, hành lang Côn
Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ (mà theo ý
tưởng của một học giả Trung Quốc, vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ gồm 10 tỉnh,
thành phố sau đây của Việt Nam: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị với diện tích
58.452 km vuông và 16,8 triệu dân, còn phía Trung Quốc chỉ gồm: cảng Phòng
Thành, Khâm Châu, Bắc Hải, Ngọc Lâm của tỉnh Quảng Tây và Trạm Giang, Mạo Danh
thuộc tỉnh Quảng Đông, và Tỉnh Hải Nam với diện tích 113.876 kilômét vuông và
39,8 triệu người).
Ngoại trừ Trạm Giang và Mạo Danh
thuộc tỉnh Quảng Đông là vùng duyên hải khá phát triển của Trung Quốc ra, hai
tỉnh Vân Nam và Quảng Tây thuộc vùng phát triển trung bình kém của Trung Quốc
(theo số liệu của Ngân Hàng Thế Giới năm 2000, bình quân đầu người GDP tính
theo trình độ sức mua (PPP) của Quảng Tây đứng thứ 155 trên 206 nước và khu vực
trên thế giới, còn Vân Nam là 149/206), nói một cách khác là sự phát triển của
họ không cao hơn Việt Nam bao nhiêu.
Mở hai hành lang kinh tế và vành
đai kinh tế nói trên, nếu nói là Việt nam không thu được lợi ích gì là không
đúng, nhưng rõ ràng là sự thua thiệt về ta. Trước hết ta không thể chờ
vào sự thu hút đầu tư vốn và kỹ thuật tiên tiến. Thứ hai, họ sẽ hút hết
những nguyên liệu thô quý báu của chúng ta. Thứ ba, thông qua các hành
lang và vành đai này, Việt Nam
sẽ là nơi để trút hàng kém phẩm chất, hàng giả, hàng nhái của Trung Quốc thông
qua con đường buôn lậu. Chưa có hai hành lang, một vành đai chúng ta đã khốn khổ
vì nạn nhập “hàng lậu” của Trung Quốc, thử hỏi khi chúng hình thành tình hình
sẽ ra sao. Thứ tư, hai hành lang, một vành đai có thể nói là một sự mở
toang cánh cửa cho sự xâm nhập về mọi mặt của Trung Quốc một cách công khai, dễ
dàng vào Việt Nam.
Vấn đề an ninh quốc gia sẽ như thế nào đây?
Khi đã hợp tác thì hai bên phải
cùng có lợi, ai giỏi tính toán hơn thì được phần nhỉnh hơn, nhưng phải cố gắng
để không thiệt hại nhiều. Trung Quốc đã muốn thì ta không thể từ chối hoàn toàn
và ta cũng không dại gì mà không hợp tác với Trung Quốc nhưng vấn đề mà hai bên
cùng có lợi. Nhưng của nả của ta có nhiều đâu? Không làm thử một hành lang
thôi? Các làm tốt nhất là cho tiếng, là sự biểu thị sự tôn trọng, sự không
chống lại họ, và nếu là những đồng tình thì càng nên khai thác.
(3) Một vài kiến nghị và
đối sách đối với Mỹ, Nhật
(a) Với Mỹ
Phải sau kết thúc chiến tranh hơn
20 năm (4/1975 – 8/1995) chúng ta mới lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Ở đây, có
lỗi của người Mỹ, nhưng phải thấy là chúng ta đã để lỡ thời cơ và mắc mưu Trung
Quốc trong việc sa lầy ở Campuchia. Đề nghị hãy đọc lại và suy ngẫm thật sâu,
thật kỹ việc Lê Lợi – Nguyễn Trãi đã chủ động, nín nhịn và sáng suốt hơn
người để nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với nhà Minh. Sau gần 20 năm chiếm
đóng, giặc Minh đã gây cho nhân dân chúng ta những tội ác “trời không dung, đất
không tha” như “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm
tai vạ”.. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò trai, nào hố bẫy hươu đen, nào
lưới dò chi chả. Tàn tạ cả côn trùng, thảo mộc (khác gì chất độc da cam)... chẻ
hết trúc Nam Sơn không ghi hết tội ác; lấy hết nước Nam Hải không rửa hết hôi
tanh”. Nhưng khi giặc đã chịu thua rút quân về nước (như quân viễn chinh Mỹ)
thì mặc dù vừa qua sự tàn phá ghê gớm của chiến tranh, mối căm thù với giặc
chưa nguôi, nhưng xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc, Lê Lợi – Nguyễn
Trãi vẫn “Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho 500 chiến thuyền (ra đến biển chưa thôi
trống ngực), Vương Thông, Mã Anh phát cho vài trăm cỗ ngựa (về đến nước còn
toát mồ hôi), và sau đó còn chịu cống người vàng Liễu Thăng trong một thời
gian, để yên phương Bắc, xây dựng lại đất nước. Không có quyết sách này làm sao
có thời thịnh trị Lê Thánh Tôn sau đó.
Một vấn đề cần đặt ra đây để đối
chiếu. Vì sao Trung Quốc bất ngờ, chủ động gây ra cuộc chiến tranh biên giới,
giết hại khá nhiều chiến sĩ đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất và nhà
cửa ở các thị xã thuộc các tỉnh biên giới (chưa kể việc họ còn giúp bọn Khờ-me
Đỏ đánh úp ở biên giới nước ta và cuộc chiến đấu sau khi ta vào Campuchia làm
rất nhiều chiến sĩ và đồng bào ta bị hy sinh, mang thương tật. Nghe nói ở
Campuchia, tổn thất, thương vong về người của chúng ta bằng cả cuộc chiến tranh
chống Pháp). Thế mà họ không hề có một lời xin lỗi, một tý đền bù, còn trịnh
thượng ra điều kiện cho chúng ta khi bình thường hóa quan hệ (sao lại có sự đối
xử không công bằng với hai nước như vậy?)
Cần thấy rằng nước Mỹ không phải
là kẻ thù truyền thống của ta, họ lại ở rất xa ta, không có tham vọng về lãnh
thổ của ta và không có nhiều vấn đề gay cấn với ta như với Trung Quốc. Là một
siêu cường, Mỹ có thể hiện nước lớn của mình, chúng ta cần tôn trọng họ, chí ít
cũng như đối với Trung Quốc. Khách quan mà nói Mỹ (một số nước phát triển ở Tây
Âu, Nga, Nhật ...) đang là những người kiềm chế hành vi quá khích ở Trung Quốc;
không có cuộc cấm vận sau sự kiện Thiên An Môn (tháng 4/198) mà cuộc cấm vận về
quân sự còn kéo dài đến tận bây giờ, và những tuyên bố của Mỹ, chưa ai biết là
Trung Quốc đã và sẽ làm gì ở biển Đông.
Vì thế cần nhanh chóng đẩy mạnh
quan hệ với Mỹ, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, giáo dục. Cần nghiêm chỉnh học tập tinh
thần của cha ông, rửa mặt cho người Mỹ, dù là đã muộn, nhưng muộn còn
hơn không. Tất nhiên Trung Quốc không vừa lòng nếu ta cải thiện mối quan hệ với
Mỹ hơn nữa, tuy vậy chúng ta không đi với Mỹ để làm hại lợi ích của Trung Quốc
thì họ cũng khó ngăn cản, mà cản cũng không được nếu ta khôn khéo tính tóan
bước đi phù hợp. Cải thiện hơn nữa quan hệ với Mỹ sẽ còn góp phần hòa giải dân
tộc, thu hút tốt hơn nữa chất xám và vốn của Việt Kiều (thử hỏi mỗi năm không
có vài ba tỷ USD kiều hối bằng tiền mặt gửi về, tình hình cân bằng ngoại tệ của
ta sẽ ra sao).
(b) Với Nhật Bản
Trong quá khứ, Nhật Bản đã chiếm
đóng nước ta và gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, nhưng người Nhật đã có bồi
thường và tỏ ra có lỗi. Từ sau khi nước ta thống nhất, quan hệ giữa Nhật Bản và
Việt Nam
phát triển nhanh chóng, nhất là trong thời gian gần đây. Mọi người đều biết
Nhật Bản là cường quốc kinh tế số hai thế giới hiện nay, dù mấy năm nay sự phát
triển có phần chững lại, nhưng Nhật Bản vẫn là nước có tiềm năng dồi dào về vốn
và kỹ thuật, Nhật Bản là một trong vài nước đủ sức giúp ta phát triển nhanh
chóng. Nước ta cách xa Nhật Bản, không tồn tại vấn đề gay cấn. Cũng như ta,
Nhật Bản đang có vấn đề tranh chấp về biển, đảo với Trung Quốc, (Nhật đang
chiếm giữ đảo Seikaku mà Trung Quốc tự nhận là của mình với cái tên Điếu Ngư).
Người Trung Quốc còn thù dai tội ác của Nhật Bản gây cho họ trong thời gian xâm
lược (1937 - 1945) như cuộc tàn sát đẫm máu nhân dân Nam Kinh, việc sử dụng
người Trung Quốc làm thử nghiệm vũ khí vi trùng... Nhật Bản cũng đang tỏ ra lo
lắng trước sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Chúng ta đang ở thế nếu tiến
gần Mỹ sẽ bị Trung Quốc “không bằng lòng” và nếu gần Trung Quốc sẽ bị Mỹ “không
ưa”, và cả hai nước đều biết ta sẽ không đi với nước này chống nước kia, nên họ
sẽ cùng ép ta, chúng ta chống đỡ xoay xở rất khó. Đó là một thực tế khách quan.
Chính vì vậy mà nâng quan hệ về mọi mặt, nhất là về hợp tác kinh tế, kỹ
thuật với Nhật Bản lên tầm cao mới là vấn đề có ý nghĩa trọng đại.
Thi hành những chính sách, đối
sách trên không bao giờ nằm mục đích chống lại Trung Quốc. Chúng ta chỉ muốn
người láng giềng lớn mạnh này để yên cho chúng ta làm ăn theo sự lựa chọn có
lợi nhất cho chúng ta mà không làm tổn hại đến họ – chúng ta có đủ điều kiện
thuận lợi trong, ngoài để làm được điều đó. Nhưng thời gian thuận lợi khó có
ấy chỉ còn độ 10 – 20 năm nữa thôi. Cần thấy rõ điểm này để đoàn kết nội bộ
hơn nữa, tập trung được ý chí toàn dân hơn nữa, vận dụng tốt quan hệ với nước
ngoài hơn nữa, nhanh chóng xây dựng đất nước ta giàu mạnh lên.
Ngày
30/3/2005
Tài
liệu tham khảo
1/
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ 16, năm 2002.
2/
Báo cáo công tác của Chính phủ Trung Quốc tại kỳ họp Quốc Hội tháng 3 năm 2005.
3/
“Đại chiến lược Trung Quốc” năm 2002.
4/
“Báo cáo vấn đề Trung Quốc” năm 2001.
Và
một số chuyên đề, đề tai về Trung Quốc mà tác giả đã viết hoặc tham gia.
Bài viết của tác giả Dương Danh Dy-Nguyên là viên chức nhiều thập kỉ trong ngành ngoại giao Việt Nam.
Trước khi về hưu năm 1996, ông là Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Tất nhiên mọi nhận định, ý kiến trong bài này là của riêng tác giả, hoàn toàn
độc lập với quan điểm chính thức hay không chính thức của chính phủ Việt Nam,
hiện tại cũng như trong quá khứ. (Trích trong tạp chí Thời đại mới)